Tôi Là Thầy Tướng Số - Quyển 2 - Chương 6
Chương 6. NGƯỜI NHẬT NGHIÊN CỨU DỊCH HỌC
ĐIỀN NHỊ TẨU SỐNG LẠI
Tháng 11, Ngụy Mãn Châu tuyết bay đầy trời.
Tại sở Cung giáo 007 khu quản chế quân sự Phụng Thiên của Nhật, Tổ Gia đang ngồi xếp bằng trong phòng giam.
Đột nhiên, cánh cửa sắt mở ra, một nữ sĩ quan Nhật bước vào, đứng trước mặt Tổ Gia, hỏi ông bằng tiếng Trung rất lưu loát: “Tổ Gia, nghĩ kỹ chưa? Hợp tác, hay không hợp tác đây?”
Tổ Gia nhìn bà ta, mỉm cười: “Hợp tác!”
“Ừm.” Nữ sĩ quan nở một nụ cười. “Người Trung Quốc có câu, kẻ thức thời là trang tuấn kiệt, Tổ Gia có thể nhìn thấu thời cuộc, thật rất tiến bộ.”
Thì ra, hôm đó, Tổ Gia bị người của Phòng tuần bổ dẫn về xác minh thân phận, sau đó liền bị giải về khu Nhật chiếm đóng ở Ngô Tùng.
Tổ Gia hơi run sợ trong lòng, lần này chắc hỏng rồi, bọn người Pháp và người Nhật đã câu kết với nhau, số mình tiêu rồi!
Trên đường đi, trong lòng Tổ Gia ngổn ngang bao điều, ông hồi tưởng lại những ngày tháng trong hơn mười năm qua của phái Giang Tướng, phải Đông bôn Tây tẩu, liều chết trong chốn giang hồ, là vì mưu cầu cái gì đây? Sau khi mình chết, Đường khẩu sẽ ra sao? Các huynh đệ sẽ ra sao? Ông chợt nghĩ đến những người thân đã sớm xuống suối vàng, để lại ông một thân một mình cô độc, lại tự hỏi mình đến cuộc đời này làm gì?! Lại nhớ đến những lời mà Hoàng Pháp Dung đã nói sau bữa tiệc rượu hôm đó, “Pháp Dung số khổ, xa xứ biệt quê, nhớ Yến nương ở phương Nam, nhớ mẹ cha phương Bắc, mỏi mắt trông không một bóng người thân, một mình lẻ loi…”, ít ra Hoàng Pháp Dung còn có mẹ mà nhớ, như ông mới thật là lẻ loi một mình! Nghĩ đến đây, trong lòng Tổ Gia trào lên một nỗi thê lương.
Điều nằm ngoài dự liệu đó là, sau khi đến trại lính của Nhật, người Nhật không vội vàng hành quyết Tổ Gia, mà nhét ông vào một chiếc xe tải. Sau một tuần liền phải chịu cảnh lắc lư, nghiêng ngả suốt ngày suốt đêm, đến khi được ra khỏi cửa xe lần nữa, thì ông thấy mình đã ở tận vùng đông bắc rộng lớn, mênh mông.
Sau đó, Tổ Gia bị dẫn đến khu quản chế quân sự Phụng Thiên.
“Tổ Gia, vẫn khỏe chứ?” Vừa tới nơi, một nữ sĩ quan liền hỏi ông.
Thoạt nhìn, Tổ Gia thấy khuôn mặt người phụ nữ này rất quen, hình như đã gặp ở đâu đó, nghĩ mãi ông mới “Ồ! Thì ra là bà ta!”
“Chẳng phải bà đã…” Tổ Gia buột miệng hỏi.
“Chết rồi, đúng không?” Người đàn bà liền bật cười. “Đây chính là điều mà người Trung Quốc các ông thua người Nhật chúng tôi đấy, bọn phản bội ở nước các ông quá nhiều, việc gì cũng chỉ cần bỏ tiền ra là có thể làm được.”
Tổ Gia cười khà khà, nói: “Điền Nhị tẩu quả đúng là thần thông quảng đại.”
Người đàn bà này chính là Tây Điền Mỹ Tử, người đã “rút súng tự vẫn” ở Quảng Châu hai năm trước.
“Hãy gọi tôi là Tây Điền.” Tây Điền Mỹ Tử cười nhạt. “Bệnh của Người Trung Quốc các ông vô phương cứu chữa rồi. Trước đó một ngày, tổ chức Mật tra định thanh tra chúng tôi, chúng tôi đã nhận được mật báo của một tên chỉ điểm trong nội bộ Quốc dân Đảng. Nữ đặc vụ Nhật tự bắn vào mình mà chết kia thực ra chính là người Trung Quốc các ông đấy, đó là một nữ Đảng viên Cộng sản ở Phúc Kiến, sau khi bị Quốc dân Đảng bắt được, liền cho bà ta làm ma thay thế, hơn nữa vốn chẳng phải bà ta tự sát gì cả, chẳng qua là hiện trường giả do tổ chức Mật tra dàn dựng. Chính vào lúc cả nước các ông mừng vui phấn khởi đã trừ bỏ được hang ổ đặc vụ Nhật ấy, chúng tôi đã dựng lên một cái hỏa lò khác ở Chu Hải. Một cán bộ công chức vì tiền có thể bán nước, cái đất nước này thế là tiêu đời rồi. Hai năm nay, sở dĩ chúng tôi không ra tay với Tổ Gia, chính bởi muốn lần dây dưa mà sờ trái, mục đích là tìm Vương Á Tiều. Nhưng Vương Á Tiều quả rất lợi hại, hành tung bí hiểm, nắm bắt thông tin cực nhanh nhạy, bao nhiêu lần đều khiến bọn ta vồ trượt. Lại còn tên Tăng Kính Võ của Hội quán Tinh Võ nữa, hắn cũng nằm trong tầm ngắm của bọn ta. Hắn cứ nghĩ mình thông minh lắm, nhưng hắn nhầm rồi, nếu không phải bọn tôi cố ý tiết lộ danh sách cần ám sát thì chỉ dựa vào một tên thổ phỉ lưu manh đó, làm sao có thể lấy được tin tình báo quân sự của chúng tôi chứ? Người Trung Quốc các ông ấy à, đa phần có thể chia thành hai loại người: một là hạng bán nước, chỉ biết đến lợi ích của mình, vì tiền có thể bán rẻ tất cả; hai là hạng lưu manh như Tăng Kính Võ, chỉ biết đánh đấm, chém giết. Không biết hắn đã từng nghĩ được điều này chưa, giết một hai người Nhật có thể thay đổi được đại cục không chứ? Đúng là phường thất phu! Hữu dũng vô mưu!”
Bà ta xổ ra một tràng khiến Tổ Gia chán nản, nước lớn thế mạnh mà lại bị giặc Nhật bé cổ chơi trò tung hứng trên tay, trước tình cảnh ấy, phải làm sao đây?
Suy ngẫm giây lát, Tổ Gia đột nhiên hỏi: “Lần này đã muốn giết tôi, tại sao không trực tiếp ra tay, lại còn phải lừa dụ tôi đến tô giới Pháp?”
Tây Điền Mỹ Tử cười: “Tổ Gia vốn rất khôn ngoan, đâu đâu cũng phòng bị, chúng tôi không muốn xông thẳng vào Mộc Tử Liên, phùng mang trợn má bắn giết lẫn nhau với mấy trăm huynh đệ của ông, đó là việc làm của thằng ngu thôi. Sau sự biến “18 tháng 9”, chúng tôi đã chiếm lĩnh được cả vùng Đông Bắc. Năm 1932, chúng tôi lại tiến công Thượng Hải, đầu xuân năm ngoái cho đến nay, chúng tôi đã liên tiếp tiêu diệt nghĩa quân kháng Nhật ở Đông Bắc. Nhân lúc chúng tôi phải liên tục tác chiến, vừa mới nghỉ ngơi lấy sức thì người Pháp lại lợi dụng tình hình đó mà nhảy vào, chiếm hết chín đảo ở biển Đông. Mấy hòn đảo này diện tích không đáng là bao, nhưng có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng, kẻ nào chiếm lĩnh được, kẻ đó sẽ trấn giữ được cả eo biển Malacca, từ đây có thể khống chế được cả con đường vận tải biển ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương…”
“Từ năm 1911 đến nay, người Nhật đã bắt đầu tiến hành công việc khảo sát trên những hòn đảo này, người Pháp đổ bộ đến sau, lại đuổi hết người của chúng tôi ra khỏi đảo, chúng tôi không thể để yên được. Thiên Hoàng bệ hạ đã cho triệu kiến lãnh sự Pháp ngay lập tức, bọn họ đưa ra một vài điều kiện. Trong đó, có một điều kiện là, kiều bào Nhật có thể tự do ra vào tô giới Pháp, chỉ trừ phi xảy ra xung đột giữa kiều bào Nhật với người Pháp, còn lại tất cả đều được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. Hành động lần này, chúng tôi sắp đặt ở tô giới Pháp, thứ nhất để giảm bớt tâm lý đề phòng của Tổ Gia, thứ hai muốn xem xem người Pháp có làm theo điều họ cam kết hay không…”
Tổ Gia gật đầu, không khỏi thở dài trước sự xảo quyệt của người Nhật: “Đã dụ được tôi, sao không phái thêm nhiều người đến, chỉ một đòn giết tôi chết có phải hay không?”
Nghe thấy thế, Tây Điền Mỹ Tử bật cười khanh khách: “Tổ Gia tưởng những sát thủ đó là người Nhật thật sao? Chúng tôi làm sao có thể sai phái người của mình đi chết được chứ? Mạng của người Nhật đáng đồng tiền lắm đấy. Chúng tôi đã bỏ tiền ra thuê mấy thằng bạt mạng ở Thượng Hải, làm cho chúng mấy tờ chứng minh là kiều bào Nhật rồi nhét vào túi, chúng chết như vậy ở tô giới Pháp, người Pháp sẽ phải bồi thường cho chúng tôi. Nếu chúng tôi thật sự muốn giết ông, liệu có để cho ông chạy thoát không?”
“Không giết tôi, vậy các người muốn thế nào?” Tổ Gia không hiểu.
“Tổ Gia không cần phải nôn nóng đến vậy. Lần này Tổ Gia mất tích, Tăng Kính Võ tất sẽ cuống quýt đem tin này đến báo cho Vương Á Tiều, chúng tôi có thể lần theo dây dưa mà ngắt quả, nhưng đây chẳng phải chuyện quan trọng lắm, quan trọng là, chúng tôi cần Tổ Gia…”
“Cần tôi?”
“Mai Huyền Tử là kẻ khôn ngoan, hôm đó chúng tôi sắp xếp cho ông ta gặp ông, chính là muốn để ông ta bàn chuyện cùng hợp tác với ông.”
“Thì ra chính các người đứng sau lưng giật dây? Bàn chuyện hợp tác?”
“Đúng thế. Nếu không phải tên Tăng Kính Võ lao đến sớm, Mai Huyền Tử đã nói hết ra rồi. Bây giờ, tôi đành phải thay Mai Huyền Tử nói nốt đoạn còn lại vậy. Trung Quốc và Nhật Bản, văn hoá cùng chung nguồn cội, những lý luận và học thuyết mà tổ tiên các ông đã sáng tạo ra, lần lượt được truyền tới đất nước chúng tôi, trong đó có Kịnh Dịch và Huyền học ngũ thuật59. Ngoài bản thân các ông ra, Nhật Bản là đất nước kế thừa văn hóa Trung Hoa tốt nhất. Nay, các dòng tôn giáo phương Tây theo chân các cường quốc ùa vào Trung Quốc như ong vỡ tổ, giáo học truyền thống Trung Hoa bị bóp nghẹt. Người Trung Quốc các ông đã không thể tự mình bảo vệ được mặt trận văn hóa, người được hưởng chung một dòng văn hóa như người Nhật chúng tôi đây không thể bàng quan, chỉ biết ngồi trơ mắt ếch mà nhìn được. Cuộc chiến tranh Nha phiến không chỉ thức tỉnh các ông, mà càng khiến chúng tôi bừng tỉnh. Cùng là những nước lạc hậu ở phương Đông, chúng tôi cũng sợ hãi, vì thế mới làm cuộc cách mạng Duy Tân từ thời Nhật hoàng Minh Trị. Cuộc chiến tranh Giáp Ngọ đã minh chứng cho thành công của chúng tôi. Từ thế kỷ 19 đến nay, bọn cường quốc chen nhau kéo đến, người Âu – Mỹ có thể chiếm đóng trên đất nước các ông, tại sao chúng lại không thể làm thế với đất nước chúng tôi? Ít nhất, nước Trung Quốc dưới sự thống trị của Đại Nhật vẫn còn giữ nguyên được nét văn hóa cùng cội cùng nguồn. Đây chính là sự khác biệt giữa chúng tôi và bọn Âu – Mỹ.
Lãnh thổ Trung Quốc hiện nay bị nhiều thế lực cùng chiếm cứ, chia năm xẻ bảy, tình hình ổn định này chỉ là tạm thời, sớm muộn cũng sẽ bị phá vỡ. Tổ Gia nghĩ xem, tình hình Trung Quốc đang tốt đẹp như thế này, có phải nhờ Đại Nhật giỏi thống trị hay không? Xét về văn hóa, không phải chúng tôi tới đây xâm lược, mà là vì các ông cả đấy.”
