Tôi Là Thầy Tướng Số - Quyển 2 - Chương 7
Chương 7. GẬY ÔNG ĐẬP LƯNG ÔNG: THÀNH BÁT QUÁI TINH DIỆU VÔ SONG
VÀO SÂU HANG Ổ
Tổ Gia đợi đúng ba ngày, không thấy Bành tướng sĩ quay trở lại, đành phải một mình quay về Đường khẩu.
Tổ Gia về chưa được bao lâu, Tây Điền Mỹ Tử lại từ Đông Bắc bí mật đến Thượng Hải để thu khoản ăn chia của các hội đạo môn ở Giang Nam, đồng thời chỉ đạo kế hoạch tạo thanh thế mới.
Tổ Gia nhận thấy cơ hội đã đến.
Đêm đến, Tây Điền Mỹ Tử bày yến tiệc ở tô giới Pháp để thết đãi Tổ Gia.
“Tổ Gia, đã lâu không gặp, vẫn khoẻ chứ?” Tây Điền Mỹ Tử mỉm cười.
“Làm phiền Tây Điền tiểu thư quan tâm, gần đây bỉ nhân luôn trăn trở một chuyện…” Tổ Gia nói.
Tây Điền Mỹ Tử lại bật cười thành tiếng: “Tổ Gia xưa nay tâm tư khó đoán, không biết lại có cao kiến gì?”
Tổ Gia nhìn bà ta nói: “Tại hạ cho rằng, nên tuyển chọn ra một Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa trong số thủ lĩnh của các hội đạo môn, nhằm thống lĩnh các hội đạo môn quan trọng trong cả nước, như vậy sẽ càng phục vụ Thiên Hoàng bệ hạ tốt hơn.”
“Cái ghế Giang Nam đệ nhất vẫn chưa đủ cho Tổ Gia ngồi sao?” Tây Điền Mỹ Tử liếc nhìn ông đầy tình ý.
Tổ Gia mỉm cười, nói: “Tây Điền tiểu thư quá lời rồi, ăn bổng lộc vua, san sẻ lo âu với vua.”
Tây Điền Mỹ Tử cười giòn tan, nói: “Việc này e rằng sẽ không được phía Quân bộ ủng hộ, điều mà bên quân đội sợ nhất là người Trung Quốc các ông được tết thành một sợi dây thừng, bây giờ phân ra mà trị, không phải rất hay sao?”
Tổ Gia cũng cười lớn: “Quan điểm của bên Quân bộ không phải không có lý, chẳng có quy tắc nào cứ phải nhất nhất làm theo một lối, Tây Điền tiểu thư hẵng cứ nghe tôi nói. Phân ra để trị quả đúng là cách hay, nhưng sự cân bằng này sớm muộn gì cũng sẽ bị phá vỡ, cũng như lần trước Tây Điền tiểu thư đã phân tích, bọn đế quốc hùng mạnh cắt xẻo Trung Quốc, cùng hãm chân nhau, cùng giữ thế cân bằng, trước mắt chẳng kẻ nào có khả năng nuốt chửng cả Trung Quốc, nhưng Thiên Hoàng không thấy các đế quốc Âu – Mỹ cũng đang ra sức phát triển các tín đồ Tây dương bằng cách đưa tôn giáo thâm nhập vào đấy sao? Sự cân bằng ngoài mặt này không thể che đậy được mâu thuẫn giữa các cường quốc, cũng không thể che đậy được mâu thuẫn giữa người Trung Quốc với bọn đế quốc, sớm muộn gì Trung Quốc cũng xảy ra chuyện lớn! Một khi thế cục hỗn loạn, không ai có thể biết được các hội đạo môn sẽ quay về phe nào? Hội đạo môn phần lớn đều là đám người ô hợp, chẳng nói chuyện tín nghĩa gì đâu, Tây Điền tiểu thư chưa từng nghĩ đến điều này sao?”
Nụ cười tắt ngấm trên mặt Tây Điền Mỹ Tử: “Ý Tổ Gia là…?”
“Hiện giờ, các nước lớn ở Âu – Mỹ vừa mới thoát khỏi chiếc bóng âm u của khủng hoảng kinh tế, nhân lúc bọn họ còn chưa kịp nghĩ đến việc nắm lấy kẽ hở của các hội đạo môn này, Đế quốc Nhật Bản nên chủ động xuất kích. Chúng ta có ưu thế ở gần, lại cùng chung một dòng văn hoá, cần phải nắm chặt lấy mà thao túng tất cả các hội đạo môn ở Trung Quốc, đặc biệt phải thống nhất các hội đạo môn quan trọng ở các vùng Đông Bắc, Bắc Bình, Thiên Tân, Giang Hoài, Giao Đông, Phúc Kiến lại với nhau…”
Tây Điền Mỹ Tử hỏi: “Thống nhất dưới trướng của Tổ Gia?”
Tổ Gia lắc đầu, đáp: “Thống nhất dưới trướng của Đế quốc Nhật Bản.”
Tây Điền Mỹ Tử nở một nụ cười quỷ quyệt, nói: “Tổ Gia hãy cứ thống nhất Tứ đại Đường khẩu của phái Giang Tướng nằm dưới trướng của Đế quốc Nhật đi đã.”
Tổ Gia ngầm khen ngợi sự lọc lõi, xảo quyệt của Tây Điền Mỹ Tử.
“Có điều này Tây Điền tiểu thư không biết thôi, bỉ nhân từ lâu đã có ý định thống nhất phái Giang Tướng, nhưng phái Giang Tướng không giống với các hội đạo môn khác. Tứ đại Đường khẩu đã phân tách gần 300 năm rồi, tình trạng này tồn tại ngay từ khi sư tổ Phương Chiếu Dư thành lập phái Giang Tướng, không thể một sớm một chiều thống nhất được, không khéo còn đánh rắn động cỏ. Người cầm đầu Tây phái và Nam phái qua lại mật thiết với Quốc dân Đảng, bọn họ có muốn hợp tác với quan quân hay không vẫn là vấn đề, lúc này mà tôi lại ngang nhiên thu về một mối, e hỏng việc…”
Tây Điền Mỹ Tử gật đầu, mỉm cười nói: “Xem ra cái ghế Giang Nam đệ nhất này chẳng đủ cho Tổ Gia ngồi rồi, Tổ Gia muốn ăn miếng to kìa!”
Tổ Gia cười lớn: “Bỉ nhân chỉ đề nghị như vậy, còn về danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa nên do ai đảm nhận, hoàn toàn do phía quân đội định đoạt!”
“‘Nam Viên, bắc Vĩ, đông Nhạc Ngô, tam tiên quy lai vấn Tổ Gia’. Mánh khoé của ông vậy là đã đủ lắm rồi! Nhưng việc này một mình tôi không thể quyết định được, hơn nữa, mặc dù các hội đạo môn của Trung Hoa vàng thau lẫn lộn, nhưng đúng là trong số đó có không ít cao nhân thật sự, danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học không có chuyện thích thì có thể gắn lên người một vị nào đấy được, đặc biệt người Trung Quốc các ông gà cùng một mẹ rất thích đá nhau, chẳng ai chịu phục ai cả. Cho nên, có được danh hiệu này hay không, còn phải phụ thuộc vào bản lĩnh thật của chính bản thân Tổ Gia…” Tây Điền Mỹ Tử nói.
“Ngoài ra…” Tây Điền Mỹ Tử dừng lại một lúc, lại tiếp tục: “Ngoài ra, tôi mong rằng Tổ Gia không giở trò. Tổ Gia là người khôn ngoan, nên biết rằng thế cục lớn đến vậy không thể xoay chuyển được đâu…”
Tổ Gia cười vang: “Tây Điền tiểu thư quá lo rồi! Cái đất nước này đã chết ngất rồi, muốn làm cho nó hồi tỉnh lại, chỉ trông mong vào Nhật Bản. Không phải tôi vì các người, tôi chỉ vì mình thôi.”
Tây Điền Mỹ Tử mỉm cười gật đầu: “Sau khi trở về Mãn Châu, tôi sẽ báo ngay lên trên việc này, Tổ Gia đợi tin của tôi.” Nói xong, bà ta mở cửa sổ ra, ngước lên nhìn bầu trời đêm. “Cảnh đêm trêu ghẹo lòng người, ánh trăng cũng đẹp đẽ như ánh trăng biển bắc.”
Tổ Gia cũng đứng dậy nói: “Ánh trăng chỉ có một.”
Tây Điền Mỹ Tử quay người nói: “Hôm nay đã muộn quá rồi, Tổ Gia cứ ở lại đây nghỉ ngơi…”
Tổ Gia lắc đầu, chối từ: “Đa tạ Tây Điền tiểu thư, Đường khẩu nhiều việc, tôi nên quay về sớm thì hơn. Tây Điền tiểu thư nghỉ sớm, tại hạ cáo lui.”
Mắt Tây Điền Mỹ Tử ánh lên vẻ thất vọng.
HỘI THI HÙNG BIỆN DỊCH HỌC DO THIÊN HOÀNG BAN ÂN CHIẾU
Hai tháng sau, vừa giữa hè, Tây Điền Mỹ Tử bí mật điện báo cho các hội đạo môn, gần hai trăm thủ lĩnh của các hội đạo môn đã đến vùng chiếm đóng của người Nhật ở Thượng Hải.
“Ta đã tìm cách tiến cử Tổ Gia với Quân bộ, nhưng kế hoạch của bên Quân bộ là lần này phải tiến hành cuộc thi hùng biện công khai để chọn Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa, đúng dịp các học giả của Sở Cung giáo Quân bộ Nhật Bản và các đại sư giới Dịch học Nhật Bản đều có mặt, họ sẽ chọn ra ba cái tên đáng mong đợi nhất. Tổ Gia chỉ cần vào được tốp ba đó, việc lớn coi như đã thành!” Tây Điền Mỹ Tử nói với Tổ Gia.
Tổ Gia gật đầu: “Tây Điền tiểu thư yên tâm, tại hạ sẽ cố gắng hết sức.”
Ngày hôm sau, “Hội thi hùng biện Dịch học do Thiên Hoàng ban ân chiếu” được bí mật tổ chức tại khu đóng quân của người Nhật ở Thượng Hải. Tất cả thủ lĩnh của các hội đạo môn được chia thành mười nhóm, quy chế thi đấu như sau: Sau khi có kết quả hùng biện vòng một, các nhóm sẽ chọn ra người thắng cuộc; mười người thắng cuộc ở vòng hai sẽ lần lượt ra sân để đối đáp lại hơn hai trăm người, người thách thức có thể hỏi mọi vấn đề trong Dịch học, chín người được chọn còn lại cũng có thể đưa ra câu hỏi, chỉ cần người thách đấu không trả lời được một vấn đề hoặc trả lời không đúng câu hỏi thì sẽ bị loại ra khỏi cuộc chơi; ba người cuối cùng có câu trả lời nhiều nhất, hay nhất sẽ được chọn làm đối tượng đáng mong đợi, phía quân đội Nhật Bản sẽ tổng hợp, định đoạt ai xứng đáng trở thành Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học.
Việc chia nhóm hùng biện phải mất cả một ngày mới xong, mười người thắng cuộc lần lượt là:
Nhóm 1: Nhược Lan sư thái của Thái Cực Bang, Phúc Kiến.
Nhóm 2: Trịnh Bán Tiên của Ngọc Xích Đạo, Giao Đông.
Nhóm 3: Tổ Gia của phái Giang Tướng, Thượng Hải.
Nhóm 4: Mai Huyền Tử của Mai Hoa Hội, Thượng Hải.
Nhóm 5: Lưu Hạt Tử của Thiên Thánh Đạo, Bắc Bình.
Nhóm 6: Đồng Hoài Tú – truyền nhân phong thủy Tam Hoàng của Trung Nguyên Ngũ Hổ, Hà Nam.
Nhóm 7: Long Ngọc Phụng của Dao Trì Đạo, Thiên Tân.
Nhóm 8: Bùi Cảnh Long của Hoàng Cực Đạo, Bảo Định.
Nhóm 9: Đinh Tử Hà của Tử Hà Đường, Mãn Châu.
Nhóm 10: Tưởng Thiên Thừa của Thuận Thiên Giáo, Mãn Châu.
Đêm hôm đó, Tổ Gia gọi cả Hoàng Pháp Dung đến để chuẩn bị cho vòng thi chọn ra ba trong số mười người của ngày hôm sau. Cuộc thi biện luận lần này, Tổ Gia chỉ nói cho các Bá đầu của Đường khẩu, đồng thời ra lệnh: “Kẻ nào tiết lộ chuyện cơ mật sẽ phải chết!“
Việc tham gia cuộc thi hùng biện Dịch học do người Nhật tổ chức lần này khiến các Bá đầu đều cảm thấy khó hiểu, Nhị Bá đầu không nhịn được tò mò hỏi một câu: “Tổ Gia, thầy định làm gì vậy?”
Chuyện Tổ Gia “nương nhờ” người Nhật, trong nội bộ phái Giang Tướng, ngoài Giang Phi Yến ra, những người khác hoàn toàn không biết gì. Tổ Gia cũng không muốn để cho bọn họ biết quá nhiều.
“Chỉ cần mọi người đồng tâm hiệp lực giành cho được danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học là được, những việc khác không cần nghĩ đến.” Tổ Gia trả lời.
Đại Bá đầu lúc lắc cái đầu hỏi: “Tổ Gia… Không phải Tổ Gia đã nương nhờ… nương nhờ…”
Tổ Gia trợn mắt lườm, Đại Bá đầu sợ hãi không dám ho he nữa.
Nhị Bá đầu thấy bầu không khí có phần căng thẳng, liền nói: “Tổ Gia có sắp đặt riêng của thầy rồi, kinh nghiệm bao nhiêu năm nay cho chúng ta thấy, chỉ cần theo Tổ Gia, sẽ không đi lạc đường.”
Trương Tự Triêm há miệng định nói gì đó thì bị Hoàng Pháp Dung đứng sau lưng kéo áo, nên lại im bặt.
Ngũ Bá đầu Trương Kỳ Lĩnh hắng giọng ho lên một tiếng, nói: “Con tin theo Tổ Gia, Tổ Gia đi đâu con đi đấy.”
Nhị Bá đầu lườm anh ta một cái, nói: “Lẽ nào là Hán gian thì không xứng đáng?!”
Bầu không khí trong Đường khẩu bỗng trở nên căng thẳng.
Hoàng Pháp Dung là tay chân được Tổ Gia đặc cách cho tham gia vào cuộc họp, lúc này đã phát huy được uy lực: “Bùn nhiều thì đắp Phật to, nước lên thuyền lên, Tô Tần dùng thuyết hợp tung theo giúp Sở Vương, Trương Nghi lấy thuyết liên hoành phò trợ Tần Đế, lấy được danh hiệu Thái Sơn Bắc Đầu Dịch học chính là gián tiếp góp sức cứu nước, đối với phái Giang Tướng, đối với sức mạnh kết tụ của các hội đạo môn Trung Hoa, đều mang lại lợi ích lớn. Sư bá ra lệnh một tiếng, núi rung đất chuyển, kim vàng trích máu cùng thề, các huynh đệ cùng đồng tâm hiệp lực. Lẽ nào các vị đã quên lời thề khi bước vào phái Giang Tướng rồi sao?”
Tổ Gia ngước mắt nhìn bà ta, nói với tất cả mọi người: “Còn nghi ngại điều gì nữa không?”
Lời này của Tổ Gia đồng nghĩa với câu: “Giải tán cuộc họp.” Kỳ thực mọi người nghe mà vẫn còn lơ mơ, cái hiểu cái không. Cứ thế, mỗi người đều rời khỏi Đường hội mà lòng vẫn còn phảng phất nỗi ngờ vực.
ĐẠI SƯ CỐT TƯỚNG CỦA THIÊN THÁNH ĐẠO
Giờ Thìn ngày hôm sau, cuộc thi hùng biện chọn ra ba người xuất sắc trong số mười người bắt đầu. Mười người được đề cử lần lượt bốc thăm, họ sẽ tham gia phần thi thách đấu theo số thứ tự đó.
Cuộc thi biện luận, hùng biện đã có từ thời xưa, mỗi cuộc thi giống như một trận chiến, không dao súng kiếm kích mà chủ tâm giết người bủa vây bốn phía, không thấy máu chảy, chỉ bằng lời nói mà có thể bịt miệng người ta. Trước khi lên hùng biện, cần phải chuẩn bị chu đáo, biết mình biết ta, trăm trận trăm thắng; trong lúc hùng biện, môi như mang gươm, lưỡi như mang kiếm, anh chém tôi đỡ, tránh mạnh đánh yếu, tránh thật đánh hư; sau cuộc hùng biện, vẻ mặt phải vui vẻ hoà nhã, thua hay thắng cũng không được làm ảnh hưởng đến mọi người.
Tổ Gia chưa bao giờ chơi trận nào mà không có sự chuẩn bị. Trước đó vài tháng, ông đã phái các Bá đầu đi điều tra tình tình của từng hội đạo môn.
Người đầu tiên lên bục diễn thuyết chính là “Kim cương” Lưu Hạt Tử thuộc phân đà Bắc Kinh của Thiên Thánh Đạo.
Sở dĩ bị gọi là Lưu Hạt Tử (Lưu mù) bởi khi còn bé, mắt trái của ông ta đã bị hỏng vì chơi đốt pháo, mắt phải cũng chỉ có thể nhìn được đồ vật mờ mờ.
Sau khi Lưu bị mù một mắt, cha mẹ ông ta lo lắng khống biết đứa con này về sau sẽ sống thế nào. Nhưng ông trời không tuyệt đường của người ta, ở U Châu gần Bắc Kinh có bậc thầy Cốt tướng (sờ xương) mù lòa, nghe nói đám trợ tá của Trương Tác Lâm cũng từng đến nhờ vị đại sư này, mẹ của Lưu mù đã nhờ người nói hộ, xin đại sư thu nhận con trai mình làm đồ đệ, mong về sau nó cũng có miếng cơm ăn.
Pháp Cốt tướng có từ thời tiên Tần, cũng thuộc phạm trù xem tướng, kỳ thực chính là kiểu xem tướng xương. Người tinh có thể vừa xem vừa sờ, còn người mù loà chỉ có thể dùng tay sờ, nhưng người mù không bị ảnh hưởng bởi thị giác, thường đưa ra phán đoán chuẩn xác hơn.
Khi Lưu Hạt Tử vừa ngồi xuống đã có người đầu tiên nhảy tót lên hỏi. Mọi người cùng đưa mắt nhìn, thì ra chính là chưởng môn mới nhậm chức của tổng đà Thiên Thánh Đạo – Tả Vịnh Thiền. Tả Vịnh Thiền vốn nghĩ rằng, lần chia nhóm tranh luận này một chưởng môn như mình sẽ lọt được vào tốp mười, không ngờ người lọt vào chỉ là một kẻ ở cấp Kim cương của một phân đà, trong lòng hắn căm tức vô cùng. Hắn đâu biết rằng, tất cả đều do bọn người Nhật giở trò. Tả Vịnh Thiền là kẻ quá nham hiểm, thâm độc, cứ có sữa là gọi mẹ, nếu để hắn lên làm Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học, thứ nhất hắn sẽ không phục tùng. thứ nữa, một khi có biến, kẻ khác hứa hẹn lợi ích lớn hơn, chắc chắn hắn sẽ trở mặt. Tìm Hán gian cũng cần phải tìm kẻ có phẩm chất, bởi vậy hắn đã bị loại ngay từ vòng sơ tuyển.
“Lưu sư gia thường ngày bói tướng xương không ít, đã từng xem cho mình chưa?” Câu đầu tiên Tả Vịnh Thiền hỏi đã nhồi đầy thuốc nổ.
Lưu Hạt Tử ngước con mắt phải lên, cũng không rõ ông ta có nhìn thấy Tả Vịnh Thiền hay không, chỉ cười khà rồi đáp: “Chúng ta từ khi lọt lòng đến nay, thân này, da tóc này đều là của cha mẹ cho ta. Cốt tướng là thuật tiết lộ thiên cơ, mặc dù bỉ nhân hiểu được thuật này, nhưng không dám tuỳ tiện đem nó ra làm trò vui, cho dù người ta đến cửa nhờ xem giúp, tôi cũng phải thắp ba nén nhang, bảo họ phải thành tâm, mới có thể tiết lộ. Còn về bản thân tôi, từ khi bái sư, chính tay sư phụ đã xem tướng đầu, cốt tướng của tôi chỉ có thầy tôi xem cho, tôi chưa xem thêm lần nữa.”
Lưu Hạt Tử rất nhạy bén, ông ta đã liệu trước, nếu trả lời chưa từng xem cho mình thì Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ công kích: Đại sư Cốt tướng mà lại chưa từng xem cho mình, nghe không thấy tức cười sao? Nếu ông ta đáp mình đã từng xem cho mình thì Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ vặn vẹo: “Đã làm rồi thì vận khí năm nay thế nào? Trong hội thi hùng biện lần này, ông có nhòm ngó ngôi đầu không?” Đến lúc này, dù Lưu Hạt Tử trả lời có hay không cũng đều bị dồn vào thế bất lợi.
Chiêu đầu tiên của Tả Vịnh Thiền đã bị đối phương dùng chiêu binh đến tướng chặn, hắn liền túm lấy một tên thanh y tép riu, đẩy hắn lên trước bục diễn thuyết: “Nghe danh thầy Lưu xem tướng xương chuẩn xác từ lâu, nhưng trong giới xem tướng, cũng có rất nhiều người hoài nghi về Cốt tướng này. Hay là hôm nay thầy Lưu đích thân xem cho đồ đệ của ta xem sao. Lưu sư gia không cần nói sau này nó thế nào, chỉ cần nói về những việc lớn đã xảy ra trước đây của nó là được!”
Đây là nước cờ chết – dự đoán tại chỗ, thầy tướng số sợ nhất việc này. Bất kể là xem Bát tự, lục hào, phong thủy, hay xem tướng mặt… bị kê tại chỗ thế này, ai chẳng hoang mang, loạng choạng. Có bản lĩnh thật sự hay không tạm thời không cần nói đến, cho dù có bản lĩnh thật sự, trước trăm con mắt dõi nhìn chòng chọc, khó mà tránh khỏi sai sót. Hơn nữa, Tả Vịnh Thiền lại chặt đứt đường lui của Lưu Hạt Tử, chỉ cho ông ta nói những chuyện đã xảy ra trước đây, không để cho ông ta nói đến những chuyện sau này, vì những việc chưa xảy ra cần phải có thời gian kiểm chứng, còn những việc trước đây có thể kiểm chứng ngay tại chỗ.
Lưu Hạt Tử cười ha hả: “Tả Chưởng môn làm khó tại hạ rồi! Tôi có thể thực hiện thuật Cốt tướng ngay tại đây, nhưng không thể xem cho đệ tử của Thiên Thánh Đạo được, anh và tôi thuộc cùng môn phái, cho dù tôi có nói đúng, các vị có mặt ở đây cũng sẽ cho rằng chúng ta thông đồng với nhau, nghi ngờ chúng ta gian lận.”
Lưu Hạt Tử đã lấy gậy của hắn mà đập lưng hắn, ông ta biết rõ, cho dù mình có phán trúng thì đệ tử của Tả Vịnh Thiền chắc chắn sẽ phủ nhận tất cả, nếu không lúc quay về hắn sẽ phải chết, một thanh y mà lại không hiểu được “luật chơi” này sao?! Nhưng Lưu Hạt Tử cũng hơi run, ngộ nhỡ người Nhật lại tìm một người đưa lên, xem chuẩn hay không, trong lòng ông cũng không dám chắc.
Tổ Gia nhìn ra huyền cơ trong việc này, ông bắt đầu thi triển thuật hợp ngang chia dọc, kẻ thù của kẻ thù là bạn của mình, cách để giành được thắng lợi trong cuộc chiến chính là đoàn kết tất cả các sức mạnh có thể đoàn kết được lại với nhau, loại dần từng tên một.
“Nếu đã như vậy, tôi làm người đứng giữa vậy. Để thử nghiệm, Lưu sư gia hãy xem tướng xương cho tôi với thân phận là Chưởng môn đời thứ mười bốn của phái Giang Tướng, Tả chưởng môn có ý kiến gì không?” Tổ Gia nói.
Mai Huyền Tử ngồi bên cười thầm vì ông ta nhìn rõ dụng ý của Tổ Gia.
Tả Vịnh Thiền nhìn Tổ Gia, rồi lại nhìn Tây Điền Mỹ Tử, Tây Điền Mỹ Tử gật đầu, Tả Vịnh Thiền thầm nghĩ: Xong rồi! Hắn đành phải gật gù cái đầu.
Tổ Gia đứng dậy bước lên, Lưu Hạt Tử lúc này vẫn chưa biết Tổ Gia có ý gì, không biết Tổ Gia nhảy ra là muốn giúp mình hay muốn hại mình đây?!
“Lưu sư gia, mời!” Tổ Gia mỉm cười nói.
Lưu Hạt Tử hấp háy con mắt phải, giơ hai tay ra, bắt đầu sờ từ tay đến cánh tay, từ cổ đến đầu. Sau đó dõng dạc nói: “Tổ Gia xương cốt lạ thường, là hậu duệ của hàng môn tướng, tổ tiên từng có người làm quan trong triều, huynh đệ tỷ muội không quá ba người, cha mẹ mất sớm…”
Tổ Gia gật đầu, nói: “Đúng cả! Nhưng những chuyện này, bạn bè đồng đạo đều biết, Lưu sư gia hãy nói những chuyện khác xem!” Ý Tổ Gia muốn bảo ông ta: “Ông diễn kịch cũng phải diễn sao cho ra trò, chứ nói những chuyện ấy lừa gạt đám quân Nhật, ông coi người Nhật là lũ ngu sao?”
Lưu Hạt Tử hiểu ngay, liền nói: “Năm tuổi, Tổ Gia phạm Thủy ách, bị ngã sông, suýt nữa chết đuối. Mười hai tuổi, bị hung tinh Hồng loan chiếu, một phụ nữ lớn tuổi có hành vi dâm loạn với ông.”
Tổ Gia nghe thấy thế, suýt chút nữa phì cười, nhưng ông nghiêm mặt nói: “Lưu sư gia thật lợi hại! Đều đúng cả!”
Tiếng vỗ tay như sấm dậy vang lên bên dưới khán đài.
Lúc này, lẽ ra Lưu Hạt Tử phải biết chừng mực mà dừng lại, không ngờ ông ta lại hăng hái hơn, vừa sờ vừa phán: “Xương ngọc chẩm phía sau đầu Tổ Gia nổi lên, đây là tướng đại phú đại quý, phàm việc gì cũng gặp hung hoá cát, gặp tai lại may mắn tốt lành…”
Tổ Gia nghĩ thầm: Để ông đùa chút vậy là đủ rồi, ông còn không biết dừng lại. Liền nói: “Tôi nghe nói nếu xương ngọc chẩm quá to sẽ bị coi là phản cốt (một thuật ngữ trong Cốt tướng). Đại tướng Ngụy Diên nước Thục thời Tam Quốc có cái xương hơi to quá sau ót, Gia Cát Khổng Minh nhìn ra đó là phản cốt. Trên từ Lưu Bị, dưới từ đám binh lính đều cho rằng Ngụy Diên dũng mãnh thiện chiến, trung nghĩa can đảm, nhưng Gia Cát Lượng lại sinh lòng nghi ngờ ông ta. Về sau, quả không ngoài dự đoán, Gia Cát Khổng Minh vừa chết, Ngụy Diên liền làm phản, cũng may Khổng Minh đã có sự đề phòng từ trước, sắp xếp Mã Đại làm nội ứng bên cạnh Ngụy Diên, sau Mã Đại chém tên tướng làm phản đó ngã xuống ngựa. Lưu sư gia nói tôi xương ngọc chẩm nổi rõ, là đang muốn khen hay chê tại hạ vậy? Khà khà!”
Những người ngồi dưới khán đài đều bật cười. Mặt Lưu Hạt Tử đỏ lên, cả cục thịt bên mắt trái cũng đỏ au.
Tổ Gia dùng cách đùa cợt để bảo Lưu Hạt Tử đừng có đùa bỡn quá đà. Cho một quả táo ăn, rồi lại tát cho một cái, vừa mua chuộc lòng người, vừa khiến đối phương phải biết chừa mặt mình ra, Tổ Gia đã đạt được mục đích.
Cuộc tranh luận lại tiếp tục, một vài người dưới khán đài thay nhau hỏi thêm một số kiến thức về Cốt tướng, Lưu Hạt Tử đáp lại từng câu một, cuối cùng hạ cánh an toàn.
BÓI TỨ TRỤ
Người thứ hai ra sân chính là Trịnh Bán Tiên ở Giao Đông. Người này chiếm cứ vùng Giao Đông đã lâu, nghe nói trình độ bói bát tự cao thâm, được người ta ca tụng là thần tiên sống, chỉ cần nói cho ông ta biết Bát tự, ông ta sẽ bói ra tình hình sức khoẻ, tài vận, đường quan lộ, lục thân của người đó.
Lục thân là một thuật ngữ chỉ mối quan hệ xã hội do bát tự của một người sinh ra.
Những người hay đi xem tướng số đều biết rằng, thầy tướng số có thể nhìn ra được các sự việc của cha mẹ, anh chị em, bạn đời, thậm chí cả ông bà mình, đều bởi căn cứ vào Lục thân mà suy đoán ra.
Lục thân chỉ: cha mẹ, anh em trai, chị em gái, vợ, quan sát tinh, con cái. Qua Bát tự, căn cứ vào mối quan hệ sinh khắc trong ngũ hành mà có được Lục thân.
Bát tự phân chia thành tứ trụ: năm sinh là một trụ, tháng sinh là một trụ, ngày sinh là một trụ, giờ sinh là một trụ, mỗi trụ lại do một thiên can và một địa chi kết hợp tạo thành, tất cả gồm tám chữ, cho nên được gọi là Bát tự.
Khi suy đoán, dùng nhật trụ để biểu thị cho mình, đặc biệt phải dùng thuộc tính ngũ hành thiên can của nhật trụ để đoán ra Lục thân, đây là bước thứ nhất khi đoán mệnh. Ví dụ, nếu một người sinh vào ngày Canh Thìn, vậy thì lấy chữ Canh biểu thị cho mình, đồng thời coi chữ Canh là trung tâm, từ đó đoán ra lục thân của anh ta.
Canh là một trong mười can, ngũ hành thuộc Kim, cách suy đoán lục thân như sau:
Sinh ra ta là cha mẹ. Canh là Kim, Thổ sinh Kim, bởi vậy, cha mẹ của Kim chính là Thổ, nếu trong ba trụ còn lại xuất hiện ngũ hành thuộc Thổ, như Mậu Thổ hoặc Kỷ Thổ, chữ đó sẽ tượng trưng cho người mẹ.
Ta sinh ra là con cái. Canh là Kim, Kim sinh Thủy, cho nên, con cái của Kim chính là Thủy, nếu trong ba trụ còn lại xuất hiện ngũ hành thuộc Thủy, như Nhâm Thủy hoặc Quý Thủy, chữ đó sẽ tượng trưng cho con cái.
Ta khắc là Thê tài. Canh là Kim, Kim khắc Mộc, cho nên Mộc là thê tài của Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Mộc, như Giáp Mộc hoặc Ất Mộc, vậy thì chữ đó tượng trưng cho vợ. Đương nhiên, người xưa có năm thê bảy thiếp, nên chia thành Chính tài và Thiên tài, nhưng trong chế độ xã hội ngày nay, thực chất cũng không thay đổi, nếu trong bát tự của một người đàn ông Tài tinh quá nhiều cho thấy anh ta dễ có tình nhân.
Khắc ta là Quan sát. Canh thuộc Kim, Hoả khắc Kim, Hoả chính là Quan sát của Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Hoả, như Bính Hoả hoặc Đinh Hoả, vậy chữ đó tượng trưng cho cấp trên. Đối với nữ giới, vì địa vị xã hội thấp kém, bị nam giới khắc chế, nên quan sát trong bát tự của nữ giới chính là chồng, phụ nữ thời xưa vì thế gọi chồng là “quan nhân”.
Ngoài bốn mối quan hệ sinh ta, ta sinh, ta khắc, khắc ta này ra, còn có tình trạng không sinh không khắc, đó chính là Tỷ kiếp. Canh là Kim, nếu trong ba trụ khác xuất hiện ngũ hành thuộc Kim, như Canh Kim hoặc Tân Kim, vậy thì những chữ này được gọi là Tỷ kiếp, tượng trưng cho anh em trai và chị em gái.
Đoán Bát tự, đầu tiên là phải phân tích sự mạnh yếu của nhật can, rồi mới xem đến mối quan hệ sinh khắc của nhật can với can chi khác, sau đó kết hợp với Đại vận và Lưu niên để suy đoán cát hung.
Tổ Gia đã phái Hoàng Pháp Dung đi điều tra nội tình bên phía Trịnh Bán Tiên. Lão này tuổi đã ngoài ngũ tuần, dáng người không cao, hơi gày gò, râu dài, dáng vẻ quắc thước, tạo cho người ta cảm giác ông ta thật sự mang dáng vẻ của thần tiên. Người này chiếm cứ ở Giao Đông nhiều năm, bản lĩnh xem Bát tự khá cứng. Tổ Gia sợ nhất là loại người này, có bản lĩnh thật sự mà lại đi lừa đảo, khác gì như hổ thêm cánh. Phường lừa đảo đầu óc ngu dốt không đáng sợ, loại có thể vượt nóc băng tường mới đáng sợ, Tổ Gia thề sẽ bắt Trịnh Bán Tiên hiện nguyên hình.
Sau khi Trịnh Bán Tiên yên vị, dưới khán đài, người đầu tiên vọt lên hỏi: “Trịnh sư gia nghiên cứu Bát tự đã nhiều năm, có thể nói cho tại hạ hay, rốt cuộc mệnh quan trọng hay vận quan trọng? Nguyên lý nằm ở đâu?”
Mọi người cùng nhìn về phía người phát ra câu hỏi ấy, đó là một phụ nữ dáng vẻ xuất chúng, thoát tục, cặp mắt to, sáng ngời – không ai khác ngoài “quỷ muội” Hoàng Pháp Dung. Việc này Tổ Gia đã dàn xếp.
Trịnh Bán Tiên gật đầu, điềm đạm nói: “Vận mệnh thực ra là hai từ, một là mệnh, một vận. Mệnh chính là Bát tự, sinh ra sẽ không thể đổi khác được cho đến tận lúc chết; còn vận, cứ mười năm lại thay đổi một lần, bởi vậy mới có câu ’thập niên nhất Đại vận’, đời người tất cả có bát bộ Đại vận (tám Đại vận). Trong hai chữ vận mệnh, lão hủ cho rằng, mệnh là căn bản, là gốc rễ, vận là phụ trợ, là phần ngọn. Mệnh được tạo ra từ tiên thiên (bẩm sinh), thuộc về số trời, không thể thay đổi, còn vận là khí hậu thiên sau này, có thể dùng các phương pháp phong thủy, bùa chú để điều chỉnh. Tiên Ẩn Môn của tôi sừng sững ở Giao Đông 50 năm chưa từng bị quật đổ, đều nhờ vào sự ứng nghiệm trong việc hoá giải tai ương hậu thiên cho bách tính…” Lúc này, Trịnh Bán Tiên vẫn không quên quảng cáo về mình.
“Trịnh sư gia nói sai rồi!” Tổ Gia đứng dậy lớn tiếng: “Mệnh thư viết: Hữu bệnh phương vi quý, vô thương bất thị kỳ. Phần lớn những nhân vật làm mưa làm gió, trong mệnh đều mang bệnh. Trong Bát tự, hoặc Thương quan quá vượng, hoặc Ấn tinh suy nhược, hoặc Quan sát hợp thân, lúc còn nhỏ đa nạn đa tai, rơi vào cảnh ngộ nguy hiểm, một khi Đại vận đến, được vận thế tương trợ, vực dậy như cơn lốc, vận mệnh của người này sẽ có sự biến đổi hoàn toàn. Xa xôi thì có Chu Nguyên Chương, mới gần đây có Hồ Tuyết Nham, bọn họ đều là những minh chứng sống.”
Trịnh Bán Tiên sững người: “Khà khà, thì ra Tổ Gia của phái Giang Tướng. Thất kính! Thất kính! Vậy ý Tổ Gia là đại vận còn quan trọng hơn cả Bát tự? Mệnh của một người như một cái cây, Bát tự là gốc rễ, là căn bản, rễ ăn sâu cành lá mới xum xuê, những người nghèo trước giàu sau, cho dù phất lên như diều gặp gió, cũng bởi nhờ trong mệnh có sự báo hiệu giàu có, chẳng qua đến đại vận mới diễn ra.”
Tổ Gia cười khà khà, nói: “Nếu giàu nghèo hay phú quý đều được ghi hết trong Bát tự, vậy thì phương pháp cải mệnh hậu thiên của Trịnh sư gia là căn cứ vào đâu?”
Trịnh Bán Tiên vừa nghe xong thì thấy như thể mình bị dây quấn cổ, vội vàng nói: “Phương pháp giải nạn hậu thiên đã có từ xưa rồi, lẽ nào Tổ Gia lại chê cười các bậc tiên thánh thời xưa hay sao?”
Tổ Gia nói chắc nịch: “Dịch sinh ra từ thuật bốc phệ, bất kể là Bát tự, lục hào hay các thuật số khác, vạn pháp cũng không tách rời khỏi quy luật biện chứng âm dương. Mối quan hệ giữa mệnh và vận, chính là mối quan hệ giữa trứng gà và gà con, không có trứng gà thì không không bao giờ ấp được thành gà con, nhưng nếu không có nhiệt độ thích hợp, trứng gà sẽ bị ung hỏng, cũng không thể thành gà con được. Mệnh và vận, trong âm có dương, trong dương có âm, âm dương cùng biến đổi trong nhau, tạo hoá đã như vậy. Không phải các bậc tiên thánh thời xưa sai, chỉ là Trịnh tiên sinh giải thích hơi sai lệch!”
“Ông…” Trịnh Bán Tiên mặt mũi đỏ bừng lên.
Tổ Gia thuận đà xông lên, nói tiếp: “Trịnh sư gia nghiên cứu, học tập Bát tự đã lâu, đã từng xem cho mình chưa? Chắc Trịnh sư gia không giống như Lưu sư gia, chỉ được sư phụ xem cho lúc nhỏ chứ? Bát tự khác với Cốt tướng, có thể thường ngày đem ra xem chơi để giải khuây.”
“Nếu đã xem rồi, tôi nghe nói, cảnh giới dự đoán cao nhất theo Bát tự là có thể xác định được cát hung theo từng ngày, Trịnh sư gia thấy hôm nay có thể giành được danh hiệu quán quân, hay giữa đường ngã ngựa vậy?” Tổ Gia tiếp tục vặn hỏi.
Trịnh Bán Tiên không hổ là kẻ lọc lõi, già đời, ông ta lấy lại bình tĩnh, cười khanh khách: “Tổ Gia sai rồi! Cảnh giới dự đoán cao nhất theo Bát tự không phải là xác định cát hung cho mình, mà là có thể nhìn thấy được thành bại của đối thủ thông qua Bát tự của mình. Tối qua tôi đã xem Bát tự cho mình, đoán biết được rằng, hôm nay phàm kẻ nào xích mích với mình, tất sẽ bại! Nhưng tôi không nghĩ người đó lại là Tổ Gia. Khà khà!”
Trịnh Bán Tiên bật lại cũng không tồi, Tổ Gia bị đâm một nhát khá nhức.
Tây Điền Mỹ Tử cũng nhìn ông, thầm nghĩ Tổ Gia lần này bước hẫng chân rồi.
Tổ Gia mỉm cười, sau đó tung ra vũ khí giết người: “Hay là thế này, Trịnh sư gia dùng thuật dự đoán Bát tự của mình, tôi dùng Thiết Bản thần toán của tôi, chúng ta so tài ngay tại đây, ông thấy thế nào?”
Đám người ngồi bên dưới rộ lên xì xào. Đại sư và Đại sư cùng “xướng ca” trên sân là điều cấm kỵ, hai kẻ mạnh gặp nhau tất sẽ cùng mang thương tật, trong giang hồ hiếm khi có người giơ quân bài đó ra, trừ phi đó là kẻ tử thù của mình, vì không ai chịu thua.
Trịnh Bán Tiên bị dồn đến chân tường, trợn trừng mắt gật đầu: “Đọ thế nào?”
“Chúng ta cùng nói Bát tự của mình, sau đó cùng chỉ ra việc riêng tư của đối phương.”
Mọi người dưới khán đài càng kinh ngạc hơn.
“Làm sao tôi biết Tổ Gia có nói dối hay không chứ?” Trịnh Bán Tiên nhếch mép cười.
“Khà khà, người quân tử thẳng thắn phóng khoáng, kẻ tiểu nhân mới lo lắng quanh co. Tôi còn không sợ Trịnh sư gia nói dối, ông sợ cái gì chứ?”
Bầu không khí căng thẳng hẳn lên.
“Được!” Trịnh Bán Tiên đã không còn đường lui.
Hai người liền trao đổi Bát tự cho nhau, thật giả thế nào chẳng ai biết. Kỳ thực, lúc này thật hay giả chẳng quan trọng, hai vị Đại sư đấu nhau chính là đấu trí.
Ngay sau đó, Tổ Gia tỏ ra khiêm nhường: “Mời Trịnh sư gia trước?”
“Mời Tổ Gia trước!” Trịnh Bán Tiên khôn ngoan thừa biết, khi đấu kiểu này, kẻ xuất chiêu trước thường để lộ sơ hở.
Tổ Gia mỉm cười: “Được. Nhưng… có điều, tôi sợ tôi nói xong rồi, Trịnh sư gia sẽ không còn cơ hội mở miệng.”
“Chà chà chà, từ lâu đã nghe nói Anh diệu của phái Giang Tướng cao siêu, nay gặp được, quả là danh bất hư truyền. Nhưng hôm nay chúng ta đấu nhau là đấu bản lĩnh thật sự kìa, chỉ dựa vào Anh diệu e không xong!”
“Khà khà! Trịnh sư gia nói rất phải, tôi đã nghe rõ rồi! Nếu Bát tự của Trịnh sư gia đưa cho tôi là đúng, vậy thì ông lúc năm tuổi khắc mẫu thân, năm đó mẫu thân qua đời!”
“Chà chà, cực kỳ đúng!” Trịnh Bán Tiên cười. “Nếu ngày sinh của Tổ Gia là đúng, năm mười lăm tuổi khắc lục thân, khiến năm đó cha mẹ, tổ mẫu, huynh đệ tỷ muội chết cả!”
Miệng lưỡi của Trịnh Bán Tiên quá độc địa, lão ta muốn gợi chuyện đau lòng hòng làm rối loạn tâm tư Tổ Gia.
Tổ Gia gật đầu: “Những việc này của tôi và ông, các huynh đệ đồng đạo ai cũng biết. Tôi nói ra một chuyện lớn mà không một ai biết, ông thấy được không?”
Trịnh Bán Tiên sững người: “Xin mời!” Trong lòng ông ta biết rõ, nếu đã là chuyện mọi người đều không biết, cho dù ông nói đúng hay sai, tôi chỉ việc nói “không đúng” là được.
Ông ta không ngờ được Tổ Gia lại nói: “Bát tự và tướng mặt của một người tương thông với nhau, Bát tự đại phú đại quý thì tướng mặt và dáng vẻ tất sẽ biểu lộ tướng phú quý, tương tự như vậy, người có dáng dấp hèn mọn, thân thể khuyết tật thì trong Bát tự cũng có những biểu hiện tương ứng. Trong Bát tự của Trịnh sư gia hai Dần khắc chế Tý Thủy và Hợi Thủy, lại biểu hiện ra trên người, chính là…”
“Là cái gì?” Trịnh Bán Tiên vội hỏi.
“Chính là tình trạng thân thể bị ẩn cao!”
“Ồ!” Tiếng xì xào vang lên dưới khán đài.
Ẩn cao là một thuật ngữ y học, chỉ tình trạng một người đàn ông bẩm sinh không có tinh hoàn trong âm nang, đối với một người đàn ông mà nói, đây chính là một đòn chí mạng.
“Ông?!” Mặt Trịnh Bán Tiên méo xệch đi.
“Có cần phải kiểm chứng tại chỗ không?” Tổ Gia truy đến cùng.
Có nằm mơ Trịnh Bán Tiên cũng không thể nào ngờ được rằng Tổ Gia lại kết hợp Bát tự và tướng học với nhau, chém thẳng vào điểm yếu thuộc về sinh lý của mình. Chuyện ẩn cao là chuyện tuyệt mật của ông ta, không một ai được biết. Ông ta nghi hoặc, không biết Tổ Gia đoán ra được thật, hay dùng cách gì khác mà biết được?
Bầu không khí trở nên ngượng ngập đến cực điểm, tiếp theo Trịnh Bán Tiên liệu có tụt quần ra không?
Lúc này, Tổ Gia quay mũi nhọn đi chỗ khác: “Ha ha, vừa rồi tôi chỉ đùa Trịnh sư gia thôi, mong Trịnh sư gia không trách, mong các vị không trách!” Nói xong, ông chắp tay xin lỗi Trịnh Bán Tiên.
Lúc này, Trịnh Bán Tiên mới nhếch được cái mép lên, cười gượng, vội vàng đáp lễ: “Tổ Gia thật hài hước!”
“Chúng ta tiếp tục chứ?” Tổ Gia hỏi.
“Kìa… Tổ Gia tài nghệ cao thâm, tuyệt đối không thấp hơn bỉ nhân, bỉ nhân đã già nua, xin nhường lại cho lớp người trẻ tuổi!”
Hoàng Pháp Dung đứng lên, vỗ tay đầu tiên, mọi người còn đang ngơ ngác, cũng vỗ tay theo.
Trịnh Bán Tiên xem như vẫn giữ được thể diện mà rút lui.
Tây Điền Mỹ Tử và các vị đại sư Nhật Bản ngồi dưới khán đài đều trố mắt không nói được gì, chỉ thầm nghĩ trong lòng: Tên Tổ Gia này thật không đơn giản!
Bảy người được đề cử còn lại cũng phải kinh hồn bạt vía, tên Tổ Gia này chơi thứ ma thuật gì, mà lại lợi hại đến thế?!
BÓI LỤC HÀO
Tiếp theo, đến lượt Nhược Lan Sư thái ở Phúc Kiến. Bà già ngoài 60 này rất giỏi thuật giữ gìn nhan sắc, dù đã lớn tuổi nhưng da dẻ trắng ngần, khi bước lên bục diễn thuyết, bà ta mang theo cả hương thơm phảng phất, êm dịu.
Sở trường của Nhược Lan sư thái là bói lục hào.
Dự đoán lục hào là dùng ba đồng tiền đồng giống nhau, như đồng Càn Long Thông Bảo, để trong lòng bàn tay, hai tay khép lại, thành tâm nhẩm đọc việc đang muốn hỏi, lắc lắc, tung xuống bàn, sau khi chúng nằm yên trên mặt bàn, nhìn xem mấy đồng mặt khắc chữ ngửa lên, mấy đồng mặt khắc hoa văn ngửa lên. Mỗi một lần tung được ghi là một hào, lặp lại sáu lần, sẽ được sáu hào (lục hào).
Việc tung xóc như vậy sẽ cho ra bốn kết quả: ba đồng đều có hình hoa văn; ba đồng đều là mặt chữ; hoặc một mặt hoa văn, hai mặt chữ; hoặc một mặt chữ, hai mặt hoa văn.
Cứ ba mặt đều là hoa văn hoặc một hoa văn hai chữ thì dùng nét ngang liền biểu diễn: “–”; còn cứ ba mặt đều là mặt chữ hoặc một chữ hai hoa văn, thì dùng nét ngang đứt biểu diễn: “– –”.
Giả sử, sau sáu lần, lần lượt như sau: ba hoa, ba chữ, một hoa hai chữ, một chữ hai hoa, ba chữ, ba hoa. Như vậy, quẻ này được ghi thành:
Hào 6: ―
Hào 5: – –
Hào 4: – –
Hào 3: ―
Hào 2: – –
Hào 1: ―
Lục hào được sắp xếp từ dưới lên trên, thấp nhất là hào 1, trên cùng là hào 6, cho nên mới có câu: Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch. Bói Lục hào căn cứ vào quẻ tượng xóc được, phối hợp với các yếu tố của can chi ngũ hành để luận đoán.
Nghe nói, Hoàng đế khai quốc triều Minh Chu Nguyên Chương cũng từng gieo đồng xu. Khi còn làm hoà thượng trong chùa, Chu Trọng Bát thấy tiền đồ của mình quá mịt mờ, vì thế liền tìm ba đồng xu thử bói. Ông ta nắm đồng xu trong lòng bàn tay, thầm khấn: Ông trời ơi, xin hãy chỉ dẫn cho con một lối đi, nếu là mặt chữ, con sẽ ở lại chùa làm hoà thượng, nếu là mặt hoa văn, con sẽ đi nương nhờ người ta. Kết quả ông trời lại trêu ngươi Chu Nguyên Chương, sau khi tung lên, đồng xu lăn qua lăn lại, cuối cùng bị kẹp thẳng đứng trong một cái khe, không phải mặt chữ, cũng chẳng phải mặt hoa văn. Chu Nguyên Chương thần người ra. Vậy là sao đây? Vừa không cho con đi nương nhờ kẻ khác, cũng không cho con làm hoà thượng, lẽ nào bảo con phải tự mình làm? Thế rồi lão Chu làm một mình thật, cuối cùng thống nhất giang sơn.
Sau khi Nhược Lan Sư thái yên vị, bà cầm cây phất trần trong tay, nói: “Các vị Đại sư, xin mời chỉ giáo!” Trông dáng vẻ thong thả tự nhiên, tràn đầy khí khái.
Một người chừng 40 tuổi, mái tóc búi gọn phía sau, dáng vẻ lễ độ ôn tồn dưới khán đài đứng lên, đó chính là bà đồng cốt Cái Hà ở An Huy, vợ Mai Huyền Tử.
“Từ lâu đã nghe kỹ pháp lục hào của Nhược Lan Sư thái cao thâm, không biết thuật bói lục hào cao minh đến chừng nào?”
Nhược Lan Sư thái nhìn Cái Phi Tiên, thầm nghĩ: Ngươi chỉ là hạng sinh sau đẻ muộn, lại đòi bắt bẻ ta ư?
“Lục hào pháp bắt nguồn từ Đại diễn Phệ pháp, vô cực đến thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái tương thố (tám quẻ giao nhau), tạo thành 64 quẻ. Pháp Lục hào kế thừa số của Thiên địa Đại diễn, bao trùm các đạo trong trời đất, trên có thể đoán biết việc đại sự của bậc quân vương, dưới có thể bói ra những chuyện nhỏ nhặt của muôn dân, vạn vật trong trời đất, không có thứ gì nằm ngoài khuôn khổ của nó.” Nhược Lan Sư thái nói xong, điềm tĩnh nhìn Cái Hà.
“Có thể đoán biết được sự sống chết của con người không?” Cái Hà hỏi.
“Đương nhiên! Vạn lần chẳng sai một!” Nhược Lan Sư thái quả quyết.
Cái Hà cười rất khó hiểu: “Pháp Lục hào bắt nguồn từ thời nhà Chu, hoàn thiện vào thời Hán, người đã hoàn thiện nó và làm cho nó phát triển rạng rỡ chính là lão tiền bối Kinh Phòng thời Hán, phải vậy không?”
“Đúng thế.” Nhược Lan Sư thái đáp.
“Thầy Kinh Phòng thông minh tuyệt đỉnh, phát huy pháp lục hào, phát triển lên đến đỉnh điểm, đoán đâu trúng đó, rất được hoàng đế yêu thích, nhưng vị sư tổ lục hào lại không thể đoán biết được sự sống chết của mình, cuối cùng bị hoàng đế giết chết, không biết vấn đề là tại pháp lục hào hay bởi thầy Kinh Phòng trình độ có hạn? Một điều nữa, xin hỏi trình độ của Nhược Lan Sư thái so với thầy Kinh Phòng thế nào?” Mấy câu hỏi của Cái Hà nhằm tuyệt đường lui của Nhược Lan sư thái.
Đây đều là đối sách đã được Tổ Gia và Mai Huyền Tử bàn bạc với nhau.
Nhược Lan Sư thái quả đúng là mụ già quỷ quyệt, bà ta khinh khỉnh cười, rồi đáp: “Chuyện về thầy Kinh Phòng phần lớn chỉ do người đời sau kể thành chuyện cười, kỹ pháp chẳng có liên quan gì đến việc sống chết, có nhiều việc cho dù tính ra cũng khó lòng trốn thoát được, hễ cứ gặp phải tai ương đều né được, vậy thì con người sống mãi không chết sao?”
Cái Hà mỉm cười gật đầu, nói: “Nếu các vị tiên thánh đã tiên đoán được ra, nhưng lại không thể trốn tránh được, vậy căn cứ vào đâu để nói pháp lục hào của Sư thái dùng để hóa giải tai ương cho người ta? Sư thái được tiếng đã giải được vô số tai ương từ nhiều năm nay, có thể lấy một ví dụ đã làm được gần đây không? Cũng là để tôi được vui lòng bái phục!”
Nhược Lan Sư thái cười lớn, nói: “Thánh nhân soạn dịch, chính là để đón cát tránh hung, nếu không thể giải được tai ương thì dùng để làm gì đây? Có những tai ương không thể giải được, nhưng phần lớn đều có thể hoá giải được! Nếu các hạ đã muốn nghe, ta xin kể về một trường hợp mới gần đây vậy. Vài tháng trước, vì tình hình buôn bán ảm đạm, thương nhân buôn trà nổi tiếng vùng Mân Nam (miền nam Phúc Kiến) tên Uông Văn Khanh đã đến xin gieo quẻ, ta đã dùng pháp lục hào giải hạn cho ông ta, giúp ông ta vượt qua được cửa ải khó khăn một cách suôn sẻ, Uông tiên sinh đã đích thân đề biển, tỏ lòng cảm tạ, việc này làm chấn động khắp vùng Bát Mân (tên khác của Phúc Kiến), các hạ cứ việc đi điều tra làm rõ!”
Cái Hà mỉm cười: “Quả đúng là có chuyện này, nhưng không biết một lần Sư thái giải hạn, thì được bao năm?”
Nhược Lan Sư thái nói: “Thái cực chi pháp, kỳ đại vô ngoại, kỳ tiểu vô nội, một quẻ có thể nhìn thấu cả đời, vừa có thể xem được những chuyện lớn bé trong một năm, Uông tiên sinh muốn xem quẻ mười năm, ta đã giải hạn trong vòng mười năm cho ông ấy.”
Cái Hà bật cười: “Chà chà, Sư thái khoác lác quá rồi! Nếu không phải pháp lục hào có vấn đề, thì chắc kỹ pháp của Sư thái có vấn đề rồi. Hôm qua, một hiệu buôn trà của một thương nhân Phúc Kiến bị cháy, hàng nghìn cân trà bốc cháy như bó đuốc khổng lồ vậy, Hộ báo (báo Thượng Hải) đưa tin, hiệu trà này của thương nhân Uông Văn Khanh nổi tiếng khắp vùng Mân Nam đấy!”
Nhược Lan Sư thái mặt mày biến sắc, tin này quả thực bà ta không hề hay biết, vì lần này đến tham gia hội thi hùng biện ở Thượng Hải, người Nhật yêu cầu phải bảo mật nghiêm ngặt, các vị Đại sư ở khắp nơi một khi vào khu Nhật chiếm đóng không được phép đi lại lung tung, càng không được trao đổi thông tin với bên ngoài.
Nhược Lan sư thái nổi giận: “Nói xằng bậy!”
Cái Hà thong thả nói: “Vừa rồi, trước khi vào hội trường, tôi thấy mấy anh lính Hoàng quân đọc báo, bèn mượn một tờ…” Nói xong liền nhặt tờ báo trên mặt bàn giơ lên. “Sư thái tự xem đi!”
Chính Tổ Gia và Giang Phi Yến cùng dàn cục này mấy tráng trước. Sau khi từ sở Cung giáo của Nhật Bản trở về Thượng Hải, Tổ Gia đã trò chuyện thâu đêm với Giang Phi Yến, kể hết toàn bộ sự việc cho bà nghe. Giang Phi Yến thầm khóc suốt đêm, bà không thể ngăn cản được Tổ Gia, cũng không thể thuyết phục được ông cùng mình cao chạy xa bay, cuối cùng, bà đồng ý giúp Tổ Gia. Việt Hải Đường và Thái Cực Bang xưa nay vẫn qua lại thân thiết với nhau, Tổ Gia đã nhờ Giang Phi Yến kể rõ hoạt động gần đây nhất của Nhược Lan Sư thái, đến giờ phút quyết định, Tổ Gia sai Nhị Bá đầu phóng hoả, hòng đánh gục Nhược Lan Sư thái.
Nhược Lan Sư thái thẹn đỏ mặt, thẹn quá hoá giận, bà ta chỉ vào mặt Cái Hà quát tháo: “Chắc chắn do các ngươi ngầm giở trò!”
Lúc này, Tây Điền Mỹ Tử lên tiếng: “Nhược Lan Sư thái hà tất phải như vậy, tiêu chí của cuộc thi hùng biện hôm nay giao lưu là chính, chuyện thắng bại chỉ phụ thôi. Người Trung Quốc thường nói dĩ hoà vi quý, phải thế không?!”
Nhược Lan sư thái vung cây phất trần, đi xuống khỏi bục diễn thuyết, hậm hực ngồi xuống.
TRUYỀN NHÂN PHONG THỦY TAM HOÀNG
Người thứ tư lên bục diễn thuyết là một trong năm vị Ngũ hổ Trung Nguyên – Đồng Hoài Tú, truyền nhân phái Phong thủy Tam Hoàng.
Phong thủy nghĩa là gió và nước. Khi xây dựng nhà cửa, nơi người ta lựa chọn đầu tiên chắc chắn là một nơi vừa có thể tránh gió, lại vừa gần nguồn nước, cho nên mới có câu: Trạch địa nhi cư, cận thủy hướng dương. Tránh gió để đề phòng bị gió thổi lật nhà; gần nguồn nước ít nhất không bị chết khát, chưa kể trong đó có cá tôm, ắt không bị chết đói. Cho nên, cái nôi của nền văn minh nhân loại phàm đều là nơi có sông nước, như nơi khởi nguồn của nền văn hoá Hoa Hạ là ở lưu vực sông Hoàng Hà, cái nôi của nền văn minh Ai Cập cổ đại là ở lưu vực sông Nile, nền văn hoá Babylon bắt nguồn từ lưu vực sông Lưỡng Hà… Trên thế giới, không một nền văn minh nào lại bắt rễ ở vùng sa mạc, bởi nơi đó không thể cung cấp cho con người điều kiện đảm bảo sinh tồn, theo mệnh lý học thì nơi đó phong thủy kém.
Hàm nghĩa phong thủy chỉ đơn giản như vậy.
Cùng với sự thúc đẩy của tiến trình phát triển văn minh nhân loại, các yếu tố ngũ hành bắt đầu gia nhập vào, nội dung của thuật phong thủy phong phú lên, từ những yêu cầu sinh tồn đơn giản, dần dần còn phải cân nhắc đến các vấn đề như: hướng đi của thế núi, triều hướng kiến trúc, cây cối xung quanh nhiều hay ít, địa thế cao hay thấp, hướng dòng chảy ở xung quanh… Về sau, con người còn bắt đầu quan tâm đến các yếu tố phong thủy phần mộ, vì thế mới xuất hiện các mô thức thiết kế phong thủy cho người chết như: chọn hướng mộ, thiết kế quan tài, sự phối hợp giữa các đồ vật xung quanh phần mộ… Bởi vậy, phong thủy được chia thành hai loại: phong thủy dương trạch và phong thủy âm trạch. Dương trạch chính là chỉ nơi ở của người còn sống, bao gồm: nhà ở, nơi làm việc…; còn âm trạch chính là nơi mộ phần của người chết. Học thuyết phong thủy được thật sự hệ thống hoá vào thời tiên Tần, hình thành vào thời nhà Hán. Đến thời nhà Đường, thuật phong thủy đạt đến đỉnh cao. Tên tuổi tiêu biểu có Viên Thiên Cương và học trò của ông là Lý Thuần Phong. Có nhiều truyền thuyết về hai vị đại sư này, nhưng chuyện kinh điển nhất cần phải kể đến là việc hai thầy trò họ chọn mộ phần cho Võ Tắc Thiên.
Tương truyền, khi Võ Tắc Thiên vừa mới chào đời, Viên Thiên Cương đã nhìn ra được khí thiên tử trong người đứa bé này. Về sau, khi Võ Tắc Thiên xưng đế, bà ta vô cùng xem trọng Viên Thiên Cương. Khi về già, bà ta rất để tâm đến chuyện hậu sự của mình, yêu cầu phải được an táng ở nơi có phong thủy tốt nhất và an toàn nhất. Chuyện này đã khiến bà ta hao tâm tổn trí rất nhiều.
Một hôm, Võ Tắc Thiên cho gọi Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong đến, sai họ tìm cho mình nơi có phong thủy tốt nhất để xây cất lăng mộ. Để đề phòng Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong giở trò dối trá lừa mình, Võ Tắc Thiên đã cho họ tiến hành công việc độc lập, Lý Tuần Phong đi tìm trước, Viên Thiên Cương bị giữ lại trong cung; đợi sau khi Lý Thuần Phong quay về, Viên Thiên Cương mới được đi tìm; đợi khi Viên Thiên Cương quay lại, Võ Tắc Thiên phái người đi xem xét nơi hai người họ nói.
Kết quả, Lý Thuần Phong đi đúng bảy bảy bốn chín ngày, đi khắp trăm núi nghìn sông, cuối cùng tìm được một mảnh đất báu, liền chôn một đồng xu tại vị trí trung tâm bảo địa đánh dấu, để sau này dễ tìm.
Sau đó, Viên Thiên Cương xuất phát, cũng đi mất bảy bảy bốn chín ngày, cuối cùng tìm được một bảo địa, sợ sau này khó tìm, liền rút trâm bạc trên đầu cắm vào vị trí trung tâm.
Đến khi, Võ Tắc Thiên phái hai tốp người riêng rẽ đi tìm địa điểm theo lời hai người miêu tả, cuối cùng bọn họ gặp nhau và kinh ngạc phát hiện ra rằng: trâm bạc của Viên Thiên Cương cắm đúng vào lỗ đồng xu của Lý Thuần Phong.
Đây chính là truyền thuyết khiến cho người đời sau phải kinh ngạc hác hốc miệng, Viên Thiên Cương và Lý Thuần Phong gần như được đẩy lên bảo tọa của các bậc thần tiên.
Sau khi Đồng Hoài Tú vào chỗ, ông ta khom người cười nói: “Các vị, xin chỉ giáo!”
Một trong năm vị Ngũ hổ Trung Nguyên, Tổ Gia chỉ được nghe qua, hôm nay mới được gặp mặt, người này chưa đến ba mươi, mặt đen sì, dáng người tầm thước, giọng nói nặng trịch đậm chất giọng của người Hà Bắc, một nam tử hán Trung Nguyên điển hình.
Một người ngồi ở phía dưới đứng lên, nói: “Từ lâu đã nghe nói, tổ tiên ba đời của Đồng sư gia đều là truyền nhân phái Phong thủy Tam Hoàng, Đồng sư gia thấy Phong thủy Tam Hoàng và Phong thủy Dương Công thế nào?”
Mọi người đưa mắt nhìn về phía người nói, đó chính là Dương Tịnh Sa, truyền nhân phái Phong thủy Dương Công ở Sơn Đông.
Đồng Hoài Tú gật đầu, nói: “Phong thủy Dương Công thuộc trường phái phong thủy hình thế, nói về năm yếu tố “long, sa, thủy, hướng, huyệt”, thường đề cao phong thủy hình thế, không vận dụng đủ khí vận của ngũ hành, còn Phong thủy Tam Hoàng bao hàm cả ngũ hành bát quái, thiên thời cửu tinh, địa bàn cửu tinh, xem xét cả một hệ thống nhiều yếu tố của thiên thời địa lợi…”
“Khà khà!” Đồng Hoài Tú còn chưa nói hết, Dương Tịnh Sa liền nhảy vào chẹn họng: “Có thể bật ra những lời này, chứng tỏ Đồng sư gia nghiên cứu về các trường phái phong thủy còn hơi non. Từ xưa, các trường phái phong thủy ở Hoa Hạ nhiều vô kể, chỉ phái Huyền Không Phi Tinh đã có thể chia thành mấy trăm môn phái lớn nhỏ. Môn phái khác nhau, tuỳ theo góc độ nhìn nhận, trông ngang thành cả dãy núi dài, nhìn nghiêng thành đỉnh núi cao, nhưng trăm sông vẫn đổ về một biển, vạn pháp quy tông, cho dù là môn phái nào đi nữa, chân lý chỉ có một, huống hồ phái Phong thủy Dương Công đã có từ xưa, được liệt vào hàng thứ năm trong sáu môn phái lớn, còn cái thứ không chính thống như Phong thủy Tam Hoàng chưa từng thấy ghi trong chính sử, chuyên trò thuật bịp bợm chốn quê mùa mà thôi.”
Đồng Hoài Tú không hề tỏ ra tức giận, ông ta nói: “Bất luận là pháp thuật chính thống, hay không chính thống, thấy hiệu quả thì lý lẽ mới cứng! Đồng mỗ tung hoành ở Trung Nguyên mười mấy năm, chưa một ai nói tôi xem không chuẩn xác.”
Tổ Gia cười, đứng dậy nói: “Đồng sư gia cho rằng nguyên lý của thuật phong thủy là thế nào?”
Đồng Hoài Tú nhìn Tổ Gia, trong lòng hơi run, mồ hôi túa ra khắp người.
Đồng Hoài Tú ngẫm nghĩ một chút, hỏi vặn lại: “Tổ Gia có cao kiến gì về nguyên lý thuật phong thủy?” Ông ta biết Tổ Gia không phải người nghiên cứu phong thủy, cho nên mới hỏi ngược lại như vậy, đợi Tổ Gia để lộ sơ hở, ông ta sẽ phản công vào lúc thích hợp.
“Tại hạ chỉ nghiên cứu chút ít về Thiết Bản thần số, nói đến phong thủy thì thua xa Đồng sư gia, cho nên đành phải kiêm tốn xin chỉ giáo!” Tổ Gia nói.
Đồng Hoài Tú thấy Tổ Gia không cắn câu, đành phải vặn dây cót mà nói: “Vạn pháp không tách khỏi dịch lý, việc điều chỉnh phong thủy là ở chỗ âm dương ngũ hành phải hài hoà, thông suốt. Ngũ hành tắc, tất vận hạn liên miên; ngũ hành thông thuận, tất đại cát đại lợi!”
Tổ Gia gật đầu nói: “Ừm! Với kinh nghiệm bao nhiêu năm của Đồng sư gia, có thể nhìn ra được phong thủy của một nơi nào đó là tốt hay xấu không?”
Đồng Hoài Tú nói: “Đương nhiên là được! Phi ngựa đoán định âm dương, tôi đây chỉ nhìn là biết!”
Tổ Gia nói: “Hay lắm! Nơi Tần Thủy Hoàng được sinh ra, phong thủy tốt không?”
“Đương nhiên! Nếu không làm sao có thể san bằng sáu nước, thống nhất thiên hạ!”
“Ừm, phong thủy tốt như vậy, mấy nghìn năm đã qua, sao vẫn chưa thấy xuất hiện ông Tần Thủy Hoàng thứ hai? Thậm chí còn chẳng thấy một nhân vật lớn nào xuất hiện?”
“Thì… thì Tần vương Doanh Chính đã chiếm hết khí phong thủy rồi, cho nên…” Đồng Hoài Tú khó có thể viên lại cho tròn lời mình định thốt ra.
“Khà khà!” Tổ Gia cười. “Xem ra, Đồng sư gia chưa nghiên cứu phong thủy một cách thấu triệt rồi! Tại hạ xin bạo gan phân tích đôi lời, có gì không đúng, mong Đồng sư gia bỏ quá cho! Thuật phong thủy cần phải kết hợp với yếu tố con người, mới có được ý nghĩa sự tồn tại của nó, chỉ nói riêng lẻ phong thủy thì chẳng có chút giá trị nào cả. Các trường phái phong thủy ở Trung Quốc nhiều vô số, nhưng biết kết hợp phong thủy và mệnh lý lại với nhau thì chẳng được mấy nhà. Người nghiên cứu phong thủy thường đĩnh đạc nói về một căn nhà, hoặc nói nó tốt, hoặc nói nó xấu. Nhưng không ngôi nhà nào giống ngôi nhà nào, mỗi người khác nhau vào ở trong căn nhà đó sẽ có vận mệnh khác nhau, đúng không? Dinh thự số 23 đường Nam Kinh, bao nhiêu bậc đại sư đều nói đây là nơi phong thủy bảo địa, vì thế thời đó bao nhân vật máu mặt thay nhau đến ở; về sau, Lư Chiêm Sơn – một phần tử cốt cán của Thanh Hồng Bang đã mua nó, chưa được ba ngày đã bị người ta chém chết trong phòng ngủ. Vẫn phong thủy đó, vẫn căn phòng đó, chớp mắt mà đại cát đã biến thành đại hung, việc này phải giải thích sao đây? Còn có rất nhiều thương phố làm ăn, người trước đó dù kinh doanh kiểu gì đi nữa cũng bị thua lỗ sạch, nhưng người đến sau lại như gió nổi nước lên, tiền tài chảy vào nhà không ngớt. Vẫn là cửa hiệu đó, vẫn phong thủy ấy, mà vận mệnh lại khác nhau trời vực, việc này phải giải thích sao đây? Còn nữa, khu Thái Thị Khẩu ở Bắc Bình, trước đây chính là nơi chuyên thi hành án tử hình, là mảnh đất phong thủy đại hung, nay qua bao cuộc dâu bể, người ta đến bán buôn tấp nập, lại phải giải thích sao đây? Nói tóm lại, nếu chỉ nói chuyện phong thủy, khó mà phán định cát hung được, phải kết hợp phong thủy và ngũ hành của con người mới là đúng đắn, hợp nhau là đại cát, không hợp tất là đại hung. Ngu kiến của tại hạ, không biết có lý hay không, mong Đồng sư gia chỉ bảo thêm!?”
Không đợi Đồng Hoài Tú trả lời, tiếng vỗ tay nhiệt liệt vang lên bên dưới khán đài, ngay cả truyền nhân phái Phong thủy Dương Công là Dương Tịnh Sa cũng nhìn Tổ Gia bằng ánh mắt đầy khâm phục.
Lúc này, Tây Điền Mỹ Tử mới bị thuyết phục thật sự trước kiến thức của Tổ Gia, ánh mắt lộ rõ sự tán thưởng và lòng ái mộ. Bà ta không biết rằng, tất cả những điều này đều nhờ cuộc trò chuyện giữa Tổ Gia và Bành tướng sĩ đêm hôm đó. Tổ Gia trí nhớ vô song, lại học một biết mười, biết ứng dụng ngay cái vừa học được, không ai có thể theo kịp.
Đồng Hoài Tú mặt mày ủ rũ về chỗ, ông ta chỉ biết lắc đầu.
BÍ MẬT CỦA THUẬT XEM TƯỚNG TAY
Vị thứ năm lên bục diễn thuyết chính là Long Ngọc Phụng của Dao Trì Đạo. Long Ngọc Phụng đã ngoài 40, mắt liếc đào hoa, miệng môi tựa cánh anh đào, dáng người cao ráo, đẹp tựa tiên nữ, dưới cờ có gần trăm đệ tử, tất cả đều là phụ nữ; Bà ta thường sánh mình với tiên nữ ở Dao Trì, cho nên Đường khẩu mới có tên Dao Trì Đạo. Dao Trì Đạo thành danh nhờ thuật tướng học, Long Ngọc Phụng là cao nhân tướng học có tiếng khắp Thiên Tân, tinh thông cả tướng tay và tướng mặt.
Xem tướng tay chính là xem hình dáng bàn tay, vân tay, màu sắc tay và độ nhạy cảm tay. Đặc biệt là xem vân tay, nó là một trong những tiêu chí tham khảo quan trọng để suy đoán của nhà nhân tướng học.
Phương pháp cổ điển cho rằng, trai xem tay trái, gái xem tay phải. Xòe bàn tay ra, 99% đều có thể nhìn thấy rõ ba đường chính. Đường bắt đầu từ gốc ngón trỏ kéo tận vị trí ở gốc bàn tay chính là đường sinh mệnh, đường bắt đầu từ gốc ngón giữa xuống đến bên dưới ngón út chính là đường tình duyên, đường nằm ở giữa đường sinh mệnh và đường tình duyên chính là đường trí tuệ. Người xưa cho rằng, đây là ba đường chủ đạo trong cuộc đời, đường sinh mệnh biểu hiện tình trạng sức khỏe và tuổi thọ; đường tình duyên biểu hiện về chuyện tình cảm, hôn nhân; đường trí tuệ cho thấy khả năng học vấn của một người. Tướng tay chủ yếu căn cứ vào độ nông sâu, to bé, màu sắc, dài ngắn, đứt đoạn hay không để dự đoán cát hung. Đông y còn cho rằng căn cứ vào đặc trưng của vân tay có thể đoán được bệnh tật.
Tướng mặt, xét theo nghĩa hẹp, chỉ khuôn mặt và các bộ phận trên mặt như: mắt, tai, mũi, miệng, lông mày; xét theo nghĩa rộng, ngoài khuôn mặt và ngũ quan ra, còn bao gồm cả các nốt ruồi trên người, chân tay, da dẻ và cả dáng đi, đứng, ngồi, nằm, thậm chí là phân và nước tiểu… Nhà nhân tướng học sẽ căn cứ vào tỷ lệ khuôn mặt và dáng người của người ta, độ lớn bé, cao thấp, màu sắc của các bộ phận, và cả hành vi cử chỉ để luận đoán được tình trạng giàu nghèo, thọ yểu của một người.
Lịch sử Trung Quốc, từng xảy ra một hiện tượng kỳ lạ: trong một thời kỳ nào đó, khi đất nước cần gấp nhân tài, hoặc khi có ít người tham gia thi cử, lúc này cần phải bổ sung. Việc bổ sung không căn cứ vào điểm thi cao thấp, tuổi tác, phẩm chất, mà căn cứ vào tướng mặt đẹp xấu. Những người được triệu tập nằm trong số những người thi trượt, hoặc căn bản không hề tham gia thi cử, vài vị quan chủ khảo ngồi trong nhà, yêu cầu những người này lần lượt vào “phỏng vấn”. Đầu tiên, họ xem xem người này có tướng làm quan không, rồi nghe xem giọng nói có phải giọng quan không, cuối cùng lại yêu cầu người đó đi lại vài bước, xem người đó có dáng dấp của quan lại không. Trong những trường hợp như thế này, thông thường loại béo múp đầu múp cổ, ngực ưỡn, mặt vênh vang lên đi lại đều căn bản là được chọn. Như vậy đủ thấy mặt khuất đen tối, ngu xuẩn của chế độ khoa cử phong kiến.
Tướng thuật bắt nguồn từ thời kỳ Tiên Tần, hoàn thiện vào thời Hán. Cho đến nay, không ai biết người sáng lập ra tướng thuật là ai, tài liệu lịch sử cũng không có ghi chép nào liên quan, nhưng giới học thuật vẫn cho rằng tướng thuật được ra đời trong suốt một quá trình dài lâu, chứ không phải chỉ một đời người là có thể hoàn thiện được.
Tướng thuật có thể kết hợp tướng mạo và cát hung, chắc chắn đã trải qua bề dày thực tiễn với những minh chứng cụ thể mới đúc rút ra được kinh nghiệm. Ví dụ, người có cặp mắt trông như mắt dê là đoản mệnh (dương mục thọ đoản), người có nhân trung dài, đường pháp lệnh (hai đường chạy từ cánh mũi xuống đến khóe miệng) sâu sẽ
sống lâu…
Nói đến chuyện ăn uống và đại tiểu tiện để luận tướng, Tổ Gia từng giảng cho các huynh đệ trong Đường khẩu nghe những sách tướng thuật thời xưa, về cơ bản có những ý nghĩa dưới đây:
Về tướng ăn, phàm người ngồi ngay ngắn, ổn định, ăn uống từ tốn, không hấp tấp vội vàng, “dĩ thực tựu chủy”, đều là phúc tướng; phàm là người ngồi không ra ngồi nằm không ra nằm, nuốt vội nuốt vàng, “dĩ chủy tựu thực”, đều là tướng bần tiện.
Tổ Gia từng đùa rằng: “Toàn những lời hàm hồ! Ăn cơm thì tướng cái gì chứ, nó chỉ nói lên việc người này ăn còn đói hay không. Người phú quý có cái ăn cái uống, bữa kia ăn còn chưa kịp tiêu hóa hết đã đến bữa sau, đương nhiên sẽ ngồi vững vàng, ăn chậm rãi, từ tốn. Dân nghèo đói khổ không có cái ăn cái uống, bữa có bữa không, có khi cả mấy ngày liền chẳng được no bụng, không dễ dàng gì mới có được miếng ăn, đương nhiên sẽ nhoài cả người mà và cơm, ăn ngấu nghiến như hổ đói. Nếu để một tên địa chủ đói dăm ba ngày, xem lão ta còn ngồi ngay ngắn được không?”
Còn về chuyện đại tiểu tiện, sách xưa nói rằng, phàm người đại tiện phân nhỏ dài, mềm, màu vàng bóng, đều là phúc tướng; phàm người đi phân lớn, khô, đen, to, rắn quắt lại với nhau, đều là tướng bần tiện.
Tổ Gia lại cười, đùa rằng: “Đại tiện ra kiểu gì là do thứ mình ăn vào mồm. Bọn quý tộc, địa chủ một ngày ba bữa, đồ chay đồ mặn vừa phải, hay được ăn hoa quả trái cây, đương nhiên sẽ không bị táo bón; đám người hầu hay nông dân phải ăn vỏ cây, rau tạp, đói quá còn phải ăn cả tàn hương, đất sét trắng, đương nhiên phân sẽ vừa đen vừa to. Thử đổi vị trí cho nhau xem, thử đặt đầu xuống đất lật cật lên giời xem!”
Nói đến tướng thuật, có một người không thể không nhắc đến. Bà tên là Hứa Phụ, người mà Tổ Gia vô cùng khâm phục. Ông cũng kể cho chúng tôi nghe nhiều chuyện về bà.
Hứa Phụ là thầy xem tướng nổi tiếng thời Tây Hán, một người phụ nữ kỳ tài bậc nhất trong giới nữ tướng thuật Trung Quốc. Rất nhiều truyền thuyết nói về bà và những đánh giá đều rất tích cực. Đặc biệt, những truyền thuyết nói về việc Hứa Phụ xem tướng cho những nhân vật lớn như Lã Hậu, Lưu Bang mới thật thần kỳ.
Tổ Gia từng nói, Hứa Phụ là đại diện tiêu biểu cho thời Tây Hán, những người này có công lao to lớn đối với việc kế thừa và phát triển thuật xem tướng, làm cho tướng thuật bắt đầu dần được hệ thống hoá, quy phạm hoá.
Theo tư tưởng của người xưa, những người bất phàm tất sẽ có những trải nghiệm không tầm thường, nếu không sẽ không phải với lịch sử. Hứa Phụ đã lợi hại như vậy, vậy thì việc bà ra đời cũng phải khác hẳn người thường. Bà không phải hoàng đế, cho nên khi sinh ra, mẹ bà không thể nhìn thấy cảnh tượng rồng bay phượng múa được. Thay vào đó, một truyền thuyết còn đẹp đẽ hơn đã ra đời.
Tương truyền, khi Hứa Phụ chào đời có ngậm một viên bạch ngọc, trên viên bạch ngọc có hình bát quái ẩn hiện. Sau khi nghe nói về việc này, Tần Thủy Hoàng cho rằng đây là điềm báo tốt lành, đã thưởng cho cha mẹ của Hứa Phụ rất nhiều tiền, còn khen họ biết sinh con.
Trung Quốc có hai người vừa chào đời đã ngậm ngọc trong miệng, một là Giả Bảo Ngọc, còn người kia không ai khác chính là Hứa Phụ. Một nam một nữ, một người chỉ là hư cấu, một người là người thật. Rốt cuộc, một người có thể ngậm một miếng ngọc lúc được sinh ra đời hay không, vấn đề này rất khó nói, nhưng khả năng trong cơ thể người có thể sản sinh ra “ngọc” là có.
“Ngọc” nói đến ở đây không phải ngọc thật, mà là một loại sỏi. Khi trong cơ thể xuất hiện viên sỏi, lâu dần, viên sỏi có màu sắc tươi sáng, bề ngoài bóng mịn, thậm chí có viên còn được đào thải ra khỏi cơ thể. Thời kỳ Dân quốc từng có một trường hợp như vậy, một cô gái luôn cảm thấy đau và trướng bụng dưới, đi tiểu rất khó khăn; kết quả, một hôm trong lúc đi tiểu, sau một cơn đau dữ dội, cô gái đã tiểu ra hai hạt nhỏ màu đỏ tươi, cô rất sợ hãi liền đem chuyện đó nói với người nhà. Một người thân am hiểu kim cổ nói, đây chính là viên mỹ ngọc đã được nói đến trong truyền thuyết, cực kỳ quý giá, tuyệt đối không được làm ầm chuyện này nên, đồng thời khuyến khích cô gái tiểu ra thêm nhiều hạt nữa.
Về sau cô gái chết, không phải do tắc sỏi mà bởi tin tức trong cơ thể có ngọc đẹp bị lộ ra ngoài, thế là cô gái bị giết chết, rồi bị mổ bụng để lấy “ngọc”. Bao nhiêu vụ án mạng giết người hoang đường như vậy là có bấy nhiêu kẻ vô tri ngu dốt.
Căn cứ vào đó, có thể đoán được rằng, phàm những người ngậm ngọc ra đời đều bởi cơ thể người mẹ bị sỏi kết, hơn nữa, viên sỏi này lại rơi đúng vào miệng của thai nhi, đồng thời nó vừa hay cũng trơn bóng như ngọc. Mẹ của Hứa Phụ cũng nằm trong số những trường hợp thần kỳ như vậy.
Long Ngọc Phụng chậm rãi quay người bước lên khán đài.
“Xin mọi người chỉ giáo!”
“Long chưởng môn, đã lâu không gặp vẫn khoẻ chứ?!” Đinh Tử Hà – chưởng môn Tử Hà Đường ở Mãn Châu là người đầu tiên đứng dậy uốn miệng hỏi.
Long Ngọc Phụng mỉm cười, đáp lại: “Đã khiến Mông Đinh đại sư bận tâm, Ngọc Phụng vẫn khoẻ.”
Mọi người nghe thấy vậy, tưởng hai nhà có chút dây mơ rễ má.
Tổ Gia mỉm cười, tọa sơn quan hổ đấu.
Đinh Tử Hà tức tối nói: “Dao Trì Đạo cứ gặp người là nói diện hàm đào hoa (người có vẻ mặt sẽ gặp phải kiếp đào hoa), mười người thì có đến chín người có đào hoa sát, hơn nữa không quá ba ngày, thế nào cũng có phụ nữ sà vào lòng ôm ấp, sau đó, hoặc vì sắc hại đến thân, hoặc vì sắc mà hao tài tốn của, cuối cùng bất đắc dĩ phải mời Long chưởng môn giải hạn. Lẽ nào một người, ngoài đặc điểm diện hàm đào hoa ra thì không còn điểm đặc biệt nào khác sao?”
Câu hỏi này rõ ràng sặc mùi châm chọc, không ngoài mục đích bốc cát ném người, vạch mặt Long Ngọc Phụng thường hay dùng nhan sắc, dung mạo để dàn cục quyến rũ mục tiêu, rồi lại “chém đẹp”.
Long Ngọc Phụng cười khúc khích, đầy vẻ quyến rũ, đáp: “Rượu không làm say người, người tự say, sắc không mê hoặc người, người tự mê. Có tên đàn ông nào không háo sắc, có người phụ nữ nào không đong đưa lơi lả. Các đức ông đang có mặt ở đây đều là người nghiên cứu thuật số siêu hình, bất luận là xem tướng tay, tướng mặt, bói lục hào hay bát tự, đào hoa sát chính là đại sát. Nam hoan nữ ái là chuyện thường tình của con người, mười ông thì đến chín ông sẵn tính trăng hoa, ông còn lại xuất gia, ta nói sai ở đâu nào? Tổ Gia thấy tôi nói có đúng không?” Nói xong, liếc mắt về phía Tổ Gia, nhìn ông tình tứ.
Tổ Gia khẽ rùng mình. Còn chưa đợi Tổ Gia nói, Hoàng Pháp Dung cuống lên, đứng phắt dậy: “Rượu là thứ thuốc độc đâm thủng ruột, sắc là con dao sắc róc xương, kẻ dùng nhan sắc mê hoặc người khác, đều sẽ bị đày xuống địa ngục. Người nghiên cứu Dịch học lẽ ra phải giáo hoá chúng sinh, rời xa sắc dục, mới là chính đạo. Hơn nữa, Long chưởng môn nói sai rồi! Hàm nghĩa đào hoa sát rất rộng, không chỉ riêng gì sắc dục, đào hoa được chia thành đào hoa trong tường và đào hoa ngoài tường; đào hoa trong tường chủ về vẻ đẹp, dung mạo tuấn tú, lại chủ về sự thông minh; chỉ có đào hoa ngoài tường mới để tình vương vãi khắp nơi, mới là dê già háo sắc. Long chưởng môn vơ đũa cả nắm, đánh mất vẻ tao nhã rồi!”
Long Ngọc Phụng liếc xéo Hoàng Pháp Dung, rồi nói: “Ta thấy ngươi chính là diện hàm đào hoa, hơn nữa, lại đào hoa ngoài tường, sát khí cực nặng, chồng của ngươi phải cẩn thận đấy…”
Lúc này, ban giám khảo người Nhật ngồi phía dưới, trọ trẹ bằng tiếng Trung: “Hùng biện chính là tuỳ việc mà xét, không được đả kích về nhân phẩm người khác, nếu Long chưởng môn không còn gì biện bạch, có thể về chỗ.”
Long Ngọc Phụng và Đinh Tử Hà đều là đại Hán gian ở ba tỉnh miền đông, không có chút bản lĩnh thật sự nào, lần này tham gia cuộc thi hùng biện, đều phải hy sinh thể diện để có được chỉ tiêu. Tây Điền Mỹ Tử luôn để tâm, ghi nhớ trong lòng, bà ta đã bàn định trước với mấy vị chủ khảo, cho bọn họ được lọt vào vòng đấu loại mười người, sau đó đẩy bọn họ xuống, vừa giữ thể diện cho bọn Hán gian, vừa không đến nỗi làm hỏng việc lớn.
Long Ngọc Phụng khoát tay, hậm hực bước xuống.
Đinh Tử Hà cười thầm trong lòng mà không biết rằng, chỉ một lát nữa thôi, kết cục của mình cũng chẳng khác gì Long Ngọc Phụng.
THẬT GIẢ TRONG MAI HOA DỊCH SỐ
Người thứ sáu ra sân chính là Đinh Tử Hà của Tử Hà Đường, Mãn Châu.
Đinh Tử Hà dáng người cao ráo, mắt phượng, mũi cao, cặp môi mọng đỏ, răng đều hạt bắp, là hình mẫu người đẹp Đông Bắc điển hình. Tử Hà Đường dưới trướng của bà ta được thành lập sau Chính biến 18 tháng 9, là một đội ngũ mê tín do bọn Hán gian và người Nhật cùng nhau dìu dắt.
Thời của Trương Tác Lâm, các vụ “thảm án Huyết cốc điểu” liên tiếp xảy ra ở ba tỉnh phía Đông, đều do bọn này làm ra. Huyết cốc điểu chính là ngỗng trời chuyên ăn ruột trẻ con, vài người lớn đi làm đồng, thường nhốt bọn trẻ con ở nhà, sau khi về nhà không thấy con mình đâu, liền hô hào người làng đi tìm, cuối cùng đến chỗ ngỗng trời tụ tập thì phát hiện thấy thi thể của con mình, đã bị lũ ngỗng trời mổ rách bụng, ăn rỗng hết ruột. Các “Tiên cô” của Tử Hà Đường mượn cớ tuyên truyền thuyết “đồng tử quy thiên” (đứa bé về trời), nhân cơ hội đó giải hạn vơ tiền.
Tổ Gia căm ghét tận xương tuỷ bọn Tử Hà Đường, từ lâu đã bàn với Tăng Kính Võ xem có thể cử vài sát thủ đi cắt cổ Đinh Tử Hà hay không, ngặt nỗi Đinh Tử Hà hành tung bí hiểm, nhiều thủ hạ đi theo bảo vệ, nhất thời khó mà ra tay. Hôm nay lại gặp mặt ở đây, cơn giận trong người Tổ Gia bốc lên.
“Xin các vị chỉ giáo!” Đinh Tử Hà nói.
“Đinh đại tiên thường nói, có thể nhìn thấy thần tiên giáng trần, thường làm phép tụ hội quần tiên, ứng nghiệm nhiều lần, nay các vị cao minh đều tề tựu đủ cả, Đinh đại tiên hãy gọi tiên về một lần, cho chúng tôi được mở rộng tầm mắt được không? Đinh đại tiên sẽ không nói hôm nay các vị thần tiên đều không có nhà đấy chứ?!” Long Ngọc Phụng vừa bị rớt đài nổ phát pháo đầu tiên.
Đinh Tử Hà cười nhạt: “Việc này có gì khó? Kỳ thực, Cửu Thiên Huyền Nữ và Vương Mẫu nương nương đang ở bên cạnh tôi, nhưng hạng phàm phu tục tử không nhìn thấy được!”
“Dám hỏi Đinh tiên gia, Cửu Thiên Huyền Nữ và Vương Mẫu nương nương đang làm gì bên cạnh bà vậy?”
Đinh Tử Hà nhìn Tổ Gia, nói: “Đương nhiên là bảo vệ ai gia!”
Chưa dứt lời, một chiếc phi tiêu bắn vù ra cực mạnh, nhanh như chớp, thoắt cái làm sổ tung búi tóc trên đầu Đinh Tử Hà, khiến bà ta hồn xiêu phách tán, mặt mày tái nhợt.
“Xem ra, Huyền Nữ và Vương Mẫu không ở bên cạnh bà!” Tổ Gia nhếch miệng cười.
Mấy tên lính bảo vệ người Nhật hò nhau bao vây Tổ Gia, chúng sợ ông lại bắn phi tiêu, giết chết các vị đại sư người Nhật ngồi phía dưới.
Độp! Độp! Độp! Ba tiếng vỗ tay vang lên, Tây Điền Mỹ Tử đứng lên, bắt nhịp mọi người vỗ tay hoan hô Tổ Gia. Mọi người ngơ ngác, sau đó tiếng vỗ tay vang lên như sấm dậy.
Ban chủ khảo người Nhật xua tay, bảo bọn lính kia lui xuống.
Đinh Tử Hà bước xuống bục diễn thuyết, vẻ khiếp đảm vẫn còn nguyên trên mặt.
“Phái Giang Tướng chớ giở thói ngang ngược!” Một người dưới khán đài lên tiếng, mọi người cùng đưa mắt nhìn, thì ra Tưởng Thiên Thừa của Thuận Thiên Giáo ở Mãn Châu. Vốn dĩ, người tiếp theo đến lượt chính là ông ta, nhưng ông ta không nín nhịn được, không đợi nghe tuyên bố, đã tự nhảy lên. Vì Đinh Tử Hà cùng bang phái ở Mãn Châu bị Tổ Gia ở Giang Hoài làm cho bẽ mặt.
“Khà khà!” Tổ Gia điềm tĩnh cười, lòng thầm nghĩ: Chỉ cần dựa vào biểu hiện này của lão, hôm nay lão thua chắc.
Sau khi Tưởng Thiên Thừa trèo lên bục diễn thuyết, chỉ thẳng Tổ Gia: “Tổ Gia có vấn đề gì, cứ việc hỏi!”
Mọi người thấy vậy, cũng chấp nhận bỏ qua cơ hội được đưa câu hỏi, ánh mắt cùng dồn về phía Tổ Gia. Tổ Gia vẫn vững như đồng, chỉ gật đầu, rồi nói: “Thuận Thiên Giáo đã tung hoành khắp ba tỉnh phía Đông mười năm nay, Tưởng sư gia được chân truyền hai cuốn tuyệt học là Mai Hoa dịch số và Hoàng Cực kinh thế của Thiệu Ung, thông hiểu hết cả, đưa dịch số, dịch lý đạt đến cảnh giới cực đỉnh, người trong giang hồ không ai không biết, vãn bối ngưỡng mộ đại danh tiền bối từ lâu, nay mới được gặp mặt, Tưởng sư gia quả đúng là bậc tiên phong đạo cốt, phong thái hơn người!”
Tưởng Thiên Thừa đã gần 60, cho nên Tổ Gia tự xưng là vãn bối.
Tưởng Thiên Thừa vốn đang tức mình, bị Tổ Gia dùng chiêu long, đột nhiên cảm thấy ngần ngại: “Tổ Gia quá khen rồi, phái Giang Tướng tung hoành trên giang hồ mấy trăm năm, kỹ pháp Trát phi của Mộc Tử Liên thuộc hạng siêu phàm khắp vùng Giang Hoài, lão đây đã như ngọn đèn trước gió, hậu sinh khả uý.”
“Tưởng sư gia đã nghiên cứu, học tập Mai Hoa dịch số nhiều năm, ông thấy nó ứng với người, với việc được bao nhiêu?” Ý Tổ Gia muốn hỏi về độ chính xác của Mai Hoa dịch số.
“Vạn pháp quy tông, đúng hay không không phải ở thuật pháp, mà là ở con người. Chỉ cần nghiên cứu, học tập đến nơi đến chốn, mọi phương thuật đều có thể chiêm bốc thiên địa, tức bói toán mọi việc trong trời đất. Mai Hoa dịch số do đại sư Dịch học đời Tống là Thiệu Ung Tiết soạn ra, sau sự việc “quán mai chiêm” mới có tên như vậy. Pháp thuật này dùng số lý tiên thiên bát quái, mượn các quẻ tượng là nội quái, ngoại quái, hỗ quái, rồi nạp âm thanh, phương vị, thời gian, động tĩnh, địa lý, thiên thời, người vật, màu sắc, động thực vật vào trong quẻ bói, từ đó có thể chiêm bốc ra vạn vật trong thế gian!”
Sách xưa đã ghi: Thiệu Ung Tiết và bạn bè thường ngồi ngắm hoa mai trong vườn. Một hôm, họ trông thấy hai chú chim sẻ đang chíu chít cãi nhau trên cành mai, đột nhiên, một con chim mổ cho con kia ngã xuống đất. Thiệu Ung Tiết thấy vậy, liền gieo quẻ, sau đó phán: “Chập tối mai nhất định sẽ có một cô gái vào vườn hái hoa mai, người coi vườn tưởng là kẻ trộm mới đuổi bắt, khiến cho cô gái bị ngã từ trên cây xuống, gẫy chân.” Ngày hôm sau quả đúng là đã xảy ra chuyện như vậy, từ đó Mai Hoa dịch số nổi danh trong thiên hạ.
Bỗng Tổ Gia chuyển đề tài, hỏi: “Tại hạ có một câu, không biết có nên nói ra không?”
“Xin mời!” Tưởng Thiên Thừa nói.
“Tại hạ cho rằng Mai Hoa dịch số là ngụy tác!”
Dưới khán đài kinh ngạc ồ lên. Ngụy tác ý nói rằng, đoạn sử liệu kia không có thật, chỉ là do người đời sau bịa đặt ra.
Tưởng Thừa Thiên giận run người: “Mai Hoa dịch số và Hoàng Cực kinh thế là hai tuyệt tác lớn lúc sinh thời của Thiệu Công, Tổ Gia lại dám vọng ngôn nói là giả danh, há chẳng phải chuyện nực cười nhất trên đời hay sao?”
Tổ Gia nói rành mạch: “Thiệu Ung nổi tiếng là bậc đại tài, từ nhỏ đã đọc nhiều sách vở, Tống sử đã ngợi ca ông: ‘Kiên trì, chịu khó, chịu khổ, lạnh không cần sưởi, nóng không cần quạt, ngày đêm mải miết học hỏi suốt mấy năm ròng’; ‘tiếp thu Hà Đồ, Lạc Thư, 64 quẻ tượng của Phục Hy’; ‘trước tác gồm có Hoàng Cực kinh thế, Quán vật nội ngoại thiên, Ngư tiều vấn đáp; thơ có Y xuyên kích nhưỡng’ tập. Người đời sau kế tục người đi trước chép sử, tất sẽ vô cùng cẩn trọng, không dám ăn nói ngông cuồng, đã đưa ra dẫn chứng ví dụ có thể tra cứu được, nhưng trong sử sách đời Tống Thiệu Ung bản truyện lại chỉ kể ra bốn tác phẩm của nhân vật truyền kỳ này là: Hoàng cực kinh thế, Quán vật nội ngoại thiên, Ngư tiều vấn đáp, Y xuyên kích nhưỡng tập. Nếu Mai Hoa dịch số quả đúng như Tưởng sư gia đã nói, là một trong hai tuyệt tác lớn bị thất truyền của Thiệu Ung Tiết, thì làm sao người biên soạn sử thời Tống lại dám bỏ sót. Từ đây có thể thấy, Mai Hoa dịch số đích thị do người đời sau mượn tiếng soạn ra. Bỉ nhân tài hèn học mọn, nhưng không đến nỗi không hiểu biết kinh sử, không biết trong hai chúng ta, rốt cuộc ai mới đang nói chuyện nực cười đây?!”
Tưởng Thiên Thừa vừa định giải thích, Tổ Gia liền nói tiếp: “Vừa rồi, chỉ mới khảo chứng Mai Hoa dịch số là tác phẩm mạo danh căn cứ vào sử sách, bây giờ chúng ta hãy xét về mặt nội dung để xem xem Mai Hoa dịch số có giả mạo hay không. Hầu như cả cuốn Mai Hoa dịch số đều giảng giải về phương pháp bói toán, nhưng lại chẳng hề có một cương lĩnh chung, càng không hề nói đến phương thức và cách thức suy luận, diễn giải cụ thể. Cả một cuốn sách thần kỳ như thế, cuối cùng chỉ dùng một bài thơ mà đòi thay thế phương pháp giải đoán, bài thơ viết rằng:
Nhất vật kỳ lai hữu nhất thân,
nhất thân hoàn hữu nhất Càn Khôn;
Năng tri vạn vật bị vu ngã,
khẳng bá tam tài biệt lập căn;
Thiên hướng nhất trung phân hạo hoa,
nhân vu tâm thượng khởi kinh luân;
Tiên nhân diệc hữu lưỡng ban thoại,
đạo bất hư truyền chỉ tại nhân.
Người tinh tường sẽ phát hiện ra bài thơ này cực kỳ giống với Quán vật ngâm trong Kích nhưỡng tập của Thiệu Ung. Bài vịnh Quán vật ngâm viết rằng:
Nhất vật tòng lai hữu nhất thân,
nhất thân hoàn hữu nhất Càn Khôn;
Năng tri vạn vật bị vu ngã,
khẳng bá tam tài biệt lập căn;
Thiên hướng nhất trung phân thể dụng,
nhân vu tâm thượng khởi kinh luân;
Thiên nhân yên hữu lưỡng ban nghĩa,
đạo bất hư truyền chỉ tại nhân.
Các vị thấy đấy, đây rõ ràng là đã trộm dùng ý niệm và học thuyết của Thiệu Ung, người đời sau tự lập môn hộ. Nếu Tưởng sư gia vẫn cố chấp không chịu tỉnh ra, e rằng sẽ làm trò cười cho thiên hạ!”
Tổ Gia biết Tưởng Thiên Thừa gian xảo, cáo già, nhận giặc làm cha, cho nên không chút nể mặt lão. Không biết do Tưởng Thời Thiên tuổi tác đã già, hay do lời Tổ Gia quá sâu cay mà mặt ông ta cau lại, đỏ bừng lên, thở hổn hển, đệ tử của ông ta vội vàng kêu lên: “Sư phụ tôi bị suyễn, mau mang thuốc đến!”
Tưởng Thiên Thừa được đệ tử nhấc xuống như vậy.
Đây là lần đầu tiên Mai Hoa dịch số bị đem ra chất vấn trong lịch sử Dịch học, lần chất vấn này của Tổ Gia được nói trước mặt hơn hai trăm người, về sau nó được truyền ra giới giang hồ. Mãi cho đến sau khi nhà nước Trung Quốc kiểu mới ra đời, cuối cùng cũng có một học giả chứng minh sự nghi ngờ của Tổ Gia là đúng.
KỲ MÔN ĐỘN GIÁP
Vị thứ tám ra sân là Bùi Cảnh Long của Hoàng Cực Đạo ở Bảo Định. Bùi Cảnh Long mới 20 tuổi, là nhân tài mới xuất hiện trong giới Dịch học Trung Hoa. Khi 15 tuổi, anh ta đã bái một vị nghiên cứu đạo Lão trong Phòng Quản lý Phong tục Sở Tổng đốc Trực Lệ làm thầy, có được một bản sao cuốn Kỳ môn độn giáp giấu ở Cố Cung, về sau ngày đêm nghiền ngẫm, cuối cùng cũng lĩnh hội được cái sâu xa huyền diệu trong đó.
Khi cuộc đại chiến nổ ra ở Trung Nguyên, Uông Tinh Vệ liên kết với các cánh quân quân phiệt đánh Tưởng Giới Thạch, người trong giang hồ đều cho rằng: Mạng của Tưởng Trung Chính thế là xong rồi. Bùi Cảnh Long quan sát bầu trời ban đêm, dùng Kỳ môn mổ xẻ, đưa ra lời dự đoán rằng: “Tất có mãnh sư đến từ hướng Cấn, Càn, Khôn, Chấn, Đoài bị quét sạch.” Về sau, khi chiến sự giữa hai bên đang ở vào thế giằng co, Trương Học Lương ở phía đông đột nhiên điện báo cả nước: ủng hộ Tưởng Giới Thạch, rồi dẫn hai mươi vạn quân ở Đông Bắc xuống phía Nam, giáng một đòn dựng lại cục diện thắng bại của cuộc đại chiến ở Trung Nguyên. Sau khi cuộc chiến kết thúc, Tưởng Giới Thạch và Trương Học Lương còn kết nghĩa anh em. Phía Đông Bắc trong hậu thiên bát quái vừa hay lại nằm đúng Cấn vị, ứng nghiệm với lời dự đoán “Tất có mãnh sư đến từ hướng Cấn”, Bùi Cảnh Long thành danh từ đó.
Tổ Gia cũng đã nghe danh tiếng của kẻ hậu sinh trong giới Dịch học từ lâu, lần này được gặp mặt, thấy Bùi Cảnh Long mặt mũi tuấn tú, tướng mạo bất phàm, ánh mắt cương nghị, phong thái đĩnh đạc, Tổ Gia không thể không công nhận: nhân tài lớn!
Tổ Gia luôn tin rằng, những người tâm thiện ánh mắt sáng ngời, tâm sáng mắt sáng thì thông minh hơn người, cho thấy về học thuật anh ta cũng đạt tốp đầu. Vạn vật đều tương thông, người có thiện tâm không bị ham muốn hưởng thụ vật chất của thế tục che khuất, một lòng chuyên tâm nghiên cứu học vấn, tài năng sẽ đạt đến đỉnh cao. Tổ Gia dùng tướng thuật để xét lòng người, lại dùng nhân tâm đánh giá trình độ, không nén nổi ý muốn thu nạp anh ta.
Tổ Gia và Mai Huyền Tử đã bàn bạc với nhau trước đó rất lâu, trong cuộc hùng biện Dịch học lần này, cần phải chú ý tìm kiếm người chưa đánh mất lương tâm, có lẽ trong số những người cõng trên lưng cái tiếng Hán gian này, cũng có người đang phải nhẫn nhục chịu đựng như tôi và ông, chỉ cần thời cơ chín muồi, ô long sẽ quẫy đuôi, rửa sạch hận thù.
Theo sự sắp xếp của Tổ Gia, Mai Huyền Tử sẽ hỏi vài câu để thử xem chiều sâu của con người này ra sao, vì Mai Huyền Tử cũng nghiên cứu thuật Kỳ môn độn giáp.
Mai Huyền Tử đứng lên hỏi: “Người nghiên cứu thuật Kỳ môn độn giáp đều biết rằng, pháp Kỳ môn huyền diệu vô cùng, đáng tiếc tư liệu tham khảo còn lưu truyền đến ngày nay quá ít ỏi, đặc biệt là phép diễn toán càng ít được đề cập đến. Rất nhiều người sau khi học được cách khởi cục, đều giậm chân tại chỗ bao nhiêu năm, bởi họ chỉ biết bày bàn Kỳ môn chứ không biết phân tích mổ xẻ, đừng nói gì đến phá giải nạn tai. Đối với việc phá giải, trong Yên ba điếu tẩu ca còn lưu lại một câu: Cấp tắc tòng thần, hoãn tòng môn. Không biết Bùi tiên sinh có cao kiến gì đối với câu này?”
Nội dung được coi là tinh hoa của thuật Kỳ môn độn giáp đều đã được cô đọng lại trong bài quyết Yên ba điếu tẩu ca, đây cũng chính là nội dung mà những người nghiên cứu thuật pháp này cần phải lĩnh hội được.
Cấp tắc tòng thần, hoãn tòng môn, câu này nói về cách làm thế nào để có thể tiến hành việc hóa giải dựa vào những thông tin mà bàn cục Kỳ môn độn giáp đã tiết lộ, hay nói một cách dễ hiểu, là làm thế nào để chọn giờ, chọn không gian có lợi, làm những việc có lợi cho mình.
Cấp tắc tòng thần, tức là, trong tình huống gặp phải chuyện gì đó nguy cấp, không cho phép anh có thời gian nghiền ngẫm mọi phương diện trong bàn cục để tìm cách phá giải, sẽ phải làm thế nào? Lúc này, anh chỉ cần hành động theo phương vị của Lục Giáp Trực Phù trong bàn cục hoặc của Cửu Tinh Trực Phù là được, như vậy, anh sẽ có thể trốn thoát, tránh được nạn tai, hoặc có thể phá được vòng vây từ phương vị này.
Hoãn tòng môn, tức, nếu sự việc không gấp, cho phép anh có thời gian suy tính, vậy thì phải suy xét toàn cục, xem cát hung của bát môn, sau đó chọn phương vị, chỉ đạo hành động.
Bùi Cảnh Long cười, nói: “Cấp tắc tòng thần, hoãn tòng môn mặc dù là câu chứa đựng tinh hoa, nhưng gấp hay không gấp lại không hề đưa ra một tiêu chuẩn phán đoán chính xác, điều này hoàn toàn phụ thuộc vào trạng thái tâm lý của người đó đang tốt hay xấu. Có người núi Thái Sơn sắp đổ sập xuống đầu vẫn không hề sợ hãi, có người gió mới chỉ làm lay động ngọn cỏ đã lo trời sập đến nơi, cho nên bỉ nhân cho rằng, gấp hay không gấp, không phải chỉ cân nhắc đến sự việc khi đó, mà càng cần phải cân nhắc để liệu đoán được tình hình cát hung chủ quan và khách quan của bàn cục, kết hợp bản chất và hiện tượng của sự vật, mới có thể phán đoán chính xác, nếu không sẽ hiểu sai pháp thuật của bậc thánh nhân.”
Tổ Gia vừa nghe, vừa mỉm cười gật đầu.
Mai Huyền Tử hỏi tiếp: “Nghe nói Cửu Thiên Huyền Nữ đã ban cho thuật Kỳ môn độn giáp, không biết Bùi tiên sinh có cao kiến gì?”
Đây quả thực là một thắc mắc mang tính lịch sử, cuốn Kỳ môn độn giáp xưa nay vẫn được ca ngợi là thuật số thần kỳ, nhưng rốt cuộc lai lịch của nó như thế nào thì vẫn chưa tìm được bằng chứng lịch sử có thể thuyết phục được người ta.
Theo truyền thuyết, Kỳ môn độn giáp có từ thời Hoàng Đế. Khi Hoàng Đế Hiên Viên đánh nhau với Si Vưu ở Trác Lộc (nay là huyện Trác Lộc, tỉnh Hà Bắc), hai bên khó lòng phân định thắng thua, đột nhiên Si Vưu dùng yêu thuật rải sương mù dày đặc, Hoàng đế và quân của ông bị lạc mất phương hướng rồi bị vây khốn dưới núi. Chính vào lúc Hoàng đế không biết phải làm thế nào, một tiếng sét nổ “đoàng” trên đầu, rồi một chiếc cầu vồng vắt ngang trời, một tiên nữ bước ra, bà tiên ấy chính là Cửu Thiên Tiên Nữ. Bà ban cho Hoàng đế một cuốn sách, Hoàng đế bày binh bố trận theo phương pháp đã được nói trong đó, cuối cùng đánh bại được quân của Si Vưu.
Về sau, cuốn sách được truyền cho Khương Thái công. Khương Thái công mang cuốn sách ra, vừa đọc vừa câu cá, câu mãi cho đến khi 80 tuổi, cuối cùng cũng đợi được vua Văn Vương nhà Chu, từ đó được giao phó trọng trách lớn lao. Khương Thái công đem những thứ học được ra giúp vua Vũ Vương đánh dẹp vua Trụ nhà Ân.
Kế đó, cuốn sách này lại được truyền cho Hoàng Thạch Lão Nhân. Một hôm, cụ gặp một người tên Trương Lương ở trên cầu, thấy đứa bé này có tướng mặt rất khá liền thử anh ta. Cụ cố ý ném chiếc giày của mình xuống sông, rồi bảo anh vớt lên cho mình, lúc đó Trương Lương rất bực mình, muốn đánh cho ông lão này một trận, nhưng lại nghĩ ông ấy đã lớn tuổi, việc gì phải nói lý lẽ, liền vớt chiếc giày lên. Nhưng ông cụ lại được nước làm tới, nói thằng nhóc đi giày cho ta, Trương Lương tức đến sắp nổi khùng lên, nhưng trong lòng lại nghĩ mình đã vớt giày giúp ông lão rồi, đi giày cho ông ta thì có sao nào? Thế là lại cung kính đi giày cho ông cụ.
Ông cụ rất hài lòng nói: “Được rồi, được rồi. Con trai, năm ngày sau con hãy tới đây, ta tặng con một món quà nhỏ.”
Hoàng Thạch Lão Nhân tặng cho Trương Lương một cuốn sách có tên Binh pháp Thái công, khi đó, Trương Lương cảm động rơi nước mắt, vội vàng quỳ xuống dập đầu bái lạy thầy. Từ đó, Trương Lương đã dùng cuốn sách này, cùng với những nhân vật có thể hô mưa gọi gió là Hàn Tín và Tiêu Hà giúp Lưu Bang đánh lấy thiên hạ. Sau này, Trương Lương sửa lại cuốn sách, rồi đổi tên thành Kỳ môn độn giáp.
Mãi về sau, cuốn Kỳ môn độn giáp lại được truyền đến tay Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng nhờ đó lập nên công tích vĩ đại “Công át thời Tam Quốc, danh lừng Bát trận đồ”.
Đây chính là nguồn gốc của Kỳ môn độn giáp trong truyền thuyết.
Bùi Cảnh Long gật đầu, đáp: “Ừm, khi Hoàng Đế đánh Si Vưu, đến khi Thái công phò trợ Văn Vương, Vũ Vương xưng đế, tới Trương Lương giúp Lưu Bang thống nhất giang sơn, rồi lại đến Gia Cát Lượng giúp Lưu Bị chia ba thiên hạ. Trong lịch sử, Kỳ môn độn giáp đều xuất hiện vào lúc thiên hạ đại loạn, nó không thể tách rời khỏi chiến sự. Độn giáp chính là ẩn tàng, Giáp đứng đầu mười thiên can, giống như đại tướng trong hàng quân. Binh lính hành quân nghìn dặm, tướng ở giữa, ẩn Giáp tức là bảo vệ Giáp, không để đại tướng bị cung tên sát hại, không để đại tướng bị kẻ khác chặt đầu. Theo mọi dấu vết cho thấy, Kỳ môn độn giáp có nguồn gốc từ những cuộc bài binh bố trận trong quân sự thời xưa. Còn chính xác từ thời đại nào, tạm thời không thể biết được!”
Những người ngồi dưới khán đài thầm gật đầu. Lác đác có vài người hỏi thêm để được nghe lời giảng giải thấu tình đạt lý về vấn đề uyên bác, cao thâm này. Cuối cùng, một tràng vỗ tay giòn giã vang lên. Tổ Gia cũng bất giác vỗ tay khen ngợi.
Bùi Cảnh Long từ từ bước xuống trong ánh mắt khâm phục, ngưỡng mộ của mọi người.
Vị thứ chín lên đài chính là Mai Huyền Tử. Theo sách lược mà ông và Tổ Gia đã bàn bạc trước, tuyệt đối không thể để cho bọn người Nhật phát hiện ra rằng mâu thuẫn giữa hai người đã được hóa giải, cho nên sau khi ông ta bước lên bục diễn thuyết, Tổ Gia đưa ra câu hỏi đầu tiên, hơn nữa còn mang trong đó cả ụ thuốc nổ, hai người đối đầu gay gắt như nước với lửa hòng qua mặt bọn người Nhật.
Người cuối cùng ra sân chính là Tổ Gia, kỳ thực ông đã chẳng cần phải ra sân nữa, thắng bại dường như được phân định từ lâu, nhưng lúc này ông trở thành tấm bia lãnh tên của mọi người. Mấy vị Đại sư ngồi bên dưới chỉ hận không thể cắn chết Tổ Gia, liền bắt đầu hoạnh họe, bắt bẻ đủ kiểu, nhưng Tổ Gia vẫn sừng sững như núi Thái Sơn, điềm tĩnh trả lời từng câu, từng câu một.
Câu hỏi: “Giới thuật số đều cho rằng Thiết Bản thần số là giả tác, Tổ Gia giải thích sao đây?”
Đáp: “Chính xác thì là ngụy tác chứ không phải giả tác! Sư tổ Thiết Bốc Tử đã lĩnh ngộ được đạo pháp này trong Hoàng Cực kinh thế của Thiệu Ung, nhưng không dám kể công, nên đã nhờ tên tuổi của bậc tiên hiền mà truyền bá đạo pháp Dịch học, phong độ khí phách của thầy như vậy có gì sai kém?”
Hỏi: “Tổ Gia thấy Bát tự, phong thủy cái nào lợi hại hơn?”
Đáp: “Người xưa đã nói Nhất mộ, nhị phòng, tam Bát tự, có vẻ như phong thủy được coi là đi đầu. Kỳ thực, phong thủy và Bát tự có liên quan đến nhau, bổ trợ cho nhau, không thể nói cái nào ghê gớm hơn cái nào, chỉ có cách nói quá cứng nhắc về công phu của người sử dụng nó mà thôi!”
Hỏi: “Trẻ sinh đôi có Bát tự giống nhau, lẽ nào vận mệnh cũng giống y nhau? Tổ Gia thấy thế nào?”
Đáp: “Hai đứa trẻ sinh đôi không chui ra khỏi bào thai người mẹ cùng một lúc, luôn luôn có thứ tự trước sau, đứa trẻ nào được sinh ra sau thì càng gần với giờ tiếp theo sau, khí trong ngũ hành cũng gần kề với khí của giờ tiếp theo sau đó. Ông không thấy thời xưa có hai anh em sinh đôi, người anh sinh ra vào lúc gà trống cất tiếng gáy vang, người em sinh ra thì con gà trống đó đã gáy xong, chỉ còn lại tiếng cùng cục hít hơi ngược lại, kết quả người anh đỗ trạng nguyên, còn người em làm kẻ ăn mày, vận mệnh của hai đứa trẻ sinh đôi đương nhiên không thể giống nhau hết được.”
Hỏi: “Tổ Gia có biết Bát tự có bao nhiêu kiểu không?”
Đáp: “512 vạn kiểu!”
…
Tổ Gia sở dĩ có thể phát huy tinh hoa tư tưởng Dịch học đến mức độ sâu sắc, là bởi ông đã khiêm tốn học hỏi nhiều năm, lại có Hoàng Pháp Dung đến Mộc Tử Liên và được Bành tướng sĩ hết lòng chỉ bảo.
Cuộc thi hùng biện Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa với thanh thế phô trương này cuối cùng cũng đã đến hồi hạ màn, Tổ Gia hoàn toàn xứng đáng với danh hiệu quán quân, đồng thời cũng trở thành “Hán gian số một” trong giới Dịch học Trung Hoa.
QUÊN MÌNH BÁO QUỐC
Quan mới nhậm chức thường hăng hái, xông xáo, việc đầu tiên Tổ Gia làm chính là liên kết các hội đạo môn, sau đó xây dựng Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Nhật – Trung. Nước cờ thứ hai này của Tổ Gia nhằm mục đích moi khoét hết tiền dưỡng mệnh của các hội đạo môn.
Các hội đạo môn vừa nghe thấy thế đã nổi điên, mỗi tháng phải tiến cống cho bọn người Nhật đã đành, bây giờ lại còn muốn xây học viện cái gì nữa. Bọn họ thi nhau gửi thư phản đối đến cho Quân bộ Nhật Bản, nhưng kiến nghị này đã được bên quân đội và cơ quan đặc vụ của Nhật hết sức ủng hộ.
Cuối cùng, Học viện này đã được xây dựng tại vùng đất thấp rộng 20km2 trên quần đảo Chu San. Đây là vùng phong thủy bảo địa mà Tổ Ga và Bùi Cảnh Long cùng tiến cử.
Mảnh đất thấp này phong thủy rất đẹp, cánh đồng cỏ um tùm, bát ngát mênh mông, ở giữa có bốn con sông nhỏ uốn lượn, trải dài chảy qua, tại chỗ các dòng chảy hợp lại, tạo thành những bãi bùn thu hút từng đàn, từng đàn chim muông bay đến đậu. Thường ngày, 80% diện tích mảnh đất này lộ ra ngoài, một khi thủy triều lên, diện tích của nó chỉ còn khoảng 60%.
Người Nhật ủng hộ quyết định của Tổ Gia, kỳ thực bởi chúng cũng có toan tính riêng của mình. Nhìn bề ngoài, Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật này là nơi giao lưu học thuật hữu hảo giữa Nhật và Trung, nhưng thực chất chính là cơ quan đặc vụ đầu não để thao túng các hội đạo môn Trung Quốc.
Sau Chính biến 18 tháng 9 năm 1931, Nhật Bản liên tục chiếm cứ ba tỉnh miền Đông, rồi liền đó giơ nanh ma vuốt quỷ về phía quần đảo Chu San của các môn hộ miền Đông Trung Hoa. Sau chính biến 28 tháng 1 năm1932, chúng lại đưa rất nhiều tàu chiến đổ bộ quanh quần đảo Chu San và tiến hành diễn tập quân sự. Cuộc Hội chiến Tùng Hộ nổ ra, người Nhật có chỗ đứng ở Thượng Hải, càng coi Chu San là căn cứ xâm lược Trung Hoa quan trọng. Đặt cơ quan đầu não thao túng các hội đạo môn Trung Quốc ở Chu San cũng là kết quả mà người Nhật luôn nung nấu. Nghĩ sâu tính kỹ, bọn chúng thiết lập cơ quan đặc vụ ở đây, theo chiều dọc có thể móc nối với các tỉnh Đông Bắc Sơn Đông, An Huy, Phúc Kiến, theo chiều ngang có thể chống đỡ Hà Nam, Lưỡng Hồ, Sơn Tây, khi cần rút lui có thể vòng về Thượng Hải, quay thẳng về đại bản doanh Nhật Bản, toàn bộ mạch máu của các hội đạo môn Trung Quốc đều bị người Nhật nắm chặt trong tay. Để thực hiện cuộc xâm lược Trung Hoa trên quy mô toàn diện, người Nhật đã làm đúng làm đủ các bài tập mà bọn họ phải làm.
Việc tiếp theo, người Nhật liền tập hợp nhân lực, động thổ xây Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật ở quần đảo Chu San.
Thời gian vun vút trôi, hết mùa giá lạnh lại đến mùa nóng nực, thu qua rồi đông lại tới.
Ngày 1 tháng 11 năm 1935, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 khóa 4 của Quốc dân Đảng họp, trong cuộc họp đã xảy ra một chuyện làm kinh động trong và ngoài nước: Nguyên lão Uông Tinh Vệ của Quốc dân Đảng bị ám sát tại hội trường. Người thực hiện cuộc ám sát chính là một chí sĩ yêu nước, nhà báo của thông tấn xã Thần Quang tên là Tôn Phụng Minh. Uông Tinh Vệ trúng ba phát súng, trong đó phát thứ hai găm trúng giữa xương ức thứ sáu và thứ bảy là vết thương chí mạng, mặc dù không mất mạng ngay, song vết thương khá nguy kịch, về sau tuy được cứu sống, nhưng năm 1944, vết thương cũ tái phát, chết ở Nagoya, Nhật Bản.
Người lên kế hoạch cho hoạt động ám sát lần này chính là Vương Á Tiều. Vốn dĩ, mục tiêu hàng đầu là Tưởng Giới Thạch, không ngờ hôm đó, Tưởng Giới Thạch thấy trong hội trường quá lộn xộn nhốn nháo, nên hắn do dự không muốn xuống lầu, kết quả Tôn Phụng Minh liền chĩa súng nhằm thẳng Uông Tinh Vệ.
Tin tức đăng đầy trên báo chí, làm chấn động cả nước. Tổ Gia hay tin cả người toát mồ hôi lạnh, bất giác nhớ đến lá thư do đích thân Vương Á Tiều viết không lâu trước đó: “… huynh không biết tự lượng sức mình, lại muốn mưu việc lớn tại Nam Kinh, chặt đầu ba tên Hán gian thề rửa nhục cho đất nước, lấy thân mình mang chính nghĩa chiếu khắp Hoa Hạ!” Vị Cửu gia này đúng là gan lớn tày trời, việc mà ông muốn làm, không chuyện gì là không làm được. Nhưng sau sự việc lần này, tình cảnh của Cửu gia tất nhiên càng thêm nguy hiểm, bọn Quốc dân Đảng nhất định sẽ trừ khử ông bằng mọi giá. Nghĩ đến đây, Tổ Gia mồ hôi ướt đầm, một khi Cửu gia gặp điều bất trắc sẽ không còn ai chống lưng cho mình trong giang hồ nữa.
Kỳ thực, từ sau khi gia nhập vào tổ chức Cung giáo Nhật Bản, hầu như Tổ Gia không hề liên lạc với Vương Á Tiều, thỉnh thoảng có gửi tin tức qua Tăng Kính Võ cũng phải cực kỳ thận trọng, ông sợ người Nhật sẽ lần ra manh mối mà truy tìm, hòng trả thù Vương Á Tiều khi trước đã giết chết Yoshinori Shirakawa. Nhưng, sau một thời gian ngồi yên quan sát động tĩnh và thăm dò tình hình, ông phát hiện thấy hình như người Nhật không hề định ra tay ngay, cho đến sau khi xảy ra chuyện Uông Tinh Vệ bị ám sát, Tây Điền Mỹ Tử mới nói rõ chân tướng của sự việc cho Tổ Gia nghe: chúng tôi đã điều tra ra hành tung của Vương Á Tiều từ lâu, nhưng trực tiếp ra tay giết Vương Á Tiều không bằng cứ đợi hắn giết chết Tưởng Giới Thạch, bọn Quốc dân Đảng chắc chắn sẽ điên cuồng bổ nhào tới, chúng tôi chỉ việc ngồi trên núi mà xem hổ cắn nhau, đến thời khắc then chốt bồi thêm một phát đạn là được.
“Chuyện nghêu cò mổ nhau, ngư ông đắc lợi, Tổ Gia đâu phải không hiểu. Nào ngờ Tưởng Giới Thạch mạng lớn, lại tránh được kiếp nạn.” Tây Điền Mỹ Tử lại nói: “Trò hay sắp diễn ra rồi, Tổ Gia đừng quên sứ mệnh của mình!”
Ngay sau đó, vào ngày 24 tháng 11 năm 1935, dưới sự thao túng của người Nhật, tên đại Hán gian vùng Hoa Bắc là Ân Nhữ Canh phát động “Sự biến Ký Đông”, đọc tuyên ngôn tuyên bố Nam Kinh thoát ly khỏi chính phủ Quốc dân Đảng; ngày 25 tháng 11 năm 1935 lại thành lập Ủy ban tự trị chống Cộng Ký Đông, tuyên bố 12 huyện vùng Ký Đông thoát khỏi sự quản chế của chính phủ Quốc dân.
Trong quá trình 12 huyện Ký Đông giành được độc lập, phân đà Thiên Thánh Đạo ở Bắc Bình cực kỳ chăm lo tạo thanh tạo thế cho mình, chúng luôn mồm hô hào khẩu hiệu: “Càn Khôn gặp họa lớn, ngày tận thế sắp ập xuống đầu, phúc đến từ phương Đông, một lòng cứu độ chúng sinh”, chúng tiêm nhiễm dần dần tư tưởng “bạn Nhật tử tế” rồi lại dùng thuật Trát phi được Sở Cung giáo Nhật cung cấp cho, giở thần giở quỷ, lừa gạt nhân dân, sau khi 12 huyện độc lập, nhân dân vẫn tưởng những ngày tháng tươi đẹp đã đến.
Cùng lúc này, bọn trùm sỏ đặc vụ Nhật cũng bôn ba khắp các vùng Bảo Định, Thái Nguyên, Tế Nam với mưu đồ lợi dụng Tống Triết Nguyên ở Ký Sát Bình Tân, Diêm Tích Sơn ở Sơn Tây, Hàn Phúc Củ ở Sơn Đông, Thương Chấn ở Hà Bắc… để thực hiện kế hoạch “Năm tỉnh Hoa Bắc tự trị”.
Trong sự ồn ào như vậy, Trung Quốc đã bước qua những giờ phút sống còn của năm 1935.
Vào đêm giao thừa, Tổ Gia lại chìm vào trạng thái đăm chiêu, trầm ngâm.
Phía Nhật Bản không ngừng hối thúc các hội đạo môn phải phô trương thanh thế của mình, tuyên truyền tư tưởng “Nhật – Trung hữu hảo” và quan niệm “đồng tông đồng tộc”, đồng thời liên tục dàn cục lớn triệu gọi các tiên nhân xuất hiện ở Hoa Bắc, Giao Đông và Giang Hoài, dọa cho nhân dân ngơ ngác, sững sờ. Các hội đạo môn thi nhau gọi giặc là cha, xóa sạch ranh giới phân biệt giữa người Trung Quốc và Nhật Bản. Tổ Gia nhận thấy sự việc càng ngày càng cấp bách.
Ông liên tục thúc giục tiến độ công trình Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật.
Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật là một quần thể kiến trúc được xây dựa theo bố cục “Bát trận đồ” của Gia Cát Lượng.
Toàn bộ quần thể kiến trúc tọa Nam hướng Bắc, gồm có chín lầu nhỏ, trong đó có một tòa chính nằm ở giữa, đằng trước, đằng sau và hai bên trái phải đều có một phòng phụ, bốn góc mỗi góc lại phối hợp với một phòng phụ nữa, kết cấu này chính là hình cửu cung bát quái. Trên Khảm vị lại trồng 24 cây đại thụ, tượng trưng cho 24 trận kị binh đi tuần du đột kích. Bốn dòng sông nhỏ chảy qua như hình con thoi trong quần thể kiến trúc, là trạng thái phong thủy thông suốt, dẫn khí của bát môn: Hưu Môn, Sinh Môn, Thương Môn, Đỗ Môn, Cảnh Môn, Tử Môn, Kinh Môn và Khai Môn ra ngoài. Giữa các phòng nối với nhau bằng lối đi được đóng kín toàn bộ, chỗ nối liền dùng thạch môn che chắn, người đi vào trong quần thể kiến trúc phải đi vào từ Sinh Môn, di chuyển thuận theo khí bát quái, cuối cùng đi ra qua Hưu Môn, mới có thể ra ngoài một cách bình an, một khi vào nhầm Tử Môn, động phải cơ quan thạch môn, thạch môn sẽ tự động đóng kín, người đi vào qua cửa đó chắc chắn sẽ bị nhốt cho đến chết trong đó. Ở đây có một mẹo, khi bị lạc đường, tuyệt đối không được phép ngồi yên trong phòng đợi, chỉ cần muốn đi ra ngoài thì cứ đi theo hướng dòng chảy, thuận theo khí đi xuống, thì có thể tìm lại được Sinh Môn, sau đó thoát thân qua Hưu Môn.
Thiết kế này hoàn toàn do Bùi Cảnh Long và Tổ Gia bày ra, đồng thời nhận được sự tán thưởng cật lực của người Nhật. Người Nhật cũng đã lường trước được rằng, sau khi Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Nhật – Trung được hoàn thành, đặc vụ Nhật và các thầy đồng cốt của sở Cung giáo sẽ tụ tập tại đây, việc này tất sẽ dẫn dụ đám sát thủ Trung Quốc đến ám sát, ngộ nhỡ dụ đến bọn cảm tử không sợ chết, liệu chúng có thể kéo một mẻ lưới hốt được tất cả các nhân tài Dịch học Nhật Bản hay không?
Sau khi nghe Tổ Gia và Bùi Cảnh Long giải thích về Bát trận đồ, bọn chúng mới an lòng, song vẫn không dám khinh địch, chiến hạm của Nhật ngày đêm tuần du quanh quần đảo Chu San để đề phòng bất trắc.
Dưới sự hối thúc và đích thân giám sát thi công của Tổ Gia, vào ngày 6 tháng 5 năm 1936, Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật đã được hoàn thành thắng lợi. Tên đầu sỏ cơ quan đặc vụ Nhật tên là Yoshio Kodama đích thân đến cắt băng khánh thành, tất cả các cao thủ thuật số Trung – Nhật đều đến chúc mừng. Xét thấy công lao to lớn của Tổ Gia và Bùi Cảnh Long, người Nhật đã dành hai căn phòng phía Nam cho hai vị Đại sư ở lâu dài, đi sâu nghiên cứu thuật số, để phục vụ quân của Thiên Hoàng tốt hơn nữa.
Trong Mộc Tử Liên lúc này đang xôn xao tranh cãi, giấy không thể bọc được lửa, việc Tổ Gia trở thành Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa cuối cùng cũng bị tất cả các huynh đệ biết được.
Bọn chân tay xì xào bàn tán không nói làm gì, các Bá đầu cũng bắt đầu có sự chia rẽ, bất đồng. Tam Bá đầu và Ngũ Bá đầu cương quyết ủng hộ, Đại Bá đầu và Nhị Bá đầu nhất quyết phản đối, Tứ Bá đầu Trương Tự Triêm cũng đang nhìn ngó nghe ngóng. Một người khí tiết chính trực như Tổ Gia, chưởng môn đời thứ 14 của Mộc Tử Liên, một vị đại sư Giang Hoài luôn căm thù cái ác, sao lại có thể trở thành Hán gian?
Đêm hôm đó, Trương Tự Triêm cố gặng hỏi Hoàng Pháp Dung: “Rốt cuộc thì mấy tháng nay cô và Tổ Gia đang làm cái gì vậy? Cha ta bị bọn người Nhật giết chết, anh trai ta cũng bị người Nhật giết chết, rốt cuộc thì các người đang làm chuyện gì?”
Hoàng Pháp Dung thản nhiên nói: “Chúng ta phải tin tưởng Tổ Gia!”
Trương Tự Triêm cáu: “Ta bảo cô mau nói cho ta biết!”
Hoàng Pháp Dung điềm tĩnh nói: “Quy định của Đường khẩu anh hiểu rõ mà, chuyện gì nên để người khác biết, Tổ Gia sẽ tự nói, chuyện gì không nên biết, bất kể ai cũng không dám nhiều lời!”
Trương Tự Triêm ngây người ra: “Chúng ta có phải vợ chồng không vậy?”
Hoàng Pháp Dung cười: “Không phải vợ chồng thì là gì?”
Trương Tự Triêm nóng nảy quát tháo: “Cút đi cho ta! Cút!”
Hoàng Pháp Dung nhìn anh ta, nín thinh.
Đêm ngày 15 tháng 8 năm 1936, Tổ Gia đột nhiên triệu tập các Đá đầu.
Điều kỳ lạ là, cuộc họp này không diễn ra ở Đường khẩu, Tổ Gia dẫn mọi người đến từ đường, nơi thờ cúng liệt tổ liệt tông phái Giang Tướng.
Tổ Gia thắp ba nén nhang, cung kính cắm vào lư hương, sau đó không nói gì, chỉ im lặng ngưỡng vọng bài vị và ảnh thờ của liệt tổ liệt tông.
Cả gian phòng im phăng phắc, các Bá đầu cũng ngẩng đầu lặng lẽ nhìn phả hệ.
Tổ đời thứ nhất: Phương Chiếu Dư, Hứa thị, Tăng thị.
Tổ đời thứ hai: Đường Vịnh Hà, Phương Đại Trung, Lâm Khai Thế, Uất Trì Lâm.
Tổ đời thứ ba: Tiêu Văn Viễn, Chu Vân Khai, Giang A Thái, Triệu Tứ Nương.
…
Ngắm nhìn như vậy một hồi, Tổ Gia rưng rưng nước mắt, các Bá đầu cũng rươm rướm, hình ảnh các vị liệt tổ liệt tông trong các bức vẽ chân dung cứ ẩn hiện trong ánh nến ánh đèn, cảnh tượng như gió giục mây vần của bao chuyện đã qua như thấp thoáng, phảng phất trước mắt họ, nào là phản Thanh phục Minh, hành thích Ung Chính, cướp của người giàu chia cho người nghèo, thay trời hành đạo, đi Nam về Bắc, dẹp yên giang hồ… Từng cảnh tượng oanh liệt, lẫy lừng ùa về trong dòng tâm trạng đang trượt theo như một bức tranh cuốn, bức tranh ấy cứ trải dài, dài mãi, kể lại những ngày tháng hào hùng đã qua, thời thế vần xoay, đoạn đường phái Giang Tướng đã đi cũng gần 300 năm, mà nay…
Đột nhiên, Tổ Gia vén vạt áo, quỳ sụp xuống, các Bá đầu cũng quỳ xuống theo.
“Thử tịch hội minh thiên hạ hợp!” Tổ Gia dõng dọc hô to.
“Thử tịch hội minh thiên hạ hợp!” Các Bá đầu không thể tự chủ được, cũng đồng thanh đọc theo.
“Tứ hải chiêu lai tận tính Hồng!” Tổ Gia lại đọc to.
“Tứ hải chiêu lai tận tính Hồng!”
“Kim châm thủ huyết đồng lập thệ!”
“Kim châm thủ huyết đồng lập thệ!”
“Huynh đệ tề tâm yếu đồng hợp!”
“Huynh đệ tề tâm yếu đồng hợp!”
Tiếng hô vang vọng hòa cùng tâm trạng hăng hái khuấy động cả màn đêm, tỏ rõ nghĩa khí can đảm, hào hùng.
Sau đó, Tổ Gia đứng dậy, quay người lại, tuyên bố trước các vị Bá đầu: “Các huynh đệ! Đã đến lúc phái Giang Tướng quên mình báo quốc!”
Các Bá đầu đều trố mắt, ngơ ngác nhìn Tổ Gia. Tổ Gia làm bất cứ điều gì cũng đều có mục đích, mọi người biết Tổ Gia sắp nói ra sự thật.
“Ta từ thế gian đến ‘tác tướng’, trải qua mọi sự giữa chốn nhân gian. Sấm đánh hỏa thiêu không trốn chạy, sống chết ở trong tướng môn. Sống làm người phái Giang Tướng, chết làm ma phái Giang Tướng! Khắc ba giờ Tuất ngày mai, ta sẽ cho lũ giặc Nhật vào chỗ chết cả lũ. Kẻ bằng lòng theo ta thì đi cùng ta, kẻ không đồng ý đi, hãy ở lại đây đợi, sau khi việc lớn ngày mai xong, các ngươi tự phân chia tài sản rồi trốn đi!”
“Người đâu!” Tổ Gia hô to.
Sáu A Bảo to con, cường tráng, cởi trần đang đứng ngoài cửa bước vào, tên nào cũng lăm lăm con dao lớn sáng loáng. Tổ Gia nói: “Không phải ta không tin các huynh đệ, nhưng việc lần này vô cùng hệ trọng, trước khi hành sự, không thể để lộ tin tức. Huynh đệ nào không muốn đi, không được phép rời khỏi đây nửa bước trước khắc ba giờ Tuất ngày mai!”
Các Bá đầu nhìn nhau, có vẻ còn chưa hiểu chuyện gì đang diễn ra. Nhị Bá đầu không nín nhịn được, cuối cùng cũng thốt ra một câu: “Tổ Gia, chúng con đều chưa rõ chuyện gì, xin Tổ Gia nói cho chúng con hay, chúng con thề chết đi theo Tổ Gia!”
Tổ Gia gật đầu, nói ra kế hoạch hành động.
Lúc này, các Bá đầu mới biết điều mà Tổ Gia nung nấu trong lòng bấy lâu nay. Để đợi đến giờ phút này, Tổ Gia đã phải nhẫn nhục chịu khổ; vì cái giờ phút này, Tổ Gia phải lừa gạt các huynh đệ; vì giờ phút này, Tổ Gia cam lòng để người ta chửi rủa sau lưng là “Hán gian số một giới Dịch học”.
Các Bá đầu nghe xong, dòng máu nóng trong người trào sôi, đây mới là Tổ Gia khiến người ta nguyện đi theo cả cuộc đời.
“Kẻ có chí, việc ắt thành, đập nồi dìm thuyền, trăm ải hiểm yếu của Tần sẽ về tay Sở! Người có tâm, trời không phụ, nếm mật nằm gai, ba nghìn quân Việt nuốt sống quân Ngô!” Tam Bá đầu hô to.
“Tổ Gia, chúng con thề chết đi theo sư phụ!” Các Bá đầu đồng lòng.
Tổ Gia nhìn các huynh đệ, mắt rưng rưng, hô lớn: “Mang rượu tới!”
Mấy tên tay chân khênh lên một hũ rượu Nữ Nhi Hồng thượng hạng, rót một mạch bảy tám bát.
Tổ Gia rút chiếc kim vàng ra, đâm vào ngón tay giữa của mình, máu tươi chảy ra, nhỏ vào trong bát rượu. Các Bá đầu cũng đều rút kim ra, chích vào ngón tay mình, rỏ máu vào bát rượu.
Tổ Gia nâng bát rượu lên, nói thật dõng dạc trước bài vị tổ tiên: “Tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm!”
Những dòng nước mắt nóng hổi trào ra trên khóe mắt các vị Bá đầu, tất cả bọn họ nói theo: “Tuy không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện chết cùng ngày cùng tháng cùng năm!”
Nói dứt lời, tất cả mọi người hừng hực khí thế, uống cạn bát rượu, sau đó cùng giơ cao bát lên vứt xuống đất vỡ tan tành.
TRẬN QUYẾT CHIẾN
Ngày 16 tháng 8 năm1936, thủy triều dâng cao trên sông Tiền Đường.
Đây là đợt thủy triều dâng cao nhất trong vòng mười năm trở lại đây trên sông Tiền Đường, cũng chính là điều mà Tổ Gia mong đợi. Báo chí đã cho đăng tải tin tức quan sát hiện tượng thủy triều dâng cao này, ngay cả tướng quân Phùng Ngọc Tường hôm đó cũng sẽ đích thân đến Diêm Quan ngắm thủy triều.
Đầu tiên, sợ xảy ra sơ suất về thời gian thủy triều dâng, Tổ Gia lại bảo Bùi Cảnh Long dùng pháp thuật Kỳ môn khởi cục dự đoán. Sau khi phân tích kỹ lưỡng, Bùi Cảnh Long nói với Tổ Gia: “Tổ Gia yên tâm, khắc ba giờ Tuất, thủy triều sẽ tràn lên toàn bộ quần đảo Chu San, đúng giờ, sóng sẽ cao bảy thước, việc lớn tất thành!”
Tổ Gia tâm đắc gật đầu, sau đó nhìn Bùi Cảnh Long nói: “Bùi hiền đệ, chúng ta từ biệt thôi, mai này chiến tranh kết thúc, Trung Hoa hòa bình trở lại, Dịch học phát triển rực rỡ phải nhờ cả vào hiền đệ.”
Bùi Cảnh Long nhìn Tổ Gia đầy khâm phục, nói: “Tổ Gia, tôi và ông tuy không cùng thế hệ, nhưng rất tâm đầu ý hợp, biết nhau trong cuộc đời là đủ rồi, cuộc chiến lần này, thập tử nhất sinh, tôi không thể bỏ đi được, tôi lên đảo cùng Tổ Gia! Cơ quan Kỳ môn kia do một tay tôi sắp đặt, vào lúc quan trọng có lẽ tôi có thể giúp được Tổ Gia một tay.”
Tổ Gia nhìn chàng trai trẻ tuổi trước mặt, gật đầu, sau đó vỗ vào vai anh ta, hai người anh em ôm nhau thật chặt, soi tỏ lòng can đảm cho nhau.
Tổ Gia không hề nhìn nhầm người, Bùi Cảnh Long quả thật tâm lành còn chưa mất. Sau khi cuộc thi hùng biện Dịch học hôm đó kết thúc, Tổ Gia và Mai Huyền Tử đã bí mật gặp Bùi Cảnh Long, hỏi anh ta tại sao lại chạy theo người Nhật, Bùi Cảnh Long mới kể rõ sự tình, thì ra người Nhật đã giữ mẹ của anh ta, chúng tuyên bố nếu không hợp tác với quân của Thiên Hoàng sẽ giết không tha. Bùi Cảnh Long có tiếng là đứa con hiếu thảo, tự xưa đến nay, trung hiếu khó giữ vẹn toàn, vì thế đành phải nhẫn nhục chịu đựng, ép lòng ép dạ cầu cả hai được toàn vẹn. Sau khi nghe xong, Tổ Gia đã âm thầm bàn tính, kết quả chưa đến một tuần, qua mối quen biết với người ở vùng Trực Lệ của chưởng môn Bắc phái Tuyết Manh Thảo là Tiền Diệu Lâm, ông đã bỏ ra rất nhiều vàng để mua chuộc mấy tên Hán gian, đưa mẹ Bùi Cảnh Long về an toàn.
Sau sự việc đó, Bùi Cảnh Long cảm kích rơi nước mắt. Tổ Gia thấy thời cơ đã chín, liền nói ra sự thật, nghe thấy thế, Bùi Cảnh Long máu nóng hừng hực, còn đòi: Thề chết đi theo Tổ Gia! Nhưng Tổ Gia đã từ chối: “Phái Giang Tướng không phù hợp với cậu, cậu là người am hiểu Dịch học chân chính, hãy làm một người đường đường chính chính, chăm chỉ trau dồi học vấn, mai này tất sẽ thành người tài!”
Bùi Cảnh Long mắt rưng rưng gật đầu: “Đại ân đại đức của Tổ Gia, tôi phải báo đáp thế nào?”
Tổ Gia vỗ vai anh ta, nói nhỏ…
Trưa ngày 16 tháng 8, Tổ Gia, các Bá đầu, Hoàng Pháp Dung, Mai Huyền Tử, Bùi Cảnh Long và thủ lĩnh của hơn hai trăm các hội đạo môn khác, tất cả cùng đi lên đảo, quan sát đợt thủy triều dâng lớn nhất trong vòng gần mười năm qua.
Vào bữa trưa, Tây Điền Mỹ Tử cố ý ngồi cùng bàn với Tổ Gia.
“Tổ Gia đã phải vất vả nhiều, công lao không nhỏ, tôi kính Tổ Gia một chén.” Ánh mắt Tây Điền Mỹ Tử tràn đầy sự ái mộ.
Tổ Gia mỉm cười, nói: “Tất cả đều nhờ Tây Điền thiểu thư nâng đỡ.”
Tây Điền Mỹ Tử nhoẻn miệng cười, nói: “Mặt trăng là âm, mặt trời là dương, âm dương hút nhau thì sẽ có hiện tượng triều dâng. Tôi nghe nói khi thủy triều lên, là lúc nam nữ dễ nảy sinh tình cảm, không biết Tổ Gia đã nghe chưa?”
Tổ Gia chỉ mỉm cười không nói gì.
“Đêm nay, sau khi thủy triều rút, Tổ Gia cứ ở lại đây nghỉ ngơi.” Nói xong, bà ta lại đặt tay lên tay Tổ Gia.
Lần này Tổ Gia không lảng tránh, ngược lại, còn đặt tay kia của mình lên tay Tây Điền Mỹ Tử, nắm thật chặt nói: “Ánh trăng của Trung Quốc quả thật chẳng khác gì ánh trăng của Nhật Bản, cũng vẫn sáng và đẹp như ánh trăng ở Hokkaidō.”
Tây Điền Mỹ Tử sững người.
Sau 7 giờ tối, mặt trời gần khuất hẳn đằng tây, thủy triều dần dần dâng lên.
Đám đông đều tụ tập lại trên tầng hai của tòa lầu chính, cùng ngắm thủy triều đang từ từ dâng lên. Một lúc sau, nước lên cao, tạo thành những con sóng cuộn trào, như hàng vạn con tuấn mã đang lao đến, đâm mạnh vào dải đá ngầm và bề mặt bãi cát, sóng vọt lên cao mười mấy mét. Sau khi vượt qua những vật cản, những con sóng biển xa vạn dặm tạo thành những dải uốn lượn màu trắng, cuồn cuộn ngất trời xô đến, mạnh đến nỗi khó mà chống đỡ được. Đê phòng hộ quanh chín tòa lầu chìm nghỉm dưới những con sóng, mọi người hò reo không ngớt.
Lúc này, mặt trời lặn vẫn còn in bóng, mặt trăng nhô lên phía đằng Đông, ánh sáng chan hòa vào nhau. Sóng biển cuồn cuộn ào tới, đám người vẫn huyên náo, rộn ràng.
Đột nhiên, Tây Điền Mỹ Tử cau mày lại, bà ta phát hiện thấy có thứ gì đó chuyển động lẫn trong những đợt sóng, liền hoảng hốt nói vài câu với đám vệ sĩ đứng bên cạnh, mấy tên vệ sĩ kia quay vào trong phòng, một lúc sau cầm ra một chiếc kính viễn vọng quân dụng.
Tây Điền Mỹ Tử cầm chiếc kính viễn vọng lên nhìn, kêu thất thanh: “Không hay rồi!”
Thì ra, lẫn trong những con sóng là rất nhiều, rất nhiều rắn, chúng đang trườn tới Viện giao lưu Dịch học hữu nghị Nhật Trung theo những con sóng lớn đang ào đến.
“Ở đâu ra nhiều rắn đến vậy?” Tây Điền Mỹ Tử nhìn kỹ, trên mình những con rắn này có hình hoa văn rất đặc biệt, đều là loại rắn cực độc, bà ta hốt hoảng kêu lên: “Mau đóng thạch môn! Mau đóng thạch môn! Trong nước có rắn!”
Đám binh lính chen nhau chạy xuống lầu nhưng đã muộn, hàng nghìn hàng vạn con rắn đã bò vào tận đây, mọi người chỉ chú ý ngắm nhìn những đợt sóng tung bọt trắng xóa, chẳng ai phát hiện ra rắn độc đã trườn vào trong quần thể kiến trúc này.
Một tên lính đứng canh chỗ cầu thang liền rút súng, toan bắn vào đàn rắn thì một con rắn độc lao vụt đến, há miệng cắn đúng vào trán hắn, đám binh lính náo loạn cả lên, thi nhau nổ súng dọa.
Nghe thấy tiếng súng nổ, đám đông đột nhiên sững lại, cùng cúi người nhìn, một luồng khí lạnh ngắt chạy dọc sống lưng, vô số con rắn độc như bị niệm chú, trườn nhanh như bay giữa đám cây leo tường, bò lên tận đỉnh lầu. Cả đám người la hét, chạy tán loạn.
Lưu Hạt Tử chỉ có một con mắt cũng loạng choạng mò mẫm chạy theo đám người, đột nhiên, một bóng đen dài lao tới trước mặt, ông ta há miệng định hét lên, con rắn độc lao thẳng vào miệng lão, cắn phập lưỡi. Lưu Hạt Tử đau đớn, muốn kêu mà không kêu nổi, hai tay bóp chặt mình con rắn, giữ không cho nó chui vào bụng. Bất thình lình, người hắn chao đảo, rồi rơi xuống lầu, nằm giữa vạn con rắn.
Trịnh Bán Tiên hốt hoảng trốn vào trong một cái tủ, đóng chặt cánh lại, thở hồng hộc, đột nhiên hắn nghe thấy trên đầu có tiếng xì xì. “Chết rồi!” Trịnh Bán Tiên thầm kêu lên. Một con rắn độc đã chui vào cái tủ từ lâu, đúng vào lúc Trịnh Bán Tiên ngẩng đầu lên nhìn, từ răng con rắn rớt ra một thứ chất độc, cứ thế cắn thẳng vào con ngươi Trịnh Bán Tiên. “Á!” Trịnh Bán Tiên kêu lên thảm thiết, thân người đổ nghiêng xuống làm bật tung cánh tủ, mấy trăm con rắn lao đến. Chỉ trong chớp mắt, hắn ta ngập trong bầy rắn.
Long Ngọc Phụng và Đinh Tử Hà chạy đến chỗ rẽ xuống sảnh lớn dưới lầu thì bị một đàn rắn chặn ở chỗ cầu thang. Mấy binh lính dùng súng và súng lửa bắn về phía chúng chặn lại.
Ngọn lửa dữ dội thiêu lũ rắn cháy xèo xèo, bao nhiêu con quặn người lại, co quắp, từng đống từng đống đang bò trên cầu thang bị rơi xuống.
Nhưng lũ rắn phía sau lại trườn đến như ong vỡ tổ, không thể chống đỡ được.
Long Ngọc Phụng và Đinh Tử Hà cuống cuồng cắm đầu chạy. Đinh Tử Hà sợ hãi hét toáng lên. Long Ngọc Phụng túm chặt lấy bà ta, gào lên bằng giọng Thiên Tân nặng trịch, khàn đặc: “Mẹ kiếp, gào cái gì! Làm lão nương hết hồn! Không phải bên cạnh ngươi có Vương Mẫu che chở sao! Mẫu Nương!?”
Đinh Tử Hà mắt long sòng sọc lườm Long Ngọc Phụng: “Câm mồm!”
Khi hai mụ còn đang chửi nhau, một tiếng “khực” vang lên, còn chưa biết đó là tiếng gì thì đột nhiên im thít.
“Tiếng gì vậy?”
“Hả?” Đinh Tử Hà lại kêu lên thảm thiết, thì ra đó là tiếng một binh sĩ bị gãy cổ.
Không biết từ bao giờ, một con trăn khổng lồ bò đến, nó lạng sang bên này rồi lại lạng sang bên kia nhanh thoăn thoắt, thân người co lại, ép đầu một tên lính nát bét, đốt sống cổ bị gãy, ngay lập tức cái đầu treo lủng lẳng.
Hai tên lính khác hoảng hốt cầm súng bắn đuổi con trăn khổng lồ, nó quất mạnh cái đuôi vào khẩu súng, rồi lại trườn lên chỗ cao nhất ở tay vịn cầu thang đánh vụt một cái, hai tên lính kia còn chưa kịp phản ứng gì, nó đã từ trên không lao vụt xuống, trong chớp mắt quấn chặt lấy hai tên lính, nó lại ưỡn mạnh một cái khiến hai bộ xương kêu lên răng rắc, hai tên lính đổ ra đất như hai người giấy.
Ngay sau đó, con trăn khổng lồ bổ nhào về phía Long Ngọc Phụng và Đinh Tử Hà…
Lúc này, Tổ Gia đang bám sát theo Tây Điền Mỹ Tử, ông muốn tận mắt nhìn thấy con mụ trùm sò đặc vụ độc ác này chết thế nào.
Tây Điền Mỹ Tử cầm khẩu súng ngắn, đi xuống lầu trong sự yểm hộ của đám binh lính. Lúc này, trời đã tối hẳn, nước biển ngập tràn, lũ rắn nhảy múa hỗn loạn, mấy binh lính bắn súng lửa mở đường. Quần thể kiến trúc này vốn được thiết kế theo Bát trận đồ, tạo thành một mê cung, trong đêm tối càng khó phân biệt được phương hướng, Tây Điền Mỹ Tử cuống quýt nói: “Mau tìm Sinh Môn! Vào từ Sinh Môn mới có thể ra được qua Hưu Môn.”
Nói thì dễ, nhưng tìm được là điều vô cùng khó. Lúc này, Tây Điền Mỹ Tử chẳng còn nghĩ đến chuyện giữ bí mật nữa, bà ta gào lên: “Chạy theo hướng dòng sông sẽ tìm được Sinh Môn!”
Tổ Gia nghe thấy thế, thở dài ngẩng mặt lên trời. Hơn một năm ông chuyên tâm dàn cục, nhẫn nhục chịu đựng mang cái tiếng Hán gian, lại nghĩ trăm phương nghìn kế để đoạt cho được danh hiệu Thái Sơn Bắc Đẩu Dịch học Trung Hoa, sau đó lại lấy danh nghĩa xây dựng Viện giao lưu hữu nghị Dịch học Nhật – Trung để rút sạch tiền bạc của các hội đạo môn, chung tay với Bùi Cảnh Long dựng lên bố cục Trận đồ bát quái vô cùng tinh vi này. Cuối cùng, hôm nay cũng được như tâm nguyện. Thứ mà ông muốn nhìn thấy chính là cảnh tượng này.
Trong cửu cung Bát trận đồ, bốn long mạch (dòng chảy) như tàu con thoi, từ Sinh Môn đến Tử Môn đều có quy luật của nó. Tổ Gia đã đợi đợt thủy triều lớn nhất trong vòng mười năm này, để nước lớn cuồn cuộn tràn vào, tạo thành những dòng chảy ngược chiều; một khi dòng chảy ngược chiều, các cơ quan cũng sẽ đảo ngược chiều, long mạch vỡ tắc, khí ngũ hành lập tức biến đổi, khí cửu cung cũng đột ngột biến đổi theo, Sinh Môn biến thành Tử Môn, Tử Môn biến thành Sinh Môn, kiến trúc nơi này không thay đổi, nhưng cục cát hung đã khác một trời một vực. Đây chính là chỗ thần kỳ của Bát trận đồ!
Tổ Gia bám theo bọn Tây Điền Mỹ Tử chạy về phía dòng chảy thuận chiều, mất chừng một khắc, cuối cùng cũng thấy một thạch môn, trên cửa ghi hai chữ Sinh Môn.
Tây Điền Mỹ Tử mỉm cười: “Trời giúp ta rồi!”
Ngay sau đó, bọn chúng liền chui vào trong.
Vòng qua mấy chỗ rẽ, chúng bị một thạch môn chặn lại trước mặt, Tây Điền Mỹ Tử nói: “Thạch môn này được đặt theo một hướng, phải đi vào Sinh Môn mới có thể đẩy ra được.” Nói xong, bà ta đút súng vào túi, giơ tay ra đẩy cửa.
Thạch môn không hề động đậy, Tây Điền Mỹ Tử lại đẩy tiếp, vẫn không thấy cánh cửa nhúc nhích, mấy tên lính cũng đến đẩy giúp bà ta.
Lúc này, Tổ Gia lặng lẽ đi vòng ra phía sau lưng Tây Điền Mỹ Tử, nhanh như chớp rút lấy khẩu súng lục trong túi bà ta. Pằng! Pằng! Pằng! Ba tiếng súng đanh gọn, chói tai, ba tên lính chết ngay tức khắc. Ngay sau đó, Tổ Gia chĩa thẳng súng vào Tây Điền Mỹ Tử.
Tây Điền Mỹ Tử sững người, song dù gì cũng là một đặc vụ lão luyện bao nhiêu năm, bà ta liền hiểu ra mọi chuyện, bình thản nói: “Thì ra là âm mưu của ngươi ư?”
Tổ Gia gật đầu: “Ngươi giết bao nhiêu người Trung Quốc như vậy, thù mới hận cũ chất chồng, cũng đến lúc báo rồi.”
Tây Điền Mỹ Tử đưa tay lên vén tóc mai ướt nhẹp vì nước biển, cười như mếu: “Xem ra Tổ Gia luôn lừa dối tôi…”
“Là bà luôn lừa gạt người Trung Quốc.”
“Uổng công tôi luôn nặng lòng với Tổ Gia…” Tây Điền Mỹ Tử đau lòng nói.
“Khà khà…” Tổ Gia cười. “Chuyện nữ nhi tình trường chỉ là chuyện nhỏ, chuyện sống chết của nước nhà mới là chuyện lớn. Tây Điền tiểu thư không phải cũng vì Nhật Bản mới đến Trung Quốc sao?”
Tây Điền Mỹ Tử nước mắt tuôn rơi, mãi lâu sau, bà ta nói: “Cha tôi là một ngư dân, khi còn nhỏ, tôi rất thích được nằm trên bãi biển, ngắm nhìn ánh trăng vừa to vừa đẹp đẽ. Nay tôi vào lính, trở thành một đặc vụ, tính mạng của một đặc vụ không thuộc về bản thân mình nữa mà thuộc về Thiên Hoàng của Đế quốc Nhật Bản, tôi không có đường lui. Tôi luôn nhớ về thời thơ ấu, vô lo vô nghĩ nằm dài trên bãi biển, ngắm nhìn ánh trăng vừa to, vừa tròn…”
“Tại sao phải có chiến tranh, tại sao không thể chung sống hòa bình?” Tổ Gia buồn bã nói.
“Cá lớn nuốt cả nhỏ, đây là quy luật của xã hội loài người. Cho dù Nhật Bản không xâm lược Trung Quốc, nước khác cũng sẽ… Đáng tiếc, ở Trung Quốc, những người như Vương Á Tiều và Tổ Gia quá ít…” Nói đến đây, Tây Điền Mỹ Tử nhìn Tổ Gia bằng ánh mắt tha thiết. “Tổ Gia, tôi hỏi ông một chuyện, xin hãy trả lời thật lòng!”
Tổ Gia gật đầu.
“Với tôi, ông có từng động lòng chút nào không?”
Tổ Gia nhìn Tây Điền Mỹ Tử, gật đầu thừa nhận.
“Vậy, hãy ôm tôi một lần!”
Tây Điền Mỹ Tử từ từ ngả về phía Tổ Gia, trong khoảnh khắc giơ hai tay ra, đột nhiên tay trái giữ chắc lấy tay phải Tổ Gia, quay người định cướp lấy khẩu súng trong tay Tổ Gia.
Tay phải bị giữ chặt, Tổ Gia liền xoay người đẩy ra, đổi khẩu súng sang tay trái, bóp cò. Một tiếng “đoàng” vang lên, Tây Điền Mỹ Tử đổ gục trong lòng ông.
Tổ Gia vẫn đỡ lấy bà ta. Gắng gượng hơi thở cuối cùng, Tây Điền Mỹ Tử thở hắt ra, mỉm cười nhìn thẳng Tổ Gia, yếu ớt nói: “Nếu… không có chiến tranh, tôi nguyện… được cùng Tổ Gia ngắm trăng.” Nói xong, vĩnh viễn khép chặt đôi mắt, nụ cười vẫn còn in trên khóe miệng.
Lúc này, một tiếng nổ chói tai vang lên xé toạc màn đêm, ngay sau đó là tiếng rầm rầm, đất trời như đổ sụp xuống, hoành ngang ở chỗ lối đi bị đổ, Tổ Gia cởi bỏ chiếc áo dài đang mặc trên người, quấn lên người Tây Điền Mỹ Tử, sau đó chạy nhanh ra ngoài. Lại một tiếng nổ cực mạnh nữa vang lên, đất trên tường rơi xuống bụi mù, trong khoảng khắc nó xộc tới chỗ hành lang, Tổ Gia không thể kìm lòng ngoảnh lại nhìn, thi thể Tây Điền Mỹ Tử dần bị chôn vùi trong đống đổ nát, khói bụi cuồn cuộn. Tổ Gia không nhìn nữa, ông xông thẳng ra ngoài.
Bên ngoài, lửa đạn bay mịt mù, ánh lửa bùng cháy tận trời cao.
Quân hạm của Nhật Bản tuần tra gần quần đảo Chu San nhận được tín hiệu cầu cứu do bọn đặc vụ gửi đi, vô số đạn pháo từ ngoài biển khơi nã vào, bùn đất bắn tung tóe, bầy rắn độc và đám cả đám người cùng nát nhừ.
Học viện giao lưu hữu nghị Dịch học Trung – Nhật khí thế hùng tráng đổ sụp ầm trời.
Ghi Chú
1 Tạm dịch: Kẻ tham lam tất sẽ bần tiện, người quân tử luôn đề phòng, nhà Phật quy vào đứng đầu Ngũ giới, do đó mà làm A Bảo, không thể trách kẻ đi lừa, mà nên trách người để bị lừa.
2 Ngũ giới: không trộm cướp, không sát sinh, không tà dâm, không vọng ngôn, không uống rượu.
3 Tức tám chữ là giờ, ngày, tháng, năm sinh được viết theo Thiên can và Địa chi. Đây là một cách xem tướng số của Trung Quốc.
4 Một loại tiền giấy của chính phủ Quốc dân Đảng phát hành từ năm 1935.
5 Tức tạo những chuỗi thòng lọng móc lại với nhau để tạo nên cú lừa ngoạn mục.
6 Tức chỉ bang hội, ngoài ra còn mang nghĩa là giác quan thứ sáu.
7 Tức năm 1924.
8 Ở đây một cân tương đương 500g.
9 Tiếng địa phương, nghĩa là rất gan góc.
10 Là tên gọi dành cho loại khoáng vật cinnabarit của thủy ngân sẵn có trong tự nhiên, có màu đỏ.
11 Bí kíp sáu chữ.
12 Nhà tướng số nổi tiếng thời Dân Quốc, người Gia Hưng, Triết Giang.
13 Tạm dịch: Người nhân đức, tâm nhân từ, hành việc nhân nghĩa; Giữ hòa thuận, giữ thiện lương, giữ vững thái bình.
14 Tức quân Thái Bình Thiên Quốc, là cuộc khởi nghĩa nông dân cuối đời nhà Thanh do Hồng Tú Toàn khởi xướng.
15 Tức chỉ phong trào bảo vệ Hiến pháp lâm thời, khôi phục Quốc hội với tư cách là Đảng viên cách mạng giai cấp tư sản mà đứng đầu là Tôn Trung Sơn, từ tháng 7 năm 1917 đến tháng 5 năm 1918.
16 Là dòng kiến trúc nhà ở truyền thống của dân tộc Hán, Trung Quốc.
17 Tổ chức lính bảo an địa phương thời nhà Thanh và đầu thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc.
18. Ám chỉ tinh hoàn.
19 Súng trường Mauser do hai anh em người Đức Wilhelm và Peter Paul Mauser (1838-1914) phát minh ra.
20 Gia đình bị diệt vong, người thân bị ám hại.
21 Tức chỉ Thái Bình Thiên Quốc, cuộc khởi nghĩa nông dân nửa cuối thời nhà Thanh do Hồng Tú Toàn khởi xướng.
22 Tam cương: là khái niệm đạo đức - xã hội của Nho giáo. Nho giáo coi giữa người và người có năm mối quan hệ (ngũ luân): vua - tôi, cha - con, anh - em, vợ - chồng và bè - bạn. Ngũ thường: là khái niệm đạo đức Khổng học, chỉ năm đức cơ bản của đạo làm người: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
23 Tức Thanh Thế Tông - tên húy là Dận Chân - vị Hoàng đế thứ tư của nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm 1722 đến 1735.
24 Ba lượt rượu.
25 Tạm dịch: Làm người chớ làm việc trái lương tâm, trên đầu có Thần Phật soi dõi; thiện ác cuối cùng tất có báo ứng, chỉ là điều sớm hay muộn mà thôi.
26 Điều mình không thích thì đừng làm cho người khác.
27 Tức chỉ cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng Trung Quốc diễn ra từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 6 năm 1950.
28 Tiền thân của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
29 Giặc Mèo.
30 Kiếp này đoản mệnh là vì đâu, là vì Kiếp trước giết hại quá nhiều sinh linh.
31 Gồm cõi Trời, cõi Người, cõi Atula, cõi Súc sinh, cõi Quỷ đói và cõi Địa ngục.
32 Thuật ngữ trong tướng số.
33 Nghĩa là nước chảy qua ngựa gỗ.
34 Là một nhánh của quân Cách mạng Quốc dân, Trung Hoa Dân Quốc.
35 Trong tướng mặt: cung Phu thê ở hai bên đuôi mắt; cung Quan lộc nằm giữa trán; cung Mệnh nằm giữa hai chân mày.
36 Bốn câu cổ thi, đại ý là chàng ở đầu sông, thiếp cuối sông, nhớ nhau mà không gặp được, nhưng ta cùng uống chung dòng nước.
37 Xưa nay nếu thần tử không đấu đá lẫn nhau thì hoàng đế sao có thể ngồi yên trên ngai vàng được?
38 Còn gọi là “Chính biến Thượng Hải”, “Biến cố ngày 12 tháng 4” hay “Cuộc thảm sát Thượng Hải”, kéo dài từ tháng 4 năm 1927 đến tháng 5 năm 1950. Đây là một cuộc nội chiến ở Trung Quốc giữa Quốc dân Đảng và Đảng Cộng sản, do những bất đồng sâu sắc về quan niệm phát triển kinh tế ‒ xã hội.
391. Một dạng hí khúc lưu hành ở miền Nam Giang Tô, Bắc Kinh, Hà Bắc, dùng giọng Côn Sơn để hát. Còn gọi là Tuồng Côn Sơn.
40. Viết theo phong cách của Liễu Công Quyền, một nhà thư pháp nổi tiếng thời Đường, Trung Quốc.
41. Ban đầu được dùng trong quân đội. Ý nghĩa là: “Khi án binh bất động thì yên ắng tĩnh lặng như thiếu nữ trong trắng nơi khuê các, tới lúc tác chiến thì tốc độ chớp giật, nhanh nhẹn như thỏ đang chạy trốn.” Về sau được tách ra dùng như một cụm thành ngữ riêng, hàm ý ví von vẻ đẹp dịu dàng, tĩnh tại, an nhiên, sâu lắng.
42. Đôi môi đỏ thắm.
431. Trong Kỳ môn Độn giáp, Tam kỳ chỉ ba Thiên can Ất, Bính, Đinh. Trong Lục Nhâm chỉ ba Địa chi Tý, Hợi, Sửu.
44. Thiên đình là vị trí chính giữa trán. Địa các là vị trí giữa cằm.
45. Tam đình tức Thượng đình (từ mép tóc đến lông mày); Trung đình (từ đầu lông mày đến chóp mũi); Hạ đình (từ chóp mũi đến cằm). Ngũ nhạc tức Trung nhạc Tung Sơn (mũi); Nam nhạc Hoành Sơn (trán); Bắc nhạc Hằng Sơn (Địa các); Đông nhạc Thái Sơn (gò má trái); Tây nhạc Hoa Sơn (gò má phải).
46. Tức hai đường chạy từ cánh mũi xuống đến khóe miệng.
47. Vạn vật trong vũ trụ khi phát triển đến cực độ tất sẽ chuyển sang trạng thái suy tàn.
48. Đất ẩm.
49. Một dạng thuốc mê.
50. Tức Quảng Đông.
51. Vượt qua sông.
52. Thực đơn cuối xuân của Lục gia.
53. Tuần thứ năm sau khi mất.
54. Theo Kinh dịch, tứ tượng bao gồm: Thái dương, Thiếu dương, Thái âm, Thiếu âm.
55. Ít âm xung với toàn dương.
56. Loại đậu chế biến theo phương pháp bí truyền có hai màu.
57. Thuật ngữ trong Kỳ môn độn giáp.
58. Theo Đông y là chỉ các lỗ trên cơ thể con người: hai mắt, hai tai, hai lỗ mũi, miệng được gọi là Thất khướu.
59. Chỗ thu được nhiều lợi ích.
60. Tựa lưng vào núi, nằm kề gần nguồn nước.
61. Núi non.
62. Chi nhánh.
63. Người cầm lái.
64. Đồng bạc in hình Viên Thế Khải.
65. Đồng bạc in hình Tôn Trung Sơn.
66. Một loại giấy bạc phát hành năm 1948 của chính phủ Quốc dân Đảng.
67. Tức 60 năm.
68. Thuật ngữ Chu Dịch.