Trật Tự Thế Giới - Chương 01

Chương 1

CHÂU ÂU: TRẬT TỰ QUỐC TẾ ĐA NGUYÊN

TÍNH ĐỘC ĐÁO CỦA TRẬT TỰ CHÂU ÂU

Lịch sử của hầu hết mọi nền văn minh là câu chuyện về sự thăng trầm của các đế chế. Trật tự được thiết lập bởi sự cai trị nội bộ của các đế chế này chứ không phải bởi trạng thái cân bằng giữa các quốc gia: Trật tự vững chắc khi chính quyền trung ương cố kết, trật tự lỏng lẻo khi nhà cai trị yếu. Trong các hệ thống đế quốc, chiến tranh thường nổ ra ở những vùng giáp ranh biên giới của đế quốc này hoặc các cuộc nội chiến sâu trong nội địa. Hòa bình được xác định trong phạm vi quyền lực đế quốc có thể vươn tới.

Ở Trung Quốc và thế giới Hồi giáo, các tranh chấp chính trị nổ ra nhằm kiểm soát một khuôn khổ trật tự được thiết lập. Các triều đại thay đổi, nhưng mỗi nhóm cai trị mới lại tô vẽ mình như là người khôi phục một hệ thống chính danh đã đổ nát. Ở châu Âu đã không diễn ra quá trình tiến triển nào như vậy. Khi sự thống trị của Đế quốc La Mã[5] kết thúc, tính đa nguyên đã trở thành đặc điểm xác định của trật tự châu Âu. Ý tưởng về một châu Âu hiện ra lờ mờ như là chỉ dấu về vị trí địa lý, như là biểu tượng của Kitô giáo hay của tầng lớp quý tộc, như là trung tâm khai sáng của một cộng đồng những người có học thức và hiện đại. Tuy nhiên, dù được hiểu như là một nền văn minh duy nhất, châu Âu chưa bao giờ có một chủ thể cai quản duy nhất, hay một bản sắc thống nhất cố định. Lục địa này thay đổi các nguyên tắc mà nhân danh các nguyên tắc đó, các thực thể khác nhau ở lục địa này thường luân phiên tự trị, và thử nghiệm một khái niệm mới về tính chính danh chính trị hay trật tự quốc tế.

Ở những khu vực khác trên thế giới, một giai đoạn mà những người trị vì tranh giành quyền lực, vốn được hậu thế coi là “thời kỳ rối ren,” thời kỳ nội chiến, hay “thời đại lãnh chúa” – là giai đoạn tan rã được thương tiếc quá mức. Châu Âu phát triển mạnh mẽ trên sự tan rã ấy và bao bọc lấy những phần bị phân tranh đó của mình. Các triều đại và dân tộc khác nhau tranh giành quyền lực không bị coi là một hình thức “hỗn loạn” phải bị xóa bỏ, mà theo quan điểm lý tưởng hóa của các chính khách châu Âu, lúc có chủ ý lúc không, lại được coi là một cơ chế phức tạp có xu hướng hướng tới sự cân bằng để bảo đảm, gìn giữ quyền lợi, tính toàn vẹn và tự chủ của mỗi dân tộc. Trải qua hơn một nghìn năm, trong xu thế chủ đạo về nghệ thuật quản lý nhà nước ở châu Âu hiện đại, trật tự bắt nguồn từ trạng thái cân bằng và bản sắc bắt nguồn từ sự kháng cự đối với sự cai trị phổ quát. Về lý thuyết, đó không phải là do các vị vua châu Âu không còn ham muốn vinh quang chiến trận và chinh phạt như các vị vua ở những nền văn minh khác, cũng không phải là do họ hướng tới một lý tưởng về sự đa dạng, mà đó là do không vị vua nào đủ mạnh để dứt khoát áp đặt ý chí của mình lên các vị vua khác. Theo thời gian, tính đa nguyên khoác cho mình những đặc tính của một mô hình về trật tự thế giới. Liệu châu Âu trong thời đại chúng ta đã vượt qua xu hướng đa nguyên này, hay những cuộc tranh đấu nội bộ ở Liên minh châu Âu khẳng định xu hướng đó?

Trong khoảng thời gian 500 năm, sự thống trị của Đế chế La Mã đã đảm bảo cho sự tồn tại của một bộ luật duy nhất, một hệ thống phòng thủ chung và một trình độ văn minh ưu trội. Khi La Mã sụp đổ, như vẫn quy ước là vào năm 476, đế chế này tan rã. Trong thời kỳ mà các sử gia gọi là Thời kỳ Tăm tối, nỗi luyến tiếc về sự hợp nhất toàn thể đã lắng đi bỗng lại rộ lên. Viễn cảnh về sự hòa hợp và thống nhất ngày càng tập trung vào Giáo hội. Trong thế giới quan đó, những nước theo Ki-tô giáo là xã hội đơn nhất được quản lý bởi hai chính quyền bổ trợ lẫn nhau: chính phủ dân sự, những “người kế vị của Caesār”[6] duy trì trật tự trong phạm vi thế tục; và Giáo hội, những người kế vị Thánh Peter[7] hướng tới những nguyên tắc cứu rỗi phổ quát và tuyệt đối. Khi La Mã sụp đổ, Thánh Augustine thành Hippo[8], khi đó đang ở Bắc Phi, kết luận về mặt thần học rằng chính quyền thế tục là chính danh chừng nào nó còn tiếp tục thúc đẩy sự mưu cầu một cuộc sống kính sợ Thiên Chúa và cùng với đó là sự cứu rỗi con người. Năm 494, Giáo hoàng Gelasius I viết thư cho Hoàng đế Anastasius của Đế quốc Đông La Mã[9]: “Thế giới này được cai trị bởi hai hệ thống, quyền lực thần thánh của các linh mục và quyền lực hoàng gia. Trong hai hệ thống này, sức nặng lớn hơn nằm trên vai các linh mục vì họ sẽ phải trả lời trước Chúa, thậm chí về cả các vị vua, trong Ngày Phán xét Cuối cùng.” Theo nghĩa đó, trật tự thế giới thực sự không phải là ở thế giới này.

Khái niệm bao quát trên về trật tự thế giới đã vấp phải sự bất thường ngay từ đầu: ở châu Âu thời kỳ hậu La Mã, hàng chục nhà cai trị thế tục thực thi quyền độc lập tối cao mà không có tôn ti cấp bậc rõ ràng giữa họ; tất cả đều viện dẫn sự trung thành với Chúa Ki-tô, nhưng liên kết giữa họ với Giáo hội và thẩm quyền của Giáo hội là mơ hồ, không rõ ràng. Những cuộc tranh luận gay gắt tập trung vào việc phân định thẩm quyền của Giáo hội, trong khi các vương quốc với quân đội riêng và chính sách độc lập điều khiển quan đội để giành lợi thế của mình mà không quan tâm tới Thành phố Thần thánh của Augustine.

Nguyện vọng thống nhất trở thành hiện thực trong khoảng thời gian ngắn vào Ngày Giáng sinh năm 800, khi Giáo hoàng Leo III[10] làm lễ đăng quang cho Charlemagne[11] – vị vua của tộc người Frank[12] và là người chinh phục phần lớn lãnh thổ mà ngày nay là Pháp và Đức, Imperator Romanorum (Hoàng đế La Mã) – và ban cho ông tước vị danh nghĩa đối với nửa phía đông của Đế quốc La Mã trước đây, vào thời điểm đó là vùng đất Byzantium[13]. Hoàng đế cam kết với Đức Giáo hoàng “về mọi mặt sẽ bảo vệ nhà thờ thánh của Chúa Ki-tô khỏi sự xâm nhập ngoại giáo và sự tàn phá của những kẻ không theo đạo ở nước ngoài, cũng như ở trong nước để tăng thêm sức mạnh cho đức tin bằng cách thừa nhận nó.”

Nhưng đế chế của Hoàng đế Charlemagne đã không hoàn thành được những ước nguyện đó: trên thực tế nó đã bắt đầu sụp đổ gần như ngay khi vừa được khởi đầu. Charlemagne, bộn bề với những công việc xung quanh nước mình, chưa bao giờ cố gắng trị vì vùng đất Đế quốc Đông La Mã mà trước kia Giáo hoàng Leo III đã phân phó cho ông. Ở phía Tây, ông hầu như không đạt được tiến bộ nào trong việc giành lại Tây Ban Nha từ những kẻ chinh phạt Morroco. Sau cái chết của Charlemagne, người kế nhiệm ông tìm cách củng cố địa vị theo kiểu truyền thống bằng cách đặt tên toàn bộ thuộc địa của mình là Đế quốc La Mã Thần thánh[14]. Nhưng chưa tới một thế kỷ sau khi thành lập, đế chế của Charlemagne bị suy tàn bởi nội chiến với tư cách một thực thể chính trị cố kết đã biến mất (dù tên của nó vẫn được dùng trong suốt hàng loạt các lần chuyển giao vùng lãnh thổ cho đến năm 1806).

Trung Quốc có Hoàng đế; Hồi giáo có Caliph[15] – lãnh tụ được công nhận trong các vùng đất của Hồi giáo; châu Âu có Hoàng đế La Mã Thần thánh. Nhưng Hoàng đế La Mã Thần thánh cai quản một nền tảng yếu hơn nhiều so với các đồng nhiệm của ông ở những nền văn minh khác. Ông không có bộ máy hoàng gia để tùy nghi sử dụng trong việc cai trị. Quyền lực của ông phụ thuộc vào sức mạnh của ông tại những vùng ông cai quản trong khả năng vương triều của mình, về cơ bản là thuộc dòng họ của ông. Địa vị của ông không được chính thức cha truyền con nối, mà do bảy và sau này là chín vị hoàng thân bầu lên; những cuộc bầu cử này nói chung thường ngã ngũ sau hàng loạt những thủ đoạn chính trị, những đánh giá về lòng mộ đạo và nhiều khoản đút lót kếch xù. Về lý thuyết, Hoàng đế có thẩm quyền khi được Giáo hoàng phong chức, nhưng những cân nhắc chính trị và tổ chức thường loại bỏ yếu tố này, để ông trị vì trong nhiều năm như một “Hoàng đế được bầu mà chưa được tấn phong.” Tôn giáo và chính trị chưa bao giờ hợp thành một cấu trúc duy nhất, khiến Voltaire[16] phải chế giễu không ngoa rằng Đế quốc La Mã Thần thánh “không phải Thần thánh, chẳng phải La Mã và cũng chẳng là một đế quốc.” Khái niệm trật tự quốc tế của châu Âu thời Trung cổ phản ánh một quá trình điều chỉnh từng trường hợp cụ thể giữa Giáo hoàng và Hoàng đế và một loạt những kẻ trị vì phong kiến khác. Một trật tự phổ quát dựa trên triển vọng về một triều đại duy nhất và một bộ nguyên tắc duy nhất được hợp pháp hóa ngày càng trở nên thiếu thực tế.

Khái niệm trật tự thế giới thời Trung cổ chỉ thật sự “đơm hoa kết trái” trong một thời gian ngắn, khi nó hiển hiện cùng với sự lên ngôi của Hoàng tử Charles thuộc hoàng tộc Habsburg[17] vào thế kỷ 16 (1500-1558); sự trị vì của ông cũng dẫn đến sự tan rã không thể vãn hồi của nó. Hoàng tử người xứ Flanders[18] nghiêm khắc và mộ đạo này được sinh ra để cai trị; ngoại trừ sở thích các món ăn nêm gia vị được nhiều người biết đến, nhìn chung ông được coi là không có tật xấu nào và không dễ bị phân tâm. Ông thừa kế ngôi báu của Hà Lan khi còn nhỏ và ngôi báu của Tây Ban Nha cùng với một loạt thuộc địa rộng lớn, không ngừng mở rộng của nước này ở châu Á và châu Mỹ vào năm 16 tuổi.

Không lâu sau đó, năm 1519, ông thắng thế trong cuộc bầu cử vào ngôi vị Hoàng đế La Mã Thần thánh, trở thành người kế nhiệm chính thức của Charlemagne. Sự trùng hợp của những tước vị này có nghĩa rằng viễn cảnh thời Trung cổ dường như sắp thành hiện thực. Một người trị vì mộ đạo duy nhất cai trị vùng lãnh thổ tương đương với các nước Áo, Đức, miền Bắc Italy, Cộng hòa Séc, Slovakia, Hungary, miền Đông Pháp, Bỉ, Hà Lan, Tây Ban Nha, và phần lớn các nước châu Mỹ ngày nay. (Sự tích tụ quyền lực chính trị hàng loạt này được thực hiện hầu như hoàn toàn thông qua những cuộc hôn nhân chiến lược và đã dẫn đến châm ngôn của hoàng tộc Habsburg “Bella gerant Alii; tu, felix Austria, nube!” – “Hãy để việc gây chiến cho những kẻ khác; ngươi, nước Áo hạnh phúc, hãy kết hôn!”) Những nhà thám hiểm và chinh phạt người Tây Ban Nha – Magellan[19] và Cortés[20] giong buồm dưới sự bảo trợ của Charles – lúc bấy giờ đang trong quá trình tiêu diệt những đế chế cổ xưa ở châu Mỹ và mang theo các bí tích Ki-tô giáo cùng với quyền lực chính trị châu Âu đến khắp Tân Thế giới. Quân đội và hải quân của Charles tham gia vào việc bảo vệ Ki-tô giáo chống lại một làn sóng xâm lược mới của người Turk[21] thuộc Đế quốc Ottoman[22] và những kẻ đại diện của họ ở Đông nam châu Âu và Bắc Phi. Charles thân chinh cầm quân tiến hành một cuộc phản công ở Tunisia, với một hạm đội được gầy dựng bằng vàng từ Tân Thế giới. Bị cuốn vào những cuộc tấn công ác liệt này, Charles được những người đương thời ca ngợi là “hoàng đế vĩ đại nhất kể từ khi đế chế bị phân chia vào năm 843” với định mệnh đưa thế giới về [dưới sự cai trị của] “một người chăn chiên[23] duy nhất.”

Theo truyền thống của Charlemagne, trong lễ đăng quang của mình, Charles thề sẽ là “người bảo hộ và bảo vệ Giáo hội La Mã Thần thánh” và dân chúng xưng tụng ông là “Caesār” và “Hoàng đế”; Giáo hoàng Clement quả quyết Charles là sức mạnh thế tục để “đảm bảo hòa bình và trật tự được tái lập” trong Ki-tô giáo.

Một du khách Trung Quốc hay Thổ Nhĩ Kỳ đến châu Âu vào thời điểm đó có lẽ cũng nhận thấy một hệ thống chính trị dường như quen thuộc: một lục địa do một triều đại duy nhất, thấm nhuần ý thức thiên mệnh, trị vì. Giá như Charles đã có thể củng cố quyền lực của mình và điều khiển được việc kế vị tuần tự trong khối lãnh thổ rộng lớn thuộc hoàng tộc Habsburg, thì châu Âu đã có thể được định hình bởi một chính quyền trung ương thống trị như Đế quốc Trung Quốc hay các vương triều Hồi giáo[24].

Điều đó đã không xảy ra; hay Charles cũng không cố gắng thử làm. Cuối cùng, ông hài lòng với việc đặt trật tự dựa trên cơ sở trạng thái cân bằng. Quyền bá chủ có thể là thừa kế nhưng không phải mục tiêu của ông, như ông đã chứng minh khi thả Vua Pháp Francis I – đối thủ chính trị thế tục của ông, người đã bị ông bắt giữ trong Trận Pavia năm 1525 – trả tự do cho Pháp để tiếp tục một chính sách ngoại giao riêng biệt và đối lập ngay giữa trung tâm châu Âu. Vua Pháp khước từ cử chỉ cao quý của Charles bằng việc đi một nước cờ khác thường, đầy mâu thuẫn với khái niệm trị nước thời Trung cổ của Ki-tô giáo khi đề xuất hợp tác quân sự với Suleiman – vị Sultan của Đế quốc Ottoman – người khi đó đang xâm lược Đông Âu và thách thức sức mạnh của hoàng tộc Habsburg từ phía đông.

Tính nhất thống của Giáo hội mà Charles tìm cách chứng minh đã không tồn tại. Ông cho thấy không thể ngăn chặn được học thuyết mới về Tin Lành lan qua các vùng đất là cơ sở quyền lực chính của mình. Cả sự thống nhất tôn giáo và thống nhất chính trị đều đang đứt gãy. Nỗ lực thực hiện nguyện vọng vốn gắn liền với ngôi vua của ông đã vượt ra ngoài khả năng của một cá nhân đơn lẻ. Bức chân dung đầy ám ảnh do Titian[25] vẽ từ năm 1548 được treo tại Bảo tàng Mỹ thuật Alte Pinakothek ở Munich cho thấy sự đau khổ của một người ở ngôi cao đã không thể đạt tới sự hoàn thiện tâm linh hoặc vận dụng những đòn bẩy bá quyền căn bản thiết yếu đối với mình. Charles quyết định từ bỏ các ngôi vị của mình và chia nhỏ đế chế rộng lớn của ông ra, và ông thực hiện việc đó theo cách chỉ trích cái tính đa mang kiêm nhiều ngôi vị đã khiến mưu cầu hợp nhất của ông thất bại. Ông truyền lại Vương quốc Napoli và Sicily và sau đó là ngôi vua Tây Ban Nha cùng đế chế toàn cầu của nước này cho con trai là Philip. Năm 1555, trong một buổi lễ xúc động ở Brussels, ông điểm lại thành tích của mình, khẳng định rằng nhờ sự siêng năng mà ông đã hoàn thành nhiệm vụ và trao Nghị viện Hà Lan[26] cho Philip. Cùng năm đó, Charles ký một hiệp ước mang tính bước ngoặt là Hòa ước Augsburg[27], công nhận đạo Tin Lành trong Đế quốc La Mã Thần thánh. Từ bỏ nền tảng tâm linh của đế chế của mình, Charles đã cho các hoàng tử quyền lựa chọn định hướng giải tội trong lãnh thổ của họ. Không lâu sau đó, ông từ bỏ ngôi vị Hoàng đế La Mã Thần thánh, chuyển giao đế quốc cho em trai của ông là Ferdinand cùng với những biến động và thách thức bên ngoài của nó. Charles lui về sống ẩn dật trong một tu viện ở vùng nông thôn Tây Ban Nha. Ông trải qua những ngày cuối đời bên đức cha xưng tội của mình và một nhà chế tạo đồng hồ người Italy, người có những tuyệt tác treo đầy tường mà Charles cố gắng theo học nghề. Khi Charles qua đời năm 1558, trong di chúc của mình, ông tỏ ra tiếc nuối về sự rạn vỡ của đức tin đã diễn ra trong thời ông trị vì và buộc tội con trai mình vì đã tăng gấp đôi số tòa án dị giáo[28].

Ba sự kiện đã làm tan rã hoàn toàn lý tưởng cũ về một sự hợp nhất. Khi Charles V qua đời, những thay đổi mang tính cách mạng đã nâng viễn cảnh của châu Âu từ một liên minh khu vực lên thành liên minh toàn cầu và đồng thời làm phân rã trật tự tôn giáo và chính trị thời Trung cổ: khởi đầu kỷ nguyên khám phá, phát minh về in ấn và phong trào ly khai trong Giáo hội.

Theo cách hiểu của những người châu Âu có học thức thời Trung cổ, một bản đồ miêu tả vũ trụ sẽ cho thấy Bắc và Nam Bán cầu trải dài từ Ấn Độ ở phía đông đến Bán đảo Iberia và các đảo của Vương quốc liên hiệp Anh ở phía tây, ở giữa là Jerusalem. Theo cách nhìn nhận thời Trung cổ, đây không phải một bản đồ cho du khách mà là một sân khấu thần thánh cho vở kịch về sự cứu rỗi con người. Kinh Thánh cho rằng thế giới có 6/7 là đất và 1/7 là nước. Do các nguyên tắc cứu rỗi là cố định và có thể được áp dụng bằng những nỗ lực ở các vùng đất quen thuộc của Ki-tô giáo, không có sự tưởng thưởng nào cho việc mạo hiểm vượt qua những lằn ranh của nền văn minh. Trong cuốn Địa ngục, Dante miêu tả sự kiện Ulysses giong buồm qua các Cột trụ trời của Hercules[29] (Mỏm Gibraltar và những đỉnh cao gần đó ở Bắc Phi, mép phía tây của Địa Trung Hải) để tìm kiếm tri thức, đã bị trừng phạt vì phạm tội chống lại kế hoạch của thần linh bởi một cơn gió xoáy làm đắm con tàu của ông cùng tất cả thủy thủ đoàn.

Thời hiện đại xuất hiện khi các xã hội mạnh dạn khám phá đại dương và bất kỳ điều gì phía xa sau chúng để tìm kiếm vinh quang và giàu có. Vào thế kỷ 15, châu Âu và Trung Quốc đã gần như cùng lúc mạo hiểm tiến về phía trước. Những con tàu Trung Quốc, khi đó là lớn nhất và tiên tiến nhất thế giới về mặt công nghệ, đã thực hiện những chuyến hải trình thám hiểm tới Đông Nam Á, Ấn Độ và bờ biển phía đông châu Phi. Họ trao đổi tặng phẩm với các chức sắc địa phương, ghi danh các hoàng thân vào “hệ thống triều cống” cho đế quốc này, mang về nước những tập quán văn hóa khác lạ và động vật quý hiếm. Tuy nhiên, sau cái chết của nhà thám hiểm hàng hải Trịnh Hòa[30] vào năm 1433, Hoàng đế Trung Quốc chấm dứt những cuộc phiêu lưu ở nước ngoài, và các đội tàu bị bỏ hoang phế. Trung Quốc tiếp tục nhấn mạnh sự thích hợp chung trong các nguyên tắc của nước này về trật tự thế giới, nhưng từ đó về sau chỉ áp dụng ở trong nước và với các dân tộc dọc theo biên giới của nó. Kể từ đó, nước này chưa bao giờ cố gắng lặp lại một nỗ lực hàng hải tương tự, có lẽ cho đến tận thời đại của chúng ta.

60 năm sau đó, các cường quốc châu Âu đã khởi hành từ một lục địa, nơi các thế lực đang tranh giành chủ quyền; mỗi vị vua tài trợ thám hiểm hàng hải chủ yếu vì hy vọng giành được lợi thế về mặt thương mại hay chiến lược so với các đối thủ của mình. Những con tàu của Bồ Đào Nha, Hà Lan và Anh mạo hiểm đến Ấn Độ; tàu Tây Ban Nha và Anh khởi hành tới Tây Bán cầu. Cả hai [hướng đi này] bắt đầu thay thế những độc quyền thương mại và cơ cấu chính trị hiện hữu. Thời đại mà ảnh hưởng thống trị của châu Âu đối với các vấn đề thế giới kéo dài ba thế kỷ đã bắt đầu. Các mối quan hệ quốc tế từng gói gọn trong mỗi khu vực, từ đó về sau trở thành vấn đề toàn cầu với trọng tâm ở châu Âu, nơi khái niệm trật tự thế giới được xác định và việc thực thi khái niệm này được quyết định.

Tiếp theo đó là một cuộc cách mạng tư duy về bản chất của thế giới quan chính trị. Người ta làm thế nào mà hình dung ra được sự tồn tại của các cư dân ở những vùng chưa ai từng biết đến? Làm thế nào để họ phù hợp với thế giới quan thời Trung cổ về Đế quốc và Giáo hoàng? Một hội đồng các nhà thần học do Vua Charles V triệu tập vào các năm 1550-1551 ở thành phố Valladolid, Tây Ban Nha đã kết luận rằng những người sống ở Tây Bán cầu là những con người có linh hồn và do đó đủ điều kiện để được cứu rỗi. Tất nhiên, kết luận thần học này cũng là một cách biện minh cho việc chinh phạt và cải đạo. Các nước châu Âu được phép gia tăng của cải và xoa dịu lương tâm của họ cùng lúc. Sự tranh giành kiểm soát lãnh thổ trên toàn cầu của họ làm thay đổi bản chất của trật tự quốc tế. Viễn cảnh của châu Âu được mở rộng cho đến khi các nước châu Âu khác nhau lần lượt nỗ lực thực dân hóa thành công hầu hết mọi nơi trên địa cầu và các khái niệm về trật tự thế giới hợp nhất với sự vận hành cán cân quyền lực ở châu Âu.

Sự kiện thứ hai có ảnh hưởng sâu xa về sau là sự phát minh kỹ thuật in di động vào giữa thế kỷ 15, giúp việc truyền bá kiến thức được thực hiện ở quy mô lớn tới mức bấy giờ không thể tưởng tượng được. Xã hội thời Trung cổ lưu giữ kiến thức bằng cách ghi nhớ hay tỉ mẩn chép tay các văn bản tôn giáo, hoặc biết về lịch sử qua sử thi. Trong thời đại khám phá này, những gì được phát hiện cần để cho người ta biết đến, và in ấn cho phép các tài liệu được phổ biến. Sự khám phá những thế giới mới cũng truyền cảm hứng để tìm kiếm và tái khám phá thế giới cổ đại và những sự thực cơ bản về nó, đặc biệt nhấn mạnh vào tính trung tâm của từng cá nhân. Việc người ta ngày càng sử dụng lý luận như một nguồn lực khách quan để soi sáng và lý giải đã bắt đầu làm rung chuyển những thể chế hiện hành, bao gồm cả Giáo hội Thiên Chúa giáo mà cho đến bấy giờ là không thể bị công kích.

Sự kiện có tính cách mạng thứ ba là cuộc Cải cách Tin Lành[31], được khởi xướng vào năm 1517 khi Martin Luther – giáo sư thần học, nhà cải cách tôn giáo người Đức – niêm yết 95 luận đề nơi cửa Nhà thờ Lâu đài Wittenberg, nhấn mạnh vào mối quan hệ trực tiếp của từng cá nhân với Thiên Chúa và do đó lương tâm của từng cá nhân – chứ không phải tính chính thống vốn đã được củng cố chắc chắn – được đưa ra như là chìa khóa của sự cứu rỗi. Một số nhà cai trị phong kiến chớp lấy cơ hội này để củng cố quyền cai trị của họ bằng cách tiếp nhận Tin Lành, áp đặt nó lên người dân và tịch thu đất đai của Giáo hội để gia tăng của cải cho bản thân. Mỗi bên coi bên kia như dị giáo, và những bất đồng biến thành những cuộc chiến đấu sống còn khi tranh chấp chính trị xen lẫn với tranh chấp giáo phái. Rào cản ngăn cách tranh chấp trong nước và nước ngoài không còn khi các quốc vương hậu thuẫn những phe phái đối địch trong các cuộc chiến tôn giáo nội bộ thường là đẫm máu ở các nước láng giềng của họ. Cải cách Tin Lành phá bỏ khái niệm về một trật tự thế giới được duy trì bởi “hai thanh kiếm” là Giáo hoàng và đế chế. Ki-tô giáo bị chia rẽ và thù địch với chính nó.

CHIẾN TRANH BA MƯƠI NĂM: TÍNH CHÍNH DANH LÀ GÌ?

Một thế kỷ những cuộc chiến tranh liên miên chứng kiến sự nổi lên và truyền bá sự phê phán của người theo Tin Lành đối với uy quyền của Giáo hội: cả Đế quốc Habsburg và Giáo hoàng đều tìm cách dập tắt sự thách thức này đối với quyền lực của mình, khiến những người theo đạo Tin Lành phản kháng nhằm bảo vệ đức tin mới của họ.

Sự hỗn loạn này lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn mà sau này được gọi là cuộc Chiến tranh Ba mươi năm (1618-1648). Khi Ferdinand – vị vua Thiên Chúa giáo thuộc triều đại Habsburg của Bohemia – nổi lên như ứng viên sáng giá nhất trong cuộc truyền ngôi sắp tới, giới quý tộc theo đạo Tin Lành ở Bohemia đã gắng thử hành động “thay đổi chế độ,” trao vương miện và quyền bỏ phiếu quyết định của họ cho một hoàng tử Đức theo đạo Tin Lành, một kết quả làm cho Đế quốc La Mã Thần thánh sẽ không còn là một tổ chức Thiên Chúa giáo. Các thế lực hoàng gia đã hành động để đè bẹp cuộc nổi loạn ở Bohemia và sau đó tranh thủ lợi thế này để trấn áp đạo Tin Lành nói chung, châm ngòi cho một cuộc chiến tranh tàn phá cả Trung Âu. (Các hoàng tử theo đạo Tin Lành thường ở phía bắc nước Đức, thời đó bao gồm nước Phổ tương đối nhỏ bé; khu trung tâm Thiên Chúa giáo là phía nam của Đức và Áo.)

Về lý thuyết, các hoàng thân Thiên Chúa giáo của Hoàng đế có nghĩa vụ phải đoàn kết để chống lại những dị giáo mới này. Tuy nhiên, khi phải đối mặt với lựa chọn giữa tinh thần hợp nhất và lợi thế chiến lược, không ít người đã lựa chọn vế thứ hai. Đứng đầu trong số họ là Pháp.

Thông thường trong giai đoạn biến động, một lãnh địa vẫn duy trì quyền cai trị sẽ ở vào vị thế lợi dụng tình trạng hỗn loạn tại các quốc gia lân cận cho những mục tiêu quốc tế lớn hơn. Một nhóm nhỏ những giáo sĩ Pháp thức thời và nhẫn tâm đã nhận thấy cơ hội của mình và quyết định hành động dứt khoát. Vương quốc Pháp tạo cho riêng mình một mô hình cai trị mới để bắt đầu quá trình hành động này. Trong những chế độ phong kiến, quyền cai trị là cá nhân; sự cai trị phản ánh ý chí của người cai trị nhưng cũng bị giới hạn bởi truyền thống, hạn chế các nguồn lực sẵn có cho những hành động quốc gia hoặc quốc tế của một đất nước. Tể tướng Pháp trong giai đoạn 1624-1642, Armand-Jean du Plessis – Hồng y Richelieu[32] – là chính khách đầu tiên khắc phục được những hạn chế này.

Là người trong giới tăng lữ chìm đắm trong những mưu đồ triều chính, Richelieu đã thích nghi hoàn toàn với giai đoạn biến động tôn giáo và những thể chế được thiết lập từ lâu đang dần sụp đổ. Là con út trong ba người con trai của một gia đình quý tộc nhỏ, ban đầu ông theo đuổi binh nghiệp, nhưng sau khi anh trai ông bất ngờ từ chức giám mục Luçon[33] vốn được coi là quyền lợi căn bản của gia đình, ông chuyển sang thần học. Tương truyền rằng Richelieu hoàn thành nghiên cứu tôn giáo của mình sớm tới mức ông ít tuổi hơn độ tuổi tối thiểu thông thường để được bổ nhiệm linh mục; và ông đã vượt qua rào cản này bằng cách đến La Mã và tự mình nói dối Đức Giáo hoàng về độ tuổi của mình. Khi đã có được ủy nhiệm thư, ông lao vào chính trị phe phái trong triều đình hoàng gia Pháp, ban đầu trở thành phụ tá thân cận cho Thái hậu Marie de Medici, và sau đó là cố vấn đáng tin cậy cho đối thủ chính trị chính, và cũng là con trai còn nhỏ của bà là Vua Louis XIII. Cả hai tỏ ra rất không tin tưởng vào Richelieu, nhưng do bị điêu đứng bởi những cuộc xung đột nội bộ với các tín đồ Tin Lành Huguenot[34] của Pháp, họ không thể chối bỏ tài năng thiên bẩm về chính trị và nghệ thuật cai trị của ông ta. Mưu đồ của giáo sĩ trẻ này giữa vị ấu vương và thái hậu đã mang lại cho ông sự tiến cử với La Mã để được trao chiếc mũ hồng y; và khi được ban chức ấy, ông trở thành thành viên cao cấp nhất trong Hội đồng Cơ mật của Nhà vua. Nắm vị trí này trong gần hai thập niên, “Đức Hồng y” (được gọi như vậy vì chiếc áo choàng màu đỏ dài lướt thướt của ông) đã trở thành tể tướng của Pháp – quyền lực chỉ sau ngai vàng – và là thiên tài nổi bật của một khái niệm mới về thuật trị quốc tập quyền và chính sách đối ngoại dựa trên sự cân bằng quyền lực.

Khi Richelieu thực hiện các chính sách trên đất nước mình, luận thuyết của Machiavelli[35] về thuật trị quốc đang được truyền bá. Không biết liệu Richelieu có thông thuộc luận thuyết về quyền lực trên quan điểm chính trị này hay không, nhưng chắc chắn ông đã thực hành các nguyên tắc căn bản của chúng. Richelieu xây dựng một phương pháp tiếp cận cấp tiến về trật tự quốc tế. Ông phát minh ra ý tưởng rằng nhà nước là một chủ thể trừu tượng và