Tổ Gia cúi đầu không nói gì, ông đang từ từ cân nhắc những lời Tây Điền Mỹ Tử nói.
THUẬT TRÁT PHI HIỆN ĐẠI
“Người Nhật Bản chúng tôi có thầy Cao Đảo – một bậc Đại sư Dịch học, không biết Tổ Gia từng nghe danh chưa?” Tây Điền Mỹ Tử đột nhiên hỏi.
Tổ Gia nói: “Ừm, nghe đại danh đã lâu.”
“Thầy Cao Đảo từng dâng lời can gián với Thiên Hoàng ngay từ thời kỳ đầu Duy Tân Minh Trị, ông nói giữa Trung – Nhật tất sẽ xảy ra hai cuộc chiến lớn, Nhật – Mỹ cũng sẽ đánh nhau to một lần, bảo Thiên Hoàng hãy chuẩn bị đề phòng trước. Chiến tranh Giáp Ngọ đã ứng nghiệm một lần, tiếp theo …” Đến đây, Tây Điền Mỹ Tử không nói tiếp nữa.
Tổ Gia rất quan tâm đến vị đại sư này, cũng từng đọc sách của ông ta. Đó là một thiên tài Dịch học với tác phẩm tiêu biểu Cao Đảo dịch đoán. Cuối thời nhà Thanh, khi thầy Vương Trị Bản dịch cuốn sách sang tiếng Trung, các nhân sĩ trong nước mới bắt đầu được tiếp cận với nó. Thầy Cao Đảo đã dự đoán được cục diện thế giới nhờ phương pháp chiêm dịch (bói), đồng thời dâng kiến nghị của mình tới Thiên Hoàng Nhật Bản. Thiên Hoàng coi trọng Cao Đảo như quốc bảo, mỗi lần có chiến sự, thường hỏi ý kiến thầy.
Tây Điền Mỹ Tử nói: “Giờ, Tổ Gia có hai con đường: Hoặc là hợp tác với chúng tôi; hoặc là chúng tôi sẽ giết ông.”
Tổ Gia khẽ mỉm cười: “Hợp tác thế nào?”
Tây Điền Mỹ Tử nói: “Hiện nay, ở Trung Quốc có hàng nghìn hội đạo môn, việc Tổ Gia cần làm là thống nhất bọn họ lại dưới sự giúp đỡ của chúng tôi, bắt họ thuần phục nghe theo mệnh lệnh của sở Cung giáo của đế quốc Nhật Bản. Chúng tôi không gây trở ngại gì đối với các hoạt động thường ngày của các hội đạo môn này, nhưng có hai điều: Thứ nhất, mỗi tháng các ông phải trích một khoản tiền cho chúng tôi để làm kinh phí chỉ đạo; thứ hai, các ông cần phải truyền bá để nhân dân Trung Quốc dần dần tin tưởng người Nhật là bạn bè tốt, đồng tông đồng tộc và cần phải tuyên truyền lý luận, học thuyết của thầy Cao Đảo.”
Tổ Gia nghe xong, chợt hiểu mọi chuyện, những bí mật ẩn giấu trong thời gian qua được hé mở. Mai Huyền Tử dám hư trương thanh thế, chính bởi được người Nhật ủng hộ; nhân vật lớn chống lưng mà Tả Vịnh Thiền đã nói chính là chỉ người Nhật; ông lại nhớ đến khẩu hiệu gần đây của Thiên Thánh Đạo: “Càn khôn gặp họa lớn, ngày tận thế sắp ập xuống đầu, phúc đến từ phương Đông, một lòng cứu độ chúng sinh”, “phương Đông” ở đây chẳng phải chỉ bọn người Nhật sao? Xem ra, người Nhật định làm lớn rồi. Nghĩ đến đây, Tổ Gia nói: “Nếu tôi đoán không lầm, Mai Huyền Tử và Tả Vịnh Thiền đều đã ngoan ngoãn theo các người.”
Tây Điền Mỹ Tử nói: “Thiên Thánh Đạo, Mai Hoa Hội, Trịnh Đại Tiên ở Đông Sơn, Nhược Lan Sư thái ở Phúc Kiến, Trung Nguyên Ngũ Hổ, đều đã nương nhờ Đế quốc Nhật Bản. Có sự ủng hộ về mặt kỹ thuật của chúng tôi, pháp thuật của bọn họ mới được nâng cao chưa từng có, thế mới hốt được từng đống, từng đống bạc vậy chứ.”
Tổ Gia nói: “Vậy Trương Kế Nghiêu cũng bị các người giết chết?”
Tây Điền Mỹ Tử nói: “Chính xác hơn là hắn ta bị chính người Trung Quốc các ông giết. Trương Kế Nghiêu cũng giống như Tổ Gia, là kẻ trượng phu, nhưng đồ đệ của ông ta Tả Vịnh Thiền lại bị chúng tôi mua chuộc. Trương Kế Nghiêu dàn cụ vũ hóa thành tiên chính do Tả Vịnh Thiền xúi giục. Sau khi ông ta bước vào lò, Tả Vịnh Thiền đã khóa chặt lối đi, Trương Kế Nghiêu bị thiêu sống mà chết. Tổ Gia rất lợi hại, đội ngũ mà ông dựng lên cứng như thép như đồng, toàn những kẻ cố chấp. Nhưng vẫn nảy nòi ra một tên phản đồ, Tứ Bá đầu của ông đã nói cho Mai Huyền Tử biết điều cấm kỵ về quan tài tóc đen, đây chính là điều chúng tôi muốn, trực tiếp lôi kéo ông chắc chắn không được, nhưng bôi nhọ danh tiếng của ông thì dễ rồi. Nhưng Tổ Gia quả nhiên đáng nể, vẫn phá được Tiểu Quỷ tương của chúng tôi.”
Tâm trạng Tổ Gia càng thêm nặng nề. Khi các hội đạo môn trên cả nước còn đang nằm trong ổ cắn nhau thì bọn người Nhật đã nắm giữ đại cục trong tay. Trương Kế Nghiêu đáng thương, sáng suốt một đời, cuối cùng lại chết trong tay đồ đệ của mình. Lòng người ly tán, nước nhà sẽ chẳng còn!
Tây Điền Mỹ Tử thấy Tổ Gia không nói gì, bèn nói: “Tổ Gia hãy đi theo tôi.”
Tổ Gia sững người, hỏi: “Đi đâu?”
“Cứ đi theo tôi là được.”
Hai người quay người bước ra khỏi nhà lao, đi về phía nam 40 mét, đến một nơi trông giống như một nhà xưởng lớn, chỗ cửa ra vào treo một tấm biển ghi dòng chữ: “Phòng kỹ thuật sở Cung giáo.”
“Mời Tổ Gia vào.”
Tổ Gia bước vào, bên trong cực kỳ rộng rãi, ở giữa có một lối đi, hai bên kê bàn, trên bàn đặt mấy thứ chai lọ, trông giống như phòng thí nghiệm chế tạo các đạo cụ của Trương Tự Triêm, bao nhiêu con người đang bận rộn với công việc của mình.
Tây Điền Mỹ Tử nói: “Các hội đạo môn làm phép, nhất định cần phải dọa cho bà con chết khiếp mới được, mấy trò giả thần giả quỷ quê mùa của các ông đã tụt hậu lắm rồi, hãy xem các loại kỹ thuật tiên tiến của các thầy đồng cốt đến đây cùng với quân đội của Nhật Bản.”
Tiếp tục, bà ta cầm lên một thứ gì đó trông giống như đôi găng tay từ trên bàn, nói: “Súng mỏ hàn quân dụng, sau khi cải tiến có thể giấu trong ống tay áo, dùng để dàn cục thiên kiếm trảm, thần tiên đã vung kiếm lên, núi cũng phải sụp.” Nói đoạn, bà ta cầm đôi “găng tay” lên, mở nút khởi động, chĩa về phía tấm thép, rồi đâm vào đó, tấm thép đứt ra làm đôi.
Tổ Gia kín đáo gật đầu thán phục.
Tây Điền Mỹ Tử lại cầm lên một lọ thuốc nước ở bàn bên cạnh, nói với vẻ rất đắc ý: “Dầu chuối châu Mỹ, mùi thơm nức, sau khi được xử lý bằng kỹ thuật đông lạnh, có thể dàn cục tiên nhân đạp bộ, mời Tổ Gia xem…” Nói xong, bà ta nhỏ thứ thuốc nước ấy lên một tấm kính, ngay sau đó bốc lấy một nắm bột như bột mỳ, rắc lên trên chỗ nước thuốc kia, liền thấy bề mặt chỗ bột đó xuất hiện những dấu vết như dấu chân hồ ly.
“Tổ Gia xem cái này…” Tây Điền Mỹ Tử đi vào phía bên trong vài bước, tới một gian nhỏ, mở một thứ trông giống như chiếc máy chiếu ra, sau đó lại mở cửa sổ, tay chỉ về phía ngoài: “Tổ Gia, ông hãy nhìn áng mây trên trời kia…”
Tổ Gia nhìn theo hướng tay chỉ, ở phía Tây trên bầu trời có một đám mây dày đặc. Tây Điền Mỹ Tử cài một thứ gì đó trông giống như một tấm phim vào trong chiếc máy chiếu, chùm sáng phát ra, trên áng mây lập tức xuất hiện hình dáng của Thượng đế.
“Đèn pin quân sự, có thể dàn cục thượng đế xuất hiện. Trên chiến trường, khi hai bên đấu nhau, nếu vị thần linh trong tín ngưỡng của đối phương – ví như Thái thượng lão quân hay Ngọc hoàng của người Trung Quốc – xuất hiện trên bầu trời, ông nghĩ xem, sự thể sẽ thế nào? Chẳng phải chính là khả năng mời gọi thần tiên đến ư? Vụ Mai Huyền Tử đốt đèn quỷ bên bờ sông cũng nhờ cả vào kỹ thuật mà chúng tôi cung cấp cho đấy. Nếu không, chỉ dựa vào chút bản lĩnh nhỏ nhoi của ông ta, liệu có thể làm dấy lên làn sóng mạnh mẽ đến vậy không?”
Tổ Gia trầm ngâm không nói, nản lòng đến cực độ.
“Tổ Gia có thể phá được Tiểu Quỷ tương, nhưng e rằng khó mà phá được Đại Quỷ tương. Tổ Gia hãy theo tôi.” Nói rồi, bà ta mở cửa bước ra, rẽ ngoặt một cái, dẫn Tổ Gia đi xuống tầng hầm.
Đi được mười mấy mét, Tổ Gia thấy phía dưới không khác gì địa ngục, hai bên đặt những chiếc cũi sắt, trong mỗi cũi sắt đều nhốt một người, khuôn mặt ai nấy xanh mét, ánh mắt đờ đẫn, thấy có người đến, đều phấn khích hẳn lên, họ há miệng, với tay, kêu gào thảm thiết. Tây Điền Mỹ Tử thuận tay nhặt một miếng thịt lợn sống ở dưới đất lên, ném vào trong, người đó vồ ngay lấy miếng thịt như loài dã thú, ngoạm một miếng to, ngấu nghiến nhai.
Tổ Gia thấy thế cũng phải rùng mình, sống lưng lạnh toát.
“Những người này…”
“Đây không phải là người, quỷ đấy. Bọn này đều là những kẻ cầm đầu các đội quân dám dũng cảm đứng lên chống Nhật ở Đông Bắc, bản năng sống cực kỳ mạnh mẽ, dùng để luyện Đại Quỷ tương thì quá tốt.”
Nghe thế, Tổ Gia lòng đau quặn thắt, hận một nỗi không thể băm vằm người đàn bà đang đứng trước mặt.
Tây Điền Mỹ Tử nhìn Tổ Gia, nói: “Hẳn là Tổ Gia hận tôi đến tận xương tủy rồi. Muốn trách thì phải trách đất nước các ông không thể bảo vệ được bọn họ. Tôi nói rồi, Tổ Gia chỉ có hai con đường, hoặc là hợp tác, hoặc là chết. Tổ Gia được chọn chết theo nhiều cách, chặt đầu, chôn sống, cũng có thể được dùng vào thuật Đại Quỷ tương…”
Đột nhiên Tổ Gia cười lớn, rồi nói: “Năm 1918, tôi đã từng chết một lần rồi, một kẻ lừa đảo, làm đủ thứ chuyện tồi tệ như tôi, chết không đáng tiếc!”
Tây Điền Mỹ Tử nhếch miệng khinh khỉnh cười: “Sở dĩ, chúng tôi để Tổ Gia sống đến ngày hôm nay bởi thấy ông là người khôn ngoan, là nhân tài có thể uốn nắn được. Mai Huyền Tử chỉ thuộc loại miệng hổ báo gan thỏ đế, Tả Vịnh Thiền bất trung bất nghĩa. Địa bàn ở Giang Nam, chúng tôi đã chuẩn bị để Tổ Gia thống lĩnh, ông không nên phụ lòng tốt của chúng tôi. Ngoài ra…”
Nói đến đây, Tây Điền Mỹ Tử đắn đo một chút.
“Ngoài ra… Tổ Gia tướng mạo xuất chúng, là bậc nhân tài, hai năm trước chúng ta gặp nhau ở Nam Việt, đã thương nhớ trong lòng. Nếu có cống hiến cho Đại Nhật, bên quân đội có thể cho Tổ Gia được mang thân phận là công dân Nhật Bản. Mai này, sau khi chiến tranh chấm dứt, chúng ta có thể cùng nhau về Nhật, nếu Tổ Gia không ghét bỏ…” Nói đến đây, Tây Điền Mỹ Tử đặt bàn tay thon nhỏ lên vai Tổ Gia.
Tổ Gia từ từ đẩy tay bà ta ra, nói: “Xin hãy để tôi nghĩ đã.”
Tây Điền Mỹ Tử bật cười, nói: “Muốn chết trên mảnh đất quê hương đớn hèn này của ông, hay đến Nhật an hưởng nửa đời còn lại, Tổ Gia hãy tự mình cân nhắc.”
Đêm đó, Tổ Gia ngồi một mình trong phòng giam. Tất cả mọi thứ cứ quay cuồng trong đầu óc ông, cái đất nước hèn kém này, cái chính phủ vô dụng này, đám dân tình ngu muội ấy… Cha mẹ chết trong tay bọn Quốc dân, em trai và em gái chết trong tay bọn Quốc dân… Bọn quân phiệt hỗn chiến với nhau, chẳng nghĩ gì cho dân, cả nước từ trên xuống dưới đều không thể nào thấy được một tia hy vọng… Không phải vậy, tuyệt đối không phải như vậy! Vẫn còn những người yêu nước, vẫn còn những người đứng lên chống lại chúng! Không thể làm một tên Hán gian! Chỉ cái chết mới có thể tạ tội với dân với nước!
Cửa nhà giam mở ra.
“Tổ Gia, nghĩ thông chưa? Hợp tác hay là không?”
“Hợp tác!”
MƯU TÍNH CỦA TỔ GIA
Tổ Gia nhận tấm lệnh bài Cung giáo từ trong tay Tây Điền Mỹ Tử, trở về Giang Hoài với thân phận mới – kẻ phụng mệnh Thiên Hoàng.
“Tổ Gia về rồi! Tổ Gia về rồi!” Quản gia kêu lên. Giang Phi Yến, Hoàng Pháp Dung, Đại Bá đầu, Nhị Bá đầu và Tam Bá đầu ào ra.
“Tổ Gia!”
Tổ Gia cười nói với mọi người: “Ta không sao, ta không sao!”
Quản gia vội vàng sai đám người hầu đi làm cơm tẩy trần, mừng Tổ Gia trở về.
Tổ Gia nói: “Không phải vội. Nhị Bá Đầu, ngươi dẫn theo con trai Mai Huyền Tử, rồi cùng ta đến Mai Hoa Hội.”
Mọi người sững sờ nhìn Tổ Gia, ông nhìn mọi người, rồi lại nói: “Không việc gì, mọi người nghỉ ngơi trước đi, tối bàn chuyện tiếp.”
Mai Huyền Tử lúc này như đang ngồi trên đống lửa, vừa nghe thấy bảo Tổ Gia đưa công tử về, liền bật dậy chạy ra cửa tiếp đón.
Hai người vào nhà, Tổ Gia nói: “Châu về Hợp Phố rồi đây.” Rồi giao tận tay con trai cho Mai Huyền Tử.
Mai Huyền Tử ôm chặt đứa con trai, giao lại nó cho người hầu, sau đó nói: “Tổ Gia, có chuyện gì xảy ra vậy?”
Tổ Gia cười: “Tôi đang muốn hỏi Mai sư phụ xem đã xảy ra chuyện gì đây.”
Mai Huyền Tử ấp a ấp úng: “Hôm đó, tôi chỉ muốn cùng Tổ Gia nói những điều trong lòng…”
“Là chuyện hợp tác chứ gì?”
Mai Huyền Tử kinh ngạc.
Tổ Gia giơ tay, lấy ra tấm lệnh bài Cung giáo, đập lên bàn: “Tôi cũng có!”
“Kìa…” Mai Huyền Tử lúng túng. “Việc…”
Tổ Gia nói: “Ông có, tôi có, Tả Vịnh Thiền cũng có. Thiên Hoàng vừa muốn chúng ta làm việc cho ông ta, vừa không muốn chúng ta đoàn kết với nhau, cho nên Tả Vịnh Thiền mới có thể tranh thủ lấy lòng, đem chuyện ông thông đồng với Tề Xuân Phú nói cho tôi nghe.”
“Là hắn ta ư?” Mai Huyền Tử kinh ngạc hỏi.
Tổ Gia nhếch miệng cười: “Đây chính là điều mà Thiên Hoàng muốn trông thấy, tất cả chúng ta cùng làm việc cho bọn họ, nhưng cùng lúc đó tất cả chúng ta đều không đoàn kết. Chắc chắn bọn họ đã hứa với ông, cho ông ngồi lên chiếc ghế cao nhất ở Giang Nam.”
“Việc này…” Mai Huyền Tử toát mồ hôi.
“Chà chà, Mai sư phụ cứ yên tâm, chiếc ghế đó không phải của ông đâu, là của tôi.” Tổ Gia lạnh lùng nói.
“Ông cũng trở thành Hán gian rồi sao?” Mai Huyền Tử sợ hãi hỏi.
“Tôi làm Hán gian còn tốt hơn ông làm kìa!” Nói xong, Tổ Gia đứng dậy, đi thẳng không ngoái đầu nhìn lại.
Đêm đó, Đường khẩu nhộn nhịp vô cùng, Tổ Gia bình an trở về, mọi người cùng phấn khởi, vui mừng khôn xiết.
Tại bàn ăn, Giang Phi Yến hỏi ông xem rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, Tổ Gia nói: “Có chút kinh sợ nhưng không đến nỗi nguy hiểm. Tôi bị đưa đến tô giới Pháp, rồi bị áp giải đến một nhà lao bí mật, các người không thể tìm thấy được. May mà Giả Tứ gia có chút thế lực ở tô giới Pháp, tôi cho tên lính canh vài đồng, bảo hắn gửi cho ông ta bức thư, Giả Tứ gia đã bỏ ra rất nhiều tiền để mua chuộc đồn cảnh sát nên chúng mới chịu thả tôi ra. Bọn người Nhật muốn dồn tôi vào chỗ chết, tôi phải đến phủ Giả Tứ gia trốn một thời gian, bây giờ tình hình bớt căng mới dám quay về, để Yến tỷ và các huynh đệ phải lo lắng. Kính cả nhà một chén nào!”
Tất cả mọi người cùng nâng chén, nói: “Tổ Gia là người tốt, tất được trời phù hộ.”
Sau bữa cơm, mọi người đều giải tán, Tổ Gia mời Giang Phi Yến đến thư phòng, mới kể lại toàn bộ sự thật.
Sau khi nghe xong, Giang Phi Yến giật mình hỏi: “Tổ Gia đồng ý với người Nhật thật sao?”
Tổ Gia nhếch miệng cười, nói: “Cúi đầu không bị thiệt, Yến tỷ hãy nghe tôi nói…”
Giang Phi Yến ngồi lắng nghe từng lời từng lời, đầu lông mày mới dần dần giãn ra, nhưng rồi bà lại cảm thấy lo sợ trong lòng, nói: “Tổ Gia, làm như vậy vô cùng nguy hiểm, có thể mất mạng bất cứ lúc nào!”
Tổ Gia thở dài: “Đành phải làm vậy, không còn cách nào khác.”
Giang Phi Yến nhìn khuôn mặt sầu não của Tổ Gia, trong lòng trào lên niềm cảm thương: “Tổ Gia… hay là…”
“Yến tỷ định nói gì cứ nói thẳng đi.”
“Hay là…” Thân là Đại sư bá mà lúc này lại tỏ rõ thái độ vô cùng do dự, chính bà cũng cảm thấy khó mở lời, nửa muốn nói nửa muốn thôi.
“Hay là gì?” Tổ Gia không hiểu, liền gặng hỏi.
Giang Phi Yến ngẩng phắt đầu lên, nhìn Tổ Gia bằng ánh mắt chan chứa ân tình: “Hay là chúng ta cùng ra đi!”
Tổ Gia ngây người. Chúng ta? Cùng đi? Tâm ý của Giang Phi Yến, không phải ông không hiểu.
Khi gặp Giang Phi Yến lần đầu tiên vào năm 1932, ông đã đọc được hai chữ “ái mộ” trong ánh mắt bà. Năm 1933, khi Tổ Gia dẫn Trương Tự Triêm đến Việt Hải Đường xin kết làm thông gia, Giang Phi Yến gặng hỏi Tổ Gia tính chuyện trăm năm của mình thế nào, Tổ Gia cũng hiểu rõ ý bà, nhưng ông luôn cố ý né tránh.
Không phải Tổ Gia không có tình cảm, không yêu thương bà, mà bởi ông nghĩ, thân làm A Bảo, thực sự không nên kết hôn. Hai kẻ bịp bợm kết duyên với nhau, con cái vừa được sinh ra đã mang danh đứa nhóc bịp bợm. Bản thân đã đi trên con đường này, ông không muốn con cái của mình cũng sống với thân phận của kẻ lừa đảo. Hơn nữa, đối với một A Bảo, nguy hiểm luôn rình rập, không biết mình ngày nào sẽ phải mất mạng, bỏ lại mẹ góa con côi cho bọn kẻ thù tìm đến báo thù, sống sao cho nổi?
Chưa kể, hai người đều cùng là Đại sư bá, nếu kết hợp lại với nhau, lẽ nào không làm chấn động khắp vùng Đông Nam Á? Bạn bè đồng đạo trong nước chẳng nói làm gì, bạn bè của Giang Phi Yến và Tổ Gia ở Hương Cảng, Đài Loan, Ma Cao và bạn bè ở các nước Đông Nam Á khác lại nhiều, làm như vậy, các huynh đệ trong Đường khẩu sẽ nghĩ thế nào? Sau này, một khi xảy ra xung đột giữa các huynh đệ của hai Đường khẩu thì biết xử lý kiểu gì? Ai có thể đảm bảo hai Đường khẩu sẽ sống hòa thuận mãi mãi.
Điều quan trọng hơn cả là, trong tình hình hiện nay, làm sao Tổ Gia có thể bỏ đi cùng bà được. Năm xưa, khi tiếp quản Mộc Tử Liên từ tay Trương Đan Thành, ông đã hạ quyết tâm dẫn dắt phái Giang Tướng trở nên sán lạn, huy hoàng, luôn kiên định quan điểm cướp của người giàu chia cho người nghèo, thưởng thiện phạt ác. Nay, người Nhật muốn thao túng tất cả các hội đạo môn ở Trung Quốc, lại biết được âm mưu phía sau của chúng, mình thân là chủ soái phái Giang Tướng, đâu thể bỏ chạy được?
Giang Phi Yến thấy Tổ Gia không nói gì, cũng hiểu được phần nào, bà nói: “Một mình Tổ Gia không thể thay đổi được đại cục, tôi cũng không thể làm được, cái chết của Ngũ Nương khiến tôi đột nhiên nhận thấy tất cả mọi thứ đều không quan trọng đến vậy, tôi muốn được sống những ngày tháng của một người bình thường. Chúng ta có thể giao lại Đường khẩu cho người khác, bao nhiêu người muốn tranh giành vị trí này còn không được. Chúng ta cùng ra nước ngoài, đến một nơi không ai có thể tìm được mình, mai danh ẩn tính, sống quãng đời còn lại trong yên bình.”
Khi xúc động, Giang Phi Yến bất giác đặt tay bà lên tay Tổ Gia.
Không phải Tổ Gia không muốn sống những ngày tháng như vậy, chỉ cần ông bỏ đi là xong, bọn người Nhật không thể tìm được, người Trung Quốc cũng không thể tìm được, ông cũng không cần phải ngày nào cũng vắt óc nghĩ cách dàn cục, không cần phải hao tổn tâm sức lo nghĩ kế sinh nhai cho Đường khẩu, nào là Trát phi, nào là đoán mệnh, nào là phong thủy, gạt bỏ hết ra khỏi đầu óc, chỉ còn lại hạnh phúc đời thường. Ông có thể nắm tay Giang Phi Yến, cùng bà đi dạo trên bờ biển trong ánh hoàng hôn óng ánh sắc vàng của nước Pháp, dạo chơi trên đại lộ rợp bóng mát ở nước Anh, hay tay trong tay với bà trong một giáo đường tráng lệ ở Mỹ.
Nhưng các huynh đệ của Đường khẩu sẽ thế nào? Sau khi ông bỏ đi, ai sẽ cầm lái, các huynh đệ kéo đến đầu hàng giặc Nhật bán nước cầu vinh, hay sẽ liều mạng vật lộn với chúng? Tất cả sẽ bị người Nhật giết chết, hay sẽ như chim vỡ tổ, tan tác muôn nơi? Bộ dạng sẵn sàng xả thân bảo vệ chủ của Đại Bá đầu, ánh mắt thề chết mãi trung thành của Nhị Bá đầu, những giọt nước mắt phó thác cho đến hết đời của Trương Tự Triêm, tiếng ai thán trước tình cảnh lẻ loi không nơi nương tựa của Hoàng Pháp Dung… Tất cả đã trói buộc con tim Tổ Gia.
Giang Phi Yến thấy Tổ Gia vẫn không nói gì, bèn rụt tay lại, cõi lòng trào dâng nỗi niềm thê thiết. Mãi lâu sau, bà nói: “Tổ Gia, có phải thân này của Giang Phi Yến không trong sạch, Tổ Gia mới không thương yêu?”
Tổ Gia ngẩng đầu nhìn bà, ánh mắt chất chứa nỗi niềm: “Yến tỷ hiểu lầm rồi, Yến tỷ đã vì phái Giang Tướng mà đánh đổi mọi thứ, tôi chỉ một lòng kính phục, đâu dám có ý ghét bỏ… Tôi… Tôi không thể bỏ mặc các huynh đệ. Tôi đã lên một kế hoạch…”
Giang Phi Yến không nói nữa, chỉ ngồi bên cạnh lắng nghe.
Ngày hôm sau, Tổ Gia tiễn Giang Phi Yến. Bà mang theo chuyện cơ mật đã bàn bạc với Tổ Gia, lặng lẽ trở về Nam Việt.
Giang Phi Yến rời đi chưa được bao lâu, Tổ Gia liền cho gọi Hoàng Pháp Dung đến.
“Ta hỏi ngươi một việc, ngươi nói ta nghe xem thế nào?”
Cặp mắt to tròn của Hoàng Pháp Dung chớp chớp liên tục, hỏi: “Tổ Gia có gì cần căn dặn?”
Tổ Gia hỏi: “Nếu một ngày nào đó ta không may gặp nạn, Mộc Tử Liên sẽ do ngươi lèo lái, ngươi thấy thế nào?”
Hoàng Pháp Dung vừa nghe thấy thế, khuôn mặt nhỏ bé tái mét, quỳ sụp xuống thưa: “Tổ gia, con không dám, con không dám!”
Tổ Gia vẫn điềm tĩnh nói: “Kẻ dám ngông cuồng bàn tính đến chuyện nếu Đại sư bá có mệnh hệ gì, chết; kẻ dám chia rẽ Đường khẩu, chết. Hẳn ngươi phải biết phép tắc này chứ?”
Hoàng Pháp Dung sợ hãi bật khóc, run cầm cập nói: “Xin Tổ Gia tha tội, xin Tổ Gia tha tội!”
Tổ Gia lườm bà ta một cái, nói: “Niệm tình ngươi phạm tội lần đầu, nếu còn có lần sau, ta tuyệt đối không tha!” Tổ Gia gằn giọng nhấn mạnh từng từ.
Hoàng Pháp Dung dập đầu côm cốp xuống đất, luôn miệng nói: “Tạ ơn Tổ Gia, tạ ơn Tổ Gia!” Nhưng trong lòng thầm nghĩ, sao ông ấy lại biết những điều mình nói với mẹ nuôi? Lẽ nào mẹ nuôi đã bán đứng mình ư?
“Đừng đoán già đoán non nữa, ta tuy không có ở Đường khẩu, nhưng tất cả mọi chuyện đều không thể giấu được ta.” Tổ Gia nói.
Hoàng Pháp Dung run bắn người, đây khác nào cơ quan đặc vụ , hay bọn hoạn quan nhà Thanh?
“Ngươi đứng lên!” Tổ Gia thở dài.
Hoàng Pháp Dung run lẩy bẩy đứng dậy.
“Ngươi là con nhóc thông minh, nhưng người ta bảo rồi, hết khôn dồn đến dại, ngươi không hiểu được đạo lý này sao?!” Tổ Gia nói.
Hoàng Pháp Dung vội nói: “Tổ Gia, con không dám nữa, con không dám như vậy nữa!”
Tổ Gia gật đầu: “Ta giao cho ngươi một nhiệm vụ.”
“Xin Tổ Gia cứ sai bảo.”
“Ta muốn ngươi về quê nhà Sơn Đông một chuyến.”
“Làm gì ạ? Con không muốn về nhà, cha mẹ con sẽ ép con lấy chồng.”
“Ta không bảo ngươi về nhà mình, mà bảo ngươi đi Giao Châu, nắm bắt tình hình của Trịnh Bán Tiên, xem xem quy mô Đường khẩu của hắn, số đệ tử, cả thủ đoạn Trát phi gần đây của hắn…”
Hoàng Pháp Dung nói: “Việc này không khó gì, con có thể lấy danh nghĩa bái sư học đạo, trà trộn vào Đường khẩu của ông ta. Sao thầy lại muốn điều tra ông ta? Ông ta và chúng ta không chung địa bàn mà.”
“Ngươi cứ làm theo ta bảo là được. Ngoài ra, hãy chuẩn bị chút bạc, lẳng lặng nhét vào nhà mình, mặc dù không thể quay về, nhưng không được quên ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ…”
Mắt Hoàng Pháp Dung đỏ hoe, cúi đầu nói: “Tạ ơn Tổ Gia!” Nói rồi cáo lui.
Tổ Gia nhìn theo bóng Hoàng Pháp Dung, sắc mặt đanh lại.
Ngày hôm sau, Hoàng Pháp Dung sửa soạn hành lý, nhận một khoản tiền lớn, mau chóng về Sơn Đông. Suốt dọc đường đi, bà ta cảm thấy thật lạ, sao Tổ Gia lại cho mình nhiều tiền để báo đáp cha mẹ đến vậy, lòng vừa thầm vui mừng, vừa dự tính nhiều chuyện. Bà không hề hay biết, đây chính là số tiền bán mạng cuối cùng mà Tổ Gia đưa cho mình.
Tổ Gia đã quyết định trừ khử Hoàng Pháp Dung.
Cùng lúc này, Nhị Bá đầu gấp rút đến Bắc Bình, Tam Bá đầu chạy đến Hà Bắc. Ván cờ của Tổ Gia đã bắt đầu…
NGŨ BÁ ĐẦU RÚT ÊM
Một cái Tết nữa lại đến, đất nước Trung Quốc đón chào năm 1935 với đầy biến động.
Mùa xuân lạnh giá, vết thương của Ngũ Bá đầu Lương Văn Khâu lại tái phát, tay phải đau nhức không chịu nổi, Tổ Gia thấy vậy, rất đau lòng. Vị Bá đầu già đã đi theo mình 12 năm trời, luôn một lòng trung thành, mái đầu nay đã bạc trắng, cả đời làm A Bảo, không vợ không con, dâng hiến mọi thứ cho phái Giang Tướng.
Đêm đó, Tổ Gia sai người làm một mâm cơm, mời Lương lão đầu đến.
“Lương gia, tay ông đỡ chưa?” Tổ Gia ân cần hỏi.
Tổ Gia rất ít khi gọi ông ta là “Lương gia”, tuy ông lớn tuổi, nhưng lễ nghĩa trong Đường khẩu không thể thay đổi được, ngày thường trước mặt các huynh đệ, Tổ Gia luôn gọi ông là “lão ngũ”.
“Không đáng ngại lắm, đã khiến Tổ Gia lo lắng rồi.” Lương Văn Khâu trong lòng rất vui.
“Lương gia chắn cho ta một viên đạn, ta suốt đời không quên ơn.”
“Tổ Gia quá lời rồi, Tổ Gia là Đường chủ, là huynh đệ, tôi làm vậy mới phải.”
“Lương gia, ông đã tính đến những ngày tháng sau này chưa?”
Lương Văn Khâu ngớ người, vội hỏi: “Tổ Gia, tôi vẫn có thể làm được việc, tôi vẫn làm được mà!” Ông ta tưởng Tổ Gia nghĩ tay chân mình không còn nhanh nhẹn, muốn đá mình.
Tổ Gia thở dài nói: “Lương gia, ông và ta đều biết nỗi khổ khi làm một A Bảo. Bề ngoài vàng đeo bạc giắt, mặt mày hả hê, nhưng chúng ta không bằng người ta, bước vào con đường này, vài người có thể gác kiếm, nhưng có người cả đời không thể gột rửa được. Lương gia chưa từng lấy mạng người khác, có thể rửa tay…”
Lương Văn Khâu nghe thấy thế, vội nói: “Tổ Gia khiến tôi thấy run sợ rồi, tôi sinh ra là người của Đường khẩu, chết làm ma Đường khẩu, tuyệt đối không làm phản.”
“Lương gia, hôm nay không có ai ở đây, chỉ còn hai huynh đệ ta, có thể nói những lời gan ruột, ông không cần phải câu nệ lễ tiết.”
“Ừm.”
“Nhà Lương gia có bốn người, cha mẹ đều mất sớm, chỉ còn một cô em gái lấy chồng tận Hàng Châu. Bao năm nay, Lương gia bộn bề công việc, mộ phần của cha mẹ lâu không người quét dọn. Những người như chúng ta, liều mạng trong giang hồ, cả ngày chỉ biết chém giết, một chút bất cẩn sẽ mất mạng, việc này ông biết, ta biết, các huynh đệ đều biết rõ, chỉ có điều mọi người không muốn đối diện với nó, biết rõ là một cơn mộng, nhưng không ai dám tỉnh lại.”
Những giọt nước từ khóe mắt Lương Văn Khâu lặng lẽ lăn xuống.
Mắt Tổ Gia cũng đỏ lên, ông nói đầy xót xa: “Ta không thể buông tay được nữa, không có đường lui, đời này ta phải vậy, kiếp sau làm người, ta hy vọng ông trời sẽ không sắp đặt như vậy nữa.”
“Tổ Gia, uống một chén nào!” Lương Văn Khâu nâng chén, uống cạn.
Tổ Gia nói tiếp: “Ông biết đấy, Đường khẩu có quy định, một ngày làm A Bảo, cả đời phải làm A Bảo, chết già cũng không thể rút khỏi Đường khẩu. Nhưng từ sau khi ta tiếp quản Đường khẩu, đã có tiền lệ, ngày Chu Chấn Long rời đi, ta không ngăn cản vì ta tin ông ấy, ta biết ông ấy sẽ không bao giờ nói ra bí mật của Đường khẩu. Bây giờ ta sắp có tiền lệ thứ hai, Lương gia có thể rời khỏi Đường khẩu, cầm theo bạc, ra ngoài tìm một phụ nữ, sống cuộc sống của một người bình thường. Những lời này của ta là thật tâm, mong Lương gia hiểu cho.”
“Tổ Gia…” Lương Văn Khâu cảm động rơi nước mắt.
“Hãy cầm tiền bạc đi về phía Nam, càng xa càng tốt. Đừng đi về phía Bắc, rất có thể người Nhật sẽ đưa đại quân Nam tiến.”
“Đại quân Nam tiến ư?”
“Ừm, những việc này Lương gia không cần phải bận lòng. Về sau, nếu gặp khó khăn bên ngoài, vẫn có thể quay về Đường khẩu. Nhưng ta vẫn phải nhắc lại một lần nữa luật của Đường khẩu, Tư thông với người ngoài, chết; tiết lộ bí mật của Đường khẩu, chết; chia rẽ Đường khẩu, chuyển địa bàn, chết!”
“Tổ Gia!” Lương Văn Khâu liền quỳ xuống, ôm chân Tổ Gia, nước mắt trào ra ướt nhòe khuôn mặt già nua. “Tổ Gia, Tổ Gia…” Sau đó ông ta gục đầu vào chân Tổ Gia, tỏ ý tạ ơn.
Trong A Bảo thiên đã viết:
Ngã tòng phàm gian lai tác tướng,
Phàm gian nhất thiết giai quá vãng.
Lôi đả hỏa thiêu bất tẩu phong,
Sinh sinh tử tử tướng môn trung.
Đây là những điều mà bất cứ một người nào gia nhập vào phái Giang Tướng đều phải thề, nghĩa là: Tôi từ một người bình thường trong thế gian trở thành A Bảo, làm kẻ lừa đảo gạt người, không lưu luyến mọi chuyện của thế tục, cho dù có bị sét đánh hay bị thiêu chết tôi cũng không rời khỏi Đường khẩu, sống hay chết đều ở Đường khẩu.”
Nếu một người đã bước chân vào phái Giang Tướng thì cả cuộc đời đừng nghĩ đến chuyện thoát ra khỏi. Một vài người bị cuộc sống bức bách phải gia nhập Đường khẩu, được một thời gian, có chút tiền bạc, lại muốn bỏ chạy, tất cả đều bị bắt lại và giết chết.
Nếu có thể an toàn thoát khỏi Đường khẩu, xem như đã được sinh ra một lần nữa. Lương Văn Khâu đã được tái sinh như vậy.
Mấy ngày sau, được Tổ Gia sắp xếp, tại đường hội, Lương Văn Khâu cáo bệnh xin từ chức Bá đầu, Tổ Gia đồng ý, để ông ta lui về tuyến hai. Tất cả mọi người đều cho rằng ông ta lui về tuyến hai thật, không ai biết đây là lần vĩnh biệt. Sau đó, lấy danh nghĩa về quê nhà thăm mồ mả cha mẹ, Lương Văn Khâu đã một đi không trở lại, mãi mãi rời khỏi Đường khẩu. Trước khi đi, ông cúi lạy Tổ Gia ba lạy, Tổ Gia ôm lấy ông, hai huynh đệ cùng khóc, rồi vĩnh biệt nhau trong chốn giang hồ.
Sau khi Lương Văn Khâu đi khỏi, chức vị Ngũ Bá đầu liền bị trống.
Trương Kỳ Linh quê gốc ở Phúc Kiến, 18 tuổi gia nhập Đường khẩu, làm tay chân dưới trướng của Tiết Gia Nhân. Người này là nhân tài do Tam Bá đầu phát hiện ra. Ông nội hắn là truyền nhân của phái phong thủy Tam Hoàng. Học sơ sơ được chút kiến thức từ ông nội, hắn liền bắt đầu kê sạp làm ăn. Nhưng người này xuống tay quá chớn, hét giá rất cao, lại còn ngạo mạn, lâu dần, người đến xem càng ngày càng ít, việc làm ăn dần dần ế ẩm…
Năm 1932, khi Tam Bá đầu dẫn mấy tay chân ra phố luyện tay nghề, Trương Kỳ Linh vừa hay cũng đi qua, kẻ ngồi không thường hay nhiều chuyện, hắn ngóng chuyện rồi phát hiện ra chỗ thiếu sót trong lý luận của Tam Bá đầu, liền xô mọi người ra tranh luận, khiến Tam Bá đầu phải mất mặt.
Sau sự việc đó, Tam Bá đầu cho tay chân theo dõi hắn, còn mình về báo việc này cho Tổ Gia.
Tổ Gia nghe xong, nói: “Có thể chiêu an hắn không?”
Tam Bá Đầu nói: “Để con đi thử xem.”
Sở dĩ Tam Bá đầu chủ động xin chỉ thị cấp trên như vậy, bởi ông ta cũng từng trải qua những việc tương tự, nên biết rõ tâm lý của các thuật sĩ đang nản lòng thoái chí. Sau khi tìm được Trương Kỳ Linh, Tam Bá đầu liền nói toạc ý định của mình, rồi kể lại quá trình khi mình được Tổ Gia cho gia nhập Đường khẩu, sau đó lại phóng đại một hồi về cảnh tượng sau khi gia nhập, bạc cứ được tuồn vào túi ào ào. Nghe thấy vậy, Trương Kỳ Linh chợt nghĩ, mình đã tìm được một tổ chức hẳn hoi, liền vỗ đầu nói: “Cuối cùng cũng có đất dụng võ rồi!”
Con người đứng trước tiền bạc của cải rất dễ mụ mẫm, dễ quên đi những thị phi tối thiểu. Hắn mới chỉ nghe thấy Tam Bá đầu nói đến những đống bạc trắng lóa, chứ không biết một khi vào nghề rồi sẽ có thể đứt tay cụt chân, không khéo còn mất mạng. Nếu biết trước được việc sẽ bị Tổ Gia giết năm 19 tuổi, hắn ắt không đời nào gia nhập Đường khẩu.
Trương Kỳ Linh có một chút thần thông quảng đại, hắn có thể phác thảo ra từng dãy núi trong cả nước, Bắc tận Côn Lôn, Nam đến Hải Nam, Tây bắt đầu từ Himalaya, Đông đến tận Phúc Kiến… Hắn thuộc làu những mỏn núi lớn nhỏ trong đầu. Sau khi đến Đường khẩu, Tổ Gia sắp xếp cho hắn làm tay chân của Tam Bá đầu. Bản thân hắn rất mừng rỡ, mỗi lần dàn cục đều thể hiện hết mình. Từ khi bước chân vào Mộc Tử Liên, hắn đã tham gia vào mười mấy vụ dàn cục phong thủy lớn nhỏ.
Tam Bá đầu từng đề bạt tên này lên làm Bá đầu, Tổ Gia chỉ nói qua quýt rằng tạm thời Đường khẩu không thay đổi quy định chỉ có năm Bá đầu. Đối với loại người nhìn thấy tiền là sáng mắt này, Tổ Gia xưa nay khá thận trọng.
Sau khi Lương Văn Khâu đi, Tam Bá đầu bắt đầu ra sức đề cử Trương Kỳ Linh. Kỳ thực, vẫn còn một người nữa muốn tranh giành chức vị này, đó chính là Hoàng Pháp Dung. Nhưng chuyện Hoàng Pháp Dung và Giang Phi Yến dám ngang nhiên bàn đến chuyện người kế nhiệm Đường khẩu đã bị quản gia Ngô Lão Nhị của Tổ Gia nghe trộm được và báo lại cho Tổ Gia. Tổ Gia liền đổi ý, thế nên Hoàng Pháp Dung hiện giờ vẫn nằm trong ván cờ của ông, đang bán mạng cho ông. Chỉ có Hoàng Pháp Dung không hay biết rằng, đây là lần cuối cùng mình có thể bay nhảy.
Trương Kỳ Linh lên nhậm chức Ngũ Bá đầu trong tiếng chúc tụng của mọi người. Từ đó, Trương Kỳ Linh và Tiết Gia Nhân kết thành bè đảng sống chết có nhau, cho đến khi cùng nhau làm phản và cùng nhau nhận lấy cái chết.
BÍ MẬT GẶP MAI HUYỀN TỬ
Đức Phật dạy: Vạn pháp giai không, nhân quả bất không, nhân quả tương báo, như ảnh tùy hình. Người ta có thể không tin tất cả mọi thứ, nhưng luật nhân quả thì không thể trốn thoát được. Con người ta làm cái gì, nhất cử nhất động cũng bị ông trời soi xét, ghi lại trong một cuốn sổ. Quan tài tóc đen, Bá đầu làm phản, vụ Quỷ tương đầy sóng gió, gặp thích khách ở khách sạn Tây Nhã, bị cầm tù ở Ngụy Mãn Châu, việc buộc phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết… Bao nhiêu việc liên tiếp diễn ra khiến Tổ Gia cảm thấy vô cùng mệt mỏi, nhưng lại không thể oán trách được người khác, con đường này do ông tự chọn lấy. Hồi tưởng lại những năm tháng đã qua của phái Giang Tướng, ngoài lừa đảo ra, vẫn chỉ là lừa đảo, ngày ngày mưu tính hại nhau, chém chém giết giết, hết lần này đến lần khác, bây giờ, cuối cùng lại khiến mình rơi vào cảnh lưỡi đao kề cổ.
Lần đầu tiên ông phải băn khoăn nghĩ lại việc mình gia nhập phái Giang Tướng là đúng hay sai. Ông nhớ đến Trương Đan Thành, uy phong khắp chốn, hô mưa gọi gió, cuối cùng thì sao đây? Không vợ không con, rơi nước mắt lìa đời khi người mang khuyết tật; ông nghĩ đến Kiều Ngũ Muội, tung hoành giữa hàng quân cả đen lẫn trắng, đoán biết được thiên cơ, nhưng lại không thể đoán biết được chuyện mình sẽ đột tử; ông nghĩ đến Trương Kế Nghiêu, cả cuộc đời sắm vai Đấng cứu thế, cuối cùng lại chết thảm trong cái lò bát quái của chính mình; người tiếp theo biết đâu lại là mình cũng nên…
Thậm chí, Tổ Gia bắt đầu ngưỡng mộ Lương Văn Khâu, ngưỡng mộ ông ta có một vị Đại sư bá tốt, ngưỡng mộ ông ta có thể bắt đầu một cuộc đời mới. Còn mình cưỡi trên lưng hổ khó mà xuống, chân có đạp khua cũng vô ích!
Tổ Gia không sợ chết, nhưng ông biết, việc ông phải làm còn chưa xong. Phàm việc gì có mở đầu đều có kết thúc, gánh nặng có nặng gánh hơn, cũng vẫn phải ghé vai vào, lần này không phải vì mình, càng không phải vì phái Giang Tướng, mà vì đất nước Trung Hoa. Tổ Gia bắt đầu nghĩ đến đối sách tiếp theo, nước cờ này rất nguy hiểm, chỉ cần một chút bất cẩn sẽ thua hoàn toàn. Chuyện sống chết của bản thân không còn quan trọng nữa, quan trọng là các hội đạo môn của Trung Quốc đi theo hướng nào, người Nhật sẽ làm thế nào, dân tộc Trung Hoa sẽ ra sao?
Bao nhiêu năm nay, Tổ Gia dàn cục vô số, ông chưa từng biết sợ điều gì, nhưng lần này ông đã sợ, bởi ông không được phép thua, thua sẽ là tội nhân thiên cổ. Tổ Gia khổ sở nghĩ cách dàn cục, cuối cùng, ông đã tìm được cửa đột phá.
Đêm hôm đó, ông dẫn theo hai tay chân thân cận đến Mai Hoa Hội, bí mật gặp Mai Huyền Tử.
“Mai sư phụ, đã lâu không gặp vẫn khỏe chứ!” Sau khi vào nhà, Tổ Gia chắp tay hỏi thăm.
Việc này khiến trống ngực Mai Huyền Tử đập loạn lên, đầu óc ông ta vốn đang rối mù về chuyện Tổ Gia làm Hán gian, đêm hôm lại thấy Tổ Gia đến thăm, càng khiến ông ta vạn lần ngờ vực.
“Tổ Gia đại giá quang lâm, có gì chỉ dạy?” Mai Huyền Tử hỏi.
“Tôi đến để cùng ông bàn xem làm thế nào để phục vụ Thiên Hoàng tốt nhất.” Tổ Gia nhếch miệng cười nhạt thếch.
“Gì cơ?” Mai Huyền Tử sững sờ. “Tổ Gia thật biết đùa, theo tôi thấy Tổ Gia và phái Giang Tướng chẳng đời nào chịu làm Hán gian đâu.”
Tổ Gia cười lớn: “Mai sư phụ quá khen rồi, tôi chỉ là hạng dân đen, những kẻ lừa đảo như chúng ta, sống được ngày nào hay ngày ấy, chết thì đi chầu trời, còn bận tâm đến đạo nghĩa gì nữa.”
Mai Huyền Tử lại ngớ người ra, Tổ Gia ít khi nói những lời bậy bạ, lần này lại khác hoàn toàn.
“Không phải Mai sư phụ cũng đã làm Hán gian sao?” Tổ Gia hỏi vặn một câu.
“Khà khà!” Mai Huyền Tử khẽ cười. “Đúng vậy, phường lừa đảo như chúng ta, sống được ngày nào hay ngày ấy, chết thì đi chầu trời.”
Tổ Gia mỉm cười, Mai Huyền Tử quả thật không đơn giản.
“Cái ghế Giang Nam đệ nhất, tôi vẫn thấy Mai sư phụ ngồi là hợp nhất.” Tổ Gia nói.
Mai Huyền Tử lắc đầu, cười khà: “Nền móng Mai Hoa Hội non kém, làm sao bì được với phái Giang Tướng của Tổ Gia đã sừng sững hiên ngang suốt 300 năm. Trước đây, nhờ có người Nhật chống lưng, chúng tôi mới ngẩng đầu lên được, nay Tổ Gia cũng được Thiên Hoàng Nhật ban lệnh bài Cung giáo, chiếc ghế Giang Nam đệ nhất này không thể thuộc về ai khác ngoài Tổ Gia.”
Tổ Gia lại lắc đầu: “Mai sư phụ quá khiêm tốn rồi, nếu tôi và ông đều không thích hợp, vậy đành phải nhường lại cho kẻ hiền tài như Tả chưởng môn của Thiên Thánh Đạo rồi!” Tổ Gia khá giảo hoạt, ông muốn thăm dò xem Mai Huyền Tử đánh giá thế nào về Tả Vịnh Thiền.
Cuối cùng khiến Mai Huyền Tử nổi xung lên, nói: “Cái thằng súc sinh đó! Trương Kế Nghiêu chính do hắn ta hại chết! Một ngày là thầy, suốt đời là thầy, bất kể đi theo chính đạo hay tà môn, sư phụ vẫn là sư phụ, giết thầy khác nào giết cha, thằng đấy còn được coi là người không?”
Tổ Gia vẫn thản nhiên, lẩm bẩm: “Sống được ngày nào hay ngày ấy, chết thì đi chầu…”
Chưa nói hết câu, Mai Huyền Tử đã cắt ngang lời: “Tổ Gia, thôi đừng diễn kịch nữa! Chúng ta qua lại với nhau không phải mới ngày một ngày hai, ông là con người thế nào, tôi đây biết rõ. Ông dám làm Hán gian, không sợ Cửu gia cắt cổ sao?”
Tổ Gia lại cười: “Con người tránh sao được cái chết, làm Hán gian cũng chết, không làm Hán gian cũng chết, trước khi chết được nở mày nở mặt, cũng đáng!”
Mai Huyền Tử đứng phắt dậy, vằn mắt lên nhìn Tổ Gia, mấy từ “Tôi coi khinh ông!” rít qua kẽ răng.
Tổ Gia vẫn ngồi ung dung, nói: “Mai sư phụ, ông quay người lại đi.”
Mai Huyền Tử ngơ ngác: “Ý… Ý ông là gì?”
Tổ Gia chỉ vào tấm gương kiểu Tây phía sau lưng Mai Huyền Tử, nói: “Hãy nhìn người trong đó, nói khinh ông ta trước đi.”
Mai Huyền Tử điên tiết quay người lại, chỉ trừng trừng không chớp mắt mà nhìn vào mình trong gương, đột nhiên ông ta gào lên: “Chó chết!” Rồi phẩy tay, xoảng một tiếng, chiếc gương bị đẩy xô đổ xuống đất, ông ta điên tiết quay lại nhìn Tổ Gia, gằn giọng nói: “Tôi biết rõ ông không phải Hán gian, ông cũng không thể làm Hán gian. Bây giờ tôi nói cho ông biết, ông nghe cho rõ đây, tôi – Mai Huyền Tử, cũng không phải Hán gian!”
Tổ Gia rùng mình vì vui mừng, đây chính là điều ông mong đợi.
Năm xưa, khi Mai Huyền Tử tự lập môn phái ở Thượng Hải, Tổ Gia đã phái người đi điều tra, sau khi biết ông ta là đệ tử của bậc thầy quốc học đức cao vọng trọng Mai Phủ Tổ, ông đã nhìn kẻ hậu sinh này bằng con mắt khắc. Mai Phủ Tổ là Đại sư Quốc học, nhân phẩm và tài hoa đều thuộc đẳng cấp hàng đầu. Lão tiên sinh cả đời dạy học trồng người, học sinh khắp thiên hạ, sau khi xuất gia một lòng thanh tu, cùng Lý Thúc Đồng tiên sinh, người theo Phật, kẻ theo Đạo, trên quỹ đạo cuộc đời khác nhau đều lãnh ngộ được cảnh giới khác nhau, cuối cùng một người thành Phật nhập cõi Niết Bàn, một người thành tiên cưỡi mây đỏ bay về trời.
Thầy nào trò ấy. Học trò của thầy Phủ Tổ dù thế nào cũng không thể là thứ bỏ đi được. Còn việc tại sao Mai Huyền Tử rời khỏi đạo môn hoàn tục, tự lập Đường khẩu ở bến Thượng Hải, nguyên do bên trong không ai biết rõ, Tổ Gia khi đó cũng không sao hiểu nổi.
“Tổ Gia hãy đi theo tôi.” Mai Huyền Tử đã bình tâm lại đôi chút.
Tổ Gia biết, bí mật thật sự sắp được hé mở.
Hai người bước vào căn phòng phía tây, Tổ Gia nhìn thì thấy một tấm bài vị, trên đó ghi: “Linh vị sư tổ Mai Công Phủ Tổ”.
Mai Huyền Tử rút ba nén nhang, châm lửa, cung kính cắm vào lư hương, rồi vái ba vái. Sau đó, ông kể cho Tổ Gia nghe nguyên nhân ngọn nguồn việc mình hoàn tục.
Sống tại gia đã khó khăn, xuất gia còn khó khăn hơn. Bất kể là tăng hay đạo, người xuất gia chân chính đều không phải người muốn lánh đời cầu sự thanh tịnh, việc đó gọi là chạy trốn, chứ không phải thanh tu.
Trong Hoa Nghiêm kinh – phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện đã nói: “Do như liên hoa bất trước thủy, diệc như nhật nguyệt bất trú không”. Hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, mặt trăng và mặt trời treo lơ lửng giữa trời nhưng không hề dựa dẫm vào thứ gì, cảnh giới được thong dong, thư thả khác thường, không phải dựa vào việc trốn tránh lánh đời mà đạt được. Trong lịch sử, có vô số bậc cao tăng, đại đức đều là các tấm gương chuyên tâm tu tâm đức, mỗi hành động việc làm, mỗi phút mỗi giây đều nghĩ cho muôn dân, luôn một lòng từ bi cầu nguyện cho muôn dân, trong khoảnh khắc nhập cõi Niết Bàn vẫn nghĩ đến muôn dân, khi sắp về trời vẫn luôn phát nguyện, không bỏ mặc chúng sinh, giống như Địa Tạng Bồ Tát đã phát nguyện: “Địa ngục vị không thệ bất thành Phật, chúng sinh độ tận phương chứng Bồ đề”.
Bởi vậy, nhất thời xuất gia thì dễ, xuất gia cả cuộc đời mới khó. Mai Huyền Tử chính là minh chứng cho câu nói này, ông ta mang trên người quá nhiều thói hư tật xấu. Đặc biệt là cờ bạc, ông ta không thể bỏ được.
Cho dù Mai Phủ Tổ giáo hóa hết lần này đến lần khác, ông ta vẫn tật xấu khó bỏ. Có lần, thậm chí ông ta còn nghĩ đến chuyện lấy dao chặt đứt tay mình. Về sau, trong một cơ hội ngẫu nhiên, ông ta nghe được các sư huynh to nhỏ với nhau, nói rằng, trong Tàng kinh các ở hậu viện có cuốn sách Kỳ môn độn giáp do thầy Mai Phủ Tổ chú giải, tin này khiến Mai Huyền Tử rùng mình.
Kỳ môn độn giáp là thuật dự đoán thuộc tầng bậc cao nhất của Dịch học, thời xưa còn được mệnh danh là “Đế vương chi học”, nó hàm chứa rất nhiều yếu tố dự đoán, dùng ngũ hành, can chi, cửu cung, bát quái, tinh thần (sao thần) của vĩ thư trong thiên bàn, địa bàn, môn bàn, được coi là cuốn tuyển tập văn hóa thần bí của Trung Quốc. Người xưa nói: “Học hội kỳ môn độn, lai nhân bất dụng vấn”, nghĩa là, nếu hiểu thuật Kỳ môn độn giáp, anh cứ việc ngồi ở nhà uống trà, lúc này có người gõ cửa, người ta còn chưa mở miệng nói gì, anh đã biết được ý định của việc người ta đến tìm. Lời ngợi khen về sự thần kỳ của Kỳ môn độn giáp đã khiến nó trở thành đối tượng lùng tìm của vô số người, từ xưa tới nay, người nghiên cứu thuật số đông như kiến.
Sau khi hay tin về Tàng kinh các, Mai Huyền Tử liền tìm trăm phương nghìn kế lấy cho bằng được cuốn sách này về tay mình. Một khi học được bản lĩnh này thì chẳng lo gì đến cái ăn cái uống nữa, ông ta có thể “khởi cục” bất cứ lúc nào, dùng thuật Kỳ môn để chọn ngày đẹp đi đánh bạc, sau đó lại chọn hướng ngồi tốt trên bàn, chọn lúc chọn nơi đại cát đại lợi, chắc chắn sẽ thắng bạc.
Nào ngờ, mọi thuật dự đoán như đều có linh tính riêng của nó, hầu như mọi phương pháp dự đoán sinh ra từ trong Chu dịch đều tuân theo một quy luật: Tích thiện tất dư niềm vui, tích bất thiện tất thừa tai hoạ. Thánh nhân soạn dịch, mục đích để giáo hóa chúng sinh, đón cát tránh hung, chứ không phải dùng để thỏa mãn thói tham lam ích kỷ, nếu dùng thuật dự đoán theo con đường tà đạo tất sẽ gặp chuyện ngoài ý muốn, cuối cùng rồi sẽ hủy hoại bản thân. Có không biết bao người ôm giấc mộng được phát tài mà lao đi học thuật Kỳ môn, cuối cùng tẩu hoả nhập ma, biến thành một kẻ điên điên khùng khùng.
Nhìn thấu lòng dạ Mai Huyền Tử, thầy Mai Phủ Tổ đã hết lòng hết dạ dạy bảo ông ta: “Tất cả mọi pháp đều hư ảo như bong bóng. Lục căn của con bất tịnh, không thích hợp học đạo thuật siêu hình, nếu không tất sẽ phải phiền lụy!”
Mai Huyền Tử cứ gật đầu, nhưng kỳ thực chẳng hề nghe lọt tai từ nào, cái ý nghĩ “trộm sách rồi chạy” cứ quay cuồng trong đầu ông ta. Canh ba hôm sau, Mai Huyền Tử một mình đến hậu viện, lẻn vào Tàng kinh các, châm một ngọn nến, lấy ống tay che kín ánh nến, lật khắp hòm tủ, cuối cùng trông thấy bản chép tay Kỳ môn độn giáp tập chú. Đúng lúc này, các tiểu đạo sĩ đi gác đêm đã phát hiện ra ánh đèn chập chờn trong Tàng kinh các, liền hô lớn: “Có trộm! Có trộm!”
Mai Huyền Tử vội vội vàng vàng giấu cuốn kinh thư vào trong người, phi thân bay ra làm vỡ cả cửa sổ, sau đó ông ta trèo lên chiếc thang đã được chuẩn bị sẵn từ trước, vượt qua tường, trong đêm tối chuồn khỏi đạo quán xuống núi.
Sau khi trời sáng, Mai Huyền Tử đã chạy xa đến bốn, năm mươi dặm, ông ta ngồi dưới một cây cổ thụ, lau mồ hôi trên mặt, sung sướng cười sằng sặc. Sau đó, ông ta móc cuốn sách trong người, mở ra nhìn, mặt mũi ỉu xìu, nản lòng thoái chí vô cùng, thì ra chỉ là một cuốn đại cương, chủ yếu nói về nguyên lý của thuật Kỳ môn độn giáp và các yếu tố suy diễn cơ bản khi khởi cục, còn về cơ bản không hề nhắc đến các thao tác cụ thể. Lúc này, Mai Huyền Tử mới phát hiện thấy, tên của cuốn sách này là Kỳ môn độn giáp tập chú 1, có quyển 1 thì chắc chắn sẽ có quyển 2, quyển 3, thậm chí là quyển 100. Tối qua, do gấp gáp nên không nhìn rõ đã lấy trộm rồi bỏ chạy, nghĩ đến đây Mai Huyền Tử vừa hối hận vừa tức giận.
Ông ta nghĩ đến chuyện lại quay về lấy trộm, nhưng lý trí đã chiến thắng cơn điên khùng, ông ta biết đó là điều không thể, hoặc sau khi quay về, ông ta sẽ bị các sư huynh đánh chết, sư phụ cũng sẽ đuổi cổ ra khỏi sư môn. Mai Huyền Tử ngẫm nghĩ, rồi quyết định rời xa nơi này mãi mãi, xem như vẫn còn sót lại chút lương tâm. Ông ta dập đầu mấy cái về phía Mai Hoa đạo quán, từ đó bặt vô âm tín.
Hai năm sau, Mai Huyền Tử đang đi trên phố thì đọc được dòng tin đăng trên báo, nói rằng bậc thầy quốc học đáng kính Mai Phủ Tổ đã qua đời. Ông ta bất chấp mọi chuyện chạy về đạo quán. Chuyện trộm sách hai năm trước vẫn còn hiện rõ mồn một trước mắt, đến cổng đạo quán, ông ta lại hơi lưỡng lự, đúng lúc cửa đạo quán mở ra, là Huyền Không sư huynh.
Huyền Không nói: “Vào đi, trước lúc sư phụ đi người cứ gọi tên đệ.”
Mai Huyền Tử nghe thấy vậy, bật khóc.
Quỳ trước bài vị của thầy Phủ Tổ, Mai Huyền Tử nhớ lại mọi thứ đã xảy ra, hình ảnh thầy khi còn sống cứ hiển hiện về trong đầu ông.
Huyền Không khóc nói: “Trước khi sư phụ đi, thầy đã nói rất nhiều với các huynh đệ chúng tôi, thầy nói rằng, cả đời này, điều khiến thầy tiếc nuối nhất chính là không thể độ hóa được đệ. Người có đến năm trăm đệ tử và học trò, ai cũng đi theo con đường chính đạo, mà thầy không thể kéo đệ quay về, nhưng thầy tin rằng sẽ có một ngày đệ hồi tâm chuyển ý. Thầy tin rằng ai cũng có thiện căn, chỉ là cơ duyên chưa đến, còn chưa đến mùa cây cối đâm chồi, thầy đã nguyện: Nếu ta nói sai, sau khi chết sẽ bị sét đánh, toàn thân cháy khét; nếu ta nói đúng, cây thiết trước cổng sẽ nở hoa ngay. Kết quả là ngày thứ hai sau khi sư phụ qua đời, cây thiết chưa từng ra hoa đã 90 năm nay lại trổ nhụy hoa vàng tươi.”
“Sư phụ…” Mai Huyền Tử ngẩng mặt lên trời, nước mắt ầng ậc. Gió thu se sắt, cây cỏ đượm nỗi bi ai, tiếng gọi bi thương của Mai Huyền Tử vang tận rời xanh.
XEM TƯỚNG CHO PHÙNG NGỌC TƯỜNG
Mai Huyền Tử lại một lần nữa tái xuất vào năm 1924, khi diễn ra cuộc chiến Trực Phụng lần hai, ông ta thành lập Mai Hoa Hội ở Thượng Hải.
Ông ta từng nói với các sư huynh, sư đệ rằng: “Mọi người cứ ở đạo quán thanh tu cho tốt, trông coi linh vị sư phụ, tôi ra ngoài lăn lộn vài năm. Tuy đi trên con đường khác nhau, nhưng mọi người hãy yên tâm, tôi sẽ không làm chuyện gì trái với lòng mình nữa.”
Mai Huyền Tử nhìn thấy sự suy bại của Trung Hoa. Từ cuộc chiến tranh Nha phiến đến nay, bọn đế quốc kéo đến xâm lược, đất nước sắp bị tiêu vong, tín ngưỡng sắp đến hồi tuyệt diệt, ông ta muốn dùng sức mình, một lần nữa phát triển văn hóa Đạo giáo thêm rực rỡ. Về sau, khi bắt tay vào mới phát hiện ra rằng chuyện không hề đơn giản đến vậy. Ông truyền giảng Đạo giáo cho người ta, người ta lại truyền giảng Tây học cho ông; ông nói về thuật luyện đan, người ta lại nói về đạn pháo; ông giảng về sự tu thân, người ta lại giảng về tự do; ông giảng về cấm dục, người ta lại nói cho ông nghe về những điều lãng mạn; ông nói về Nguyên Thủy, Thiên Tôn, người ta nói về Chúa Jesu, Cơ Đốc giáo… Đến lúc này ông mới hiểu, Quốc học đã bị lung lay đến tận gốc rễ. Tàu thuyền và pháo đạn của bọn đế quốc cứ lao vào Trung Quốc, tư tưởng về tôn giáo cũng dần dần ngấm xuống, tư tưởng bị u mê tê liệt là điều đáng sợ nhất, ông bắt đầu trăn trở xem phải dùng cách nào để người trong nước mình tin tưởng mình.
Chính vào lúc này, ông quen với bà đồng nổi tiếng An Huy là Cái Phi Tiên. Cái Phi Tiên, tên thật là Cái Hà, khi còn nhỏ thường hay bị chàng xác – chàng xác chính là bị những thứ không sạch sẽ ám vào người, như: bị người chết, bị loài hồ ly hay oan hồn ác quỷ nhập vào người. Về sau, khi lớn lên, bà thường nói rằng mình có thể nhìn thấy những thứ luôn đeo bám người ta, bà từng nói với ông cụ hàng xóm: “Sau lưng ông có một cái đầu ngựa, còn có cả một cái đầu trâu.” Ai cũng biết, một khi sau lưng người già có những cảnh tượng kỳ quái này, nghĩa là chẳng còn bao lâu nữa họ sẽ chết. Quả nhiên, hai ngày sau, trong căn nhà của người hàng xóm sát vách có tiếng khóc đám ma, ông cụ đã về trời. Người ta bắt đầu đến bái lạy Cái Hà, bà càng ngày càng nổi danh, thường hay đuổi quỷ trị bệnh cho người, về sau có được danh hiệu “Cái Phi Tiên”.
Mai Huyền Tử thấy vậy mới choàng tỉnh, thì ra sức mạnh của mê tín lại ghê gớm đến vậy. Ông ta tìm mọi cách tiếp cận Cái Phi Tiên, nhiều lần bày tỏ lòng mình, rồi cũng gây được ấn tượng tốt đẹp với bà. Hai người tâm đầu ý hợp, tư tưởng giống nhau, cuối cùng nên vợ nên chồng, cùng sáng lập ra Mai Hoa Hội.
Giống như tư tưởng cướp của người giàu chia cho người nghèo của phái Giang Tướng, mục đích thật sự của Mai Hoa Hội cũng không phải lừa đảo, mà là muốn tống khứ các giáo phái của phương Tây, khôi phục Quốc học. Cho nên, khi gặp Tổ Gia ở khách sạn Tây Nhã, Mai Huyền Tử mới phát ra câu: “Tu kỳ thân nhi phát kỳ thiện, kế thánh học nhi khai vị lai”, còn trịnh trọng nói với Tổ Gia: “Mai Hoa Hội được thành lập 12 năm nay, mỗi khoản đều ghi lại rõ ràng, ngoài khoản chi tiêu bình thường để duy trì Đường khẩu ra, mọi nguồn thu đều cho vào…”
Bao nhiêu năm nay, Mai Huyền Tử luôn tìm kiếm một chỗ dựa lớn, rồi lại tìm chỗ lớn hơn nữa để truyền bá, phát triển Quốc học, nhưng bọn quân phiệt còn mải đánh đấm lẫn nhau. Trước cục diện Trung Quốc đang lẩn quẩn trong cái vòng mê muội không chịu tỉnh ngộ này, từ khi Mai Hoa Hội được thành lập, ông ta luôn cảm thấy làm nên chuyện quả thực quá khó khăn. Chính vào thời điểm quan trọng này, người Nhật lại tìm đến ông ta. Ông ta nghe bọn chúng nói, cho rằng cơ hội trời ban “mượn sức mạnh này đánh lại sức mạnh kia” đã đến, cần phải lợi dụng thế lực của người Nhật, tống cổ tôn giáo của bọn Tây ra khỏi bờ cõi, đợi thời cơ chín muồi sẽ qua cầu rút ván, lật đổ con thuyền của người Nhật.
Mai Huyền Tử nói ra hết những lời gan ruột này với Tổ Gia. Sau khi nghe xong, Tổ Gia chỉ im lặng gật đầu, thở dài, rồi nói với Mai Huyền Tử: “Kẻ không biết mới giận, Mai sư phụ chịu tiếng chửi rủa sau lưng đã lâu, quả thực cũng khó cho ông, Mai sư phụ hãy nghe tôi nói…”
Mai Huyền Tử cúi người ghé sát tai ông lắng nghe, hai vị Đại sư cùng giãi bày những lời xuất phát tự đáy lòng cho nhau nghe. Trước sự nguy nan của đất nước, một nụ cười có thể làm tan biến mọi ân oán, hận thù.
Sau đó, hai người lại lên kế hoạch tỉ mỉ cho bước tiếp theo, mãi cho đến khi trời sáng vẫn chưa bàn xong. Đến giờ Ngọ, hai người cùng quỳ trước linh vị của thầy Mai Phủ Tổ, thắp hương thề nguyện, vái nhau tám vái, kết nghĩa anh em.
Kết đồng minh với Mai Huyền Tử, Tổ Gia cảm thấy vững vàng hơn nhiều, nhưng vẫn luôn thấy thiêu thiếu thứ gì đó. Ba hôm sau, Tổ Gia lại bí mật gặp Tăng Kính Võ, nói rõ kế hoạch của mình, đồng thời bảo ông truyền lại với Cửu gia. Kỳ thực, gần đây Tăng Kính Võ cũng đang tìm cơ hội bàn chuyện với Tổ Gia, nếu Tổ Gia là Hán gian thật, ông ta nhất định sẽ ra tay trừ khử.
Sau khi biết được dự tính thật sự của Tổ Gia, Tăng Kính Võ lo lắng nhắc nhở: “Tổ Gia phải hết sức thận trọng, người Nhật không dễ đối phó đâu.”
Tổ Gia gật đầu, nói:”Tôi vẫn phải phiền Tăng Giáo đầu một chuyện.”
“Tổ Gia cứ nói!”
“Giúp tôi tìm một người…”
Một tuần sau, nhờ những manh mối mà Tăng Kính Võ cung cấp, Tổ Gia đã tìm được một vị tướng sĩ nổi tiếng ẩn cư ở An Huy là Bành Hàm Phong.
Bành tướng sĩ là nhân vật nổi tiếng trong giới thuật số thời Dân quốc, rất am hiểu về tướng thuật, được người ta gọi là Nhất đại thần tướng, thiết khẩu trực đoán. Sở dĩ Bành tướng sĩ có được bản lĩnh ấy, ngoài tư chất thông minh, luôn siêng năng, nỗ lực ra, còn bởi ông có cơ duyên có được cuốn sách tướng thuật còn sót lại trong hang Mạc Cao ở Đôn Hoàng.
Văn hoá Đôn Hoàng được nổi danh ở nước ngoài bởi người ta đã tình cờ phát hiện ra một động tàng kinh ở đây, tiếc rằng đã bị bọn đế quốc nhảy vào xâu xé, giờ ở Đôn Hoàng chỉ còn lại vài cuốn sách rách nát.
Ngày 26 tháng 5 năm Quang Tự 26, khi trông coi động Mạc Cao khai thông lớp bùn lắng đọng ở lối đi số 16 ở Đôn Hoàng, đạo sĩ Vương Viên Duyên đã bất ngờ nghe thấy âm thanh phát ra từ một hang động ở bức tường đá phía bên phải. Vương đạo sĩ cho rằng bức tường này rỗng bên trong, vì thế gõ vỡ bức bích họa, cú gõ này thật tai hại, nó đã để lộ ra Động tàng kinh Đôn Hoàng gây kinh thiên động địa khắp trong và ngoài nước. Phật kinh, Đạo kinh, sách kinh điển thuật số – trong đó có cả sách tướng thuật – từ mấy nghìn năm trước đều phô bày ra trước mắt.. Đáng buồn là những cuốn kinh này lại không gây được sự chú ý của chính phủ nhà Thanh. Một vương triều rối ren, đang ngụp lặn trong những ngày tàn, tự lo cho mình còn chẳng xong, nên cũng không thể bận tâm đến những thứ này, kết quả đã để cho bọn đế quốc nhào đến. Sách kinh ở Đôn Hoàng bị bọn người Nhật, Mỹ, Nga, Đức tranh cướp gần hết, chỉ còn chừa lại cho Trung Quốc lác đác vài cuốn. Đại sư Quốc học bậc nhất thời đó là thầy Lý Tiện Lâm từng than: “Đôn Hoàng ở Trung Quốc, nhưng văn hoá Đôn Hoàng lại ở ngoài thế giới.”
Sau sự việc đó, Bành tướng sĩ vì muốn học về Đôn Hoàng học, đã vượt cả nghìn dặm đến tận đất Lũng (tên gọi khác tỉnh Cam Túc), tìm đến động tàng kinh, thăm viếng các ẩn sĩ, cuối cùng có được mười hai cuốn tướng thuật còn sót lại ở Đôn Hoàng, sau đó ông bế quan ba năm, chuyên tâm nghiên cứu, cuối cùng soạn ra Đại pháp.
Trước cuộc đại chiến ở Trung Nguyên, tướng quân Phùng Ngọc Tường đích thân mời Bành tướng sĩ đến, nhờ ông xem tướng cho mình. Bành tướng sĩ xem kỹ ngũ quan của Phùng Ngọc Tường, sau đó nói đúng một câu: “Sinh vu đao sơn, tử vu hỏa hải”.
Nửa câu đầu, Phùng Ngọc Tường có thể hiểu được. Quê gốc của ông ta ở An Huy, nơi đó ở vào thế đất có long mạch vượng, bên trái nhà tổ họ có một ngọn núi tên là Thử Đao Sơn, sở dĩ có tên như vậy vì tương truyền thời Tam Quốc, Quan Vũ đã thử cây Thanh Long yển nguyệt đao – cây đao Thanh Long hình bán nguyệt – lần đầu tiên ở đây. Còn về vế sau “chết trong biển lửa”, Phùng Ngọc Tường nát óc suy nghĩ mà vẫn không sao hiểu được.
Năm 1928, lịch sử đã minh chứng cho lời sấm này, khi Phùng Ngọc Tường ngồi trên con tàu mang tên Thắng Lợi khởi hành từ New York đi Odessa, giữa đường tàu bốc cháy, cả nhà cùng bỏ mạng trong biển lửa. Có thể thấy, năng lực của Bành tướng sĩ thuộc hạng nhất.
Sở dĩ Tổ Gia tìm Bành tướng sĩ, chính vì muốn học được tướng thuật chân chính. Đã bao năm nay, ông luôn tìm tòi, học theo phương pháp tướng số nào đơn giản, thực dụng nhất, Bát tự cần phải có ngày sinh, Lục hào cần phải có đồng xu, Kỳ môn cần phải khởi cục, chỉ duy nhất có thuật xem tướng – quan sát tướng mạo mà biết ngay phúc họa, nghe giọng nói biết ngay cát hung – nếu ông nắm bắt được có khác gì như hổ thêm cánh vào lúc nguy cấp.
Điểm cao thâm nhất của tướng thuật là có thể nhìn ra được vận khí Lưu niên trên khuôn mặt. Lưu niên là thuật ngữ trong mệnh lý học, chỉ một năm mà người ta trải qua, thời gian như nước chảy (thủy Lưu niên), cho nên mới có cách gọi đẹp đẽ này. Từ Lưu niên đến Lưu nguyệt, từ Lưu nguyệt đến từng ngày, từ những nét đặc trưng và khí sắc mỗi ngày trên khuôn mặt của người ta mà có thể phán đoán ra được phúc họa cát hung trong một khoảng thời gian gần của một người. Một vị tướng sĩ cao minh, ngay cả một chuyện nhỏ nhặt như bạn vừa mới có quan hệ nam nữ, ông ta đều có thể đoán chính xác qua khí sắc trên nét mặt của bạn. Tổ Gia muốn dùng phương pháp này, hy vọng có thể phán đoán chính xác sự thành bại của đối thủ vào thời khắc nguy cấp, cũng như đoán được sự thành bại của chính mình.
Không ngờ, sau khi gặp được Bành tướng sĩ, Tổ Gia đã vô cùng thất vọng. Bành tướng sĩ liền giáng cho ông ngay một đòn phủ đầu: “Xem tướng đoán mệnh đều là thứ tà đạo, không chỉ mê hoặc tâm trí của người dân mà còn khiến cho mình trượt chân lạc đường. Những người xem tướng số không một ai có được kết cục tốt đẹp. Đại sư Lục hào Kinh Phòng đời Hán đoán mệnh cả đời, cuối cùng lại bị Hoàng đế giết chết, sau khi chết thi thể bị phân thây, tùng xẻo; Hàn Dũ từng ca ngợi Lý Hư Trung xem Bát tự “trăm lần không sai một”, nhưng ông ta lại nuốt nhầm phải thủy ngân trúng độc mà chết; Lưu Bá Ôn đời Minh có được mỹ danh “biết năm trăm năm về trước và năm trăm năm về sau”, cuối cùng lại bị Hồ Duy Dung hạ độc, hai người con trai, một người phải nhảy xuống giếng, một người phải treo cổ, hương hỏa gia môn tuyệt diệt; còn có rất nhiều thầy tướng số nổi tiếng khác, hoặc là cả đời vận hạn liên miên, hoặc con cháu đời sau tàn tật ngẩn ngơ… Từ lâu ta đã không xem tướng cho người ta, cho nên những sách xem tướng đoán mệnh nổi tiếng đều bị đốt cả rồi!”
Từng câu, từng câu một thúc mạnh vào tâm khảm Tổ Gia. Tổ Gia như vẫn trong cơn mộng mị, thận trọng hỏi: “Tại sao lại vậy?”
“Nhìn thấu tâm trí người ta, đi ngược với đạo trời.” Bành tướng sĩ nói.
“Xin chân nhân chỉ dạy!” Tổ Gia nhất thời vẫn chưa lĩnh hội được.
“Trong Kinh Dịch, từ đầu chí cuối đều nói về đạo lý làm người, từ đầu chí cuối thứ mà nó nhấn mạnh đều là việc mỗi cá nhân phải tự tu thân, thuận theo lẽ trời, phản tỉnh bản thân mình, nâng cao đức hạnh của mình, có như vậy mới đạt được mục đích tránh hung đón cát, nói cách khác chính là, người có thể làm thay đổi được vận mệnh của anh chính là bản thân anh, đây là nguyên tắc căn bản của Kinh Dịch. Mà việc xem tướng số lại phá vỡ nguyên tắc này, nó khiến người ta đem ký thác hy vọng lên ngoại vật, ký thác vào thầy tướng số, ký thác vào tà thuyết dị đoan của bùa chú, khiến cho chúng sinh đánh mất tâm tính, đánh mất bản ngã, đây gọi là đánh cắp linh hồn. Ngươi nói xem, tội này sống được bao lâu?” Bành tướng sĩ giải thích.
Tổ Gia tâm đắc gật đầu, như đã lĩnh ngộ được sâu sắc, sau đó hỏi đến cùng: “Nói như vậy, bất luận là một vị đại sư hiểu rõ mệnh lý chân chính, hay chỉ là một kẻ khôn lanh lừa lọc, chuyên hành nghề lừa đảo trên giang hồ, đều không có kết quả tốt đẹp?”
“Đại sư và một kẻ lừa đảo có gì khác nhau?” Bành tướng sĩ hỏi ngược lại.
“Một người có bản lĩnh thật, một người chỉ là hư danh.” Tổ Gia đáp.
“Khà khà khà!” Bành tướng sĩ cười lớn. “Sai rồi! Bậc Đại sư và kẻ lừa đảo cũng chỉ kẻ tám lạng, người nửa cân mà thôi. Mục đích của bọn họ đều là để người ta đem ký gửi vận mệnh vào việc xem tướng mà coi nhẹ tầm quan trọng của việc tự tu tập bản thân. Rút cục đều vì tiền, bọn họ mới dùng lời khôn tiếng khéo để lừa phỉnh người ta, miệng tuy khẳng khái đĩnh đạc nhưng thứ mà trong đầu họ nghĩ đến chẳng qua đều là những nén bạc trắng xóa lóa mắt mà thôi, chỉ khác nhau ở chỗ công phu biểu diễn cao hay thấp, kẻ giỏi che đậy tâm tư, tạm thời đứng trước đống bạc mà mặt mày không biến sắc, đó chính là Đại sư; kẻ không giỏi giấu giếm, thấy tiền bạc là mắt sáng lên, đó chính là kẻ lừa đảo. Nhưng một khi lột mất cái mặt nạ của bậc Đại sư thì sẽ phát hiện ra, ông ta còn tham hơn phường lừa đảo, gian trá hơn chúng!”
Tổ Gia bừng tỉnh như được dội nước lên đầu: “Chân nhân nói phải! Chân nhân nói phải!”
Bành tướng sĩ cười khà: “Theo ta thấy, Đại sư chân chính, từ cổ chí kim chỉ có một, đó chính là Trương Lương đời Hán. Ông ta là người thực sự hiểu được chân lý của Kinh Dịch, cho nên chưa bao giờ xem tướng số cho người ta, sau khi phò giúp Lưu Bang dựng lên cơ nghiệp nhà Hán, liền rút lui ngay. Đây chính là người duy nhất học Kinh Dịch đạt đến cảnh giới xuất thần, lại được sống thọ, được chết trên giường nhà mình. Gia Cát Lượng không được vậy, sau vài năm làm trái đạo trời, hao người tốn của, chết nơi đất khách mãi gò Ngũ Trượng (Thiểm Tây); Lưu Bá Ôn càng không xong, phải gánh chịu họa diệt môn thê thảm; Kinh Phòng thì không phải nói nữa, chết chẳng toàn thây; Thiệu Ung được xem là Đại sư nửa vời, ban đầu ông ta cũng có ý định dùng cách xem tướng số để cải mệnh cho người ta, về sau mới phát hiện ra không thể làm được, cuối cùng im bặt, cái gì cũng không nói, điểm này đã được thể hiện rõ nét trong trước tác Hoàng cực kinh thế, ông ta chỉ viết ra khởi nguồn của âm dương, cách cục xã hội diễn biến tự nhiên, chứ không hề tiết lộ phương pháp diễn đoán (diễn giải mà luận đoán), đó chính là vì sợ người khác học được phương pháp này mà đi lầm đường.”
Tổ Gia gật đầu liên tiếp: “Chân nhân dạy rất phải!”
“Hơn nữa, ngươi không nhận ra một hiện tượng rất thú vị hay sao?” Bành tướng sĩ nhíu mày hỏi.
“Hiện tượng gì vậy?” Tổ Gia không hiểu.
“Người thích xem tướng số thì vận mệnh càng ngày càng kém, càng mong cầu tài vận, tài vận ngày càng không tốt; cầu nhân duyên, nhân duyên càng không thuận lợi; cầu sức khỏe, sức khỏe kém dần; cầu đường quan vận thì chiếc mũ ô sa sớm muộn cũng mất…” Bành tướng sĩ mỉm cười nói.
“Mệnh càng xem càng bạc?” Tổ Gia đã ngộ ra đôi phần.
“Ừm.” Bành tướng sĩ gật đầu. “Vì những người này đã giao vận mệnh của mình cho kẻ khác, vậy còn tốt đẹp được nữa không?”
Tổ Gia lại gật đầu lia lịa, sau đó liền đem ý đồ thật sự của mình nói với Bành tướng sĩ.
Sau khi nghe xong, Bành tướng sĩ mỉm cười gật đầu: “Ngươi vì muốn cứu nước mà đến… Nếu ta đuổi ngươi ra khỏi cửa thì ta chẳng khác kẻ bất nhân bất nghĩa. Ta sẽ truyền lại cho ngươi đôi chút về Ngũ hành tâm pháp vậy, có lẽ sẽ có tác dụng, còn về việc nó có tác dụng thế nào, tự ngươi liệu mà làm, không làm được sẽ mất mạng đấy!”
Tổ Gia vội cúi nghiêng người lắng nghe.
Lúc này, Tổ Gia mới phát hiện ra, Bành tướng sĩ không chỉ vô cùng tinh thông tướng thuật mà còn rất am hiểu kiến thức của các môn thuật số khác, mọi thuật dự đoán đều không thể tách rời khỏi quy luật sinh khắc chế hóa của ngũ hành, công cụ suy diễn đều là thiên can địa chi, nhất pháp thông, vạn pháp thông, nguyên lý đều giống nhau. Hai người thắp nến trò chuyện thâu đêm không nghỉ. Họ nói từ tướng mặt cho đến tướng tay, từ tướng tay đến Bát tự, từ Nạp âm thủ mệnh đến Thiết Bản thần toán, từ Kỳ môn độn giáp đến Mai Hoa dịch số, Bành tướng sĩ tóm lược những điểm cốt yếu đem truyền thụ, Tổ Gia liền ghi khắc lời dạy của thầy.
Lúc canh năm, Tổ Gia vẫn không thấy buồn ngủ, nhưng vì lo nghĩ cho sức khỏe của Bành tướng sĩ, liền đề nghị ông hãy nghỉ ngơi trước.
Sau khi Bành tướng sĩ vào nhà nằm nghỉ, Tổ Gia nhẹ nhàng khép cửa lại, bước ra ngoài. Giữa vùng sơn dã, ông ngồi xếp bằng trên một tảng đá lớn, hít thở bầu không khí trong lành, ngẫm nghĩ lại mọi điều mà Bành tướng sĩ đã truyền dạy, nghĩ đến lúc phấn chấn, ông không khỏi bất giác thầm thán phục sự thần kỳ vĩ đại của thuật số Trung Hoa.
Khi mặt trời đã lên cao, gần đến giờ Tỵ, Tổ Gia đoán chắc Bành tướng sĩ đã thức dậy, bèn quay lại nhà, gõ cửa nhè nhẹ.
“Bành chân nhân?”
Không thấy tiếng đáp lại. Tổ Gia cầu có thêm kiến thức như kẻ đang khát cháy cổ, nhưng lại nhớ đến điển cố Trình môn lập tuyết, nếu lão tiên sinh còn chưa thức dậy, vậy thì hẵng cứ đợi thầy thức dậy đã. Tổ Gia đứng đợi ở ngoài đúng một giờ đồng hồ, thấy đã sắp đến giờ Ngọ, không thể chờ được lại gõ cửa lần nữa.
Trong nhà vẫn không có tiếng trả lời, một dự cảm không lành nhanh chóng ập đến, Tổ Gia liền đẩy mạnh cửa bước vào.
“Hả!?” Tổ Gia kêu lên, trên giường trống không, Bành tướng sĩ đã biến mất!
Tổ Gia nghĩ đủ cách mà vẫn không sao hiểu được, sau đó dùng thuật Kỳ môn độn giáp khởi cục trên tay, để xem Bành tướng sĩ đã đi về hướng nào. Kỳ môn độn giáp có tất cả tám cửa (bát môn), chia thành: Hưu môn, Sinh môn, Thương môn, Đỗ môn, Cảnh môn, Tử môn, Kinh môn, Khai môn. Trong đó, có bốn cát môn là: Hưu, Sinh, Cảnh, Khai; bốn cửa còn lại bị coi là hung môn. Năm xưa, khi tướng Ngụy là Tào Nhân bố trận Bát môn kim tỏa hòng dồn Lưu Bị vào Tử Môn, thì bị quân sư của Lưu Bị là Từ Thứ nhìn ra mà phá giải được. Sau đó, Gia Cát Khổng Minh lại thay đổi trận pháp này, tạo ra Bát trận đồ (Trần đồ bát quái). Năm 222, tướng Ngô là Lục Tốn đã đánh bại Lưu Bị trong trận Hỏa thiêu liên doanh, đòi đánh đuổi đến cùng, bất cẩn mà chui vào Bát trận đồ do Gia Cát Lượng bố trí, nếu không phải cha vợ của Gia Cát Lượng dẫn hắn ra qua Sinh môn thì hắn đã chết trong vòng vây đó rồi. Tổ Gia liền áp dụng ngay thứ mình vừa học được, khởi cục trên tay, thấy Bành tướng sĩ đã lạc Hưu môn, cho thấy không có gì đáng lo ngại đến tính mệnh, nhưng Hưu Môn cũng cho thấy thầy đã “viễn hành” (đi xa), rốt cuộc là tự mình rời đi, hay đã xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn? Công lực của Tổ Gia không đủ, nhất thời không thể nhìn ra được…
Đang thắc mắc, ông phát hiện ra một cái bọc trên án kỷ, trên đó có một tờ giấy, những dòng chữ do Bành chân nhân viết hiện lên rõ nét: “Thuật số giai hư ảo, đại đạo tại kỳ trung”. Tổ Gia chần chừ giây lát, rồi từ từ mở cái bọc, một cuốn sách hiện ra, có tên Liễu phàm tứ huấn.
Đầu óc Tổ Gia ong hết cả lên, những chuyện đã xảy ra khi ông còn bé chợt hiện ra trước mắt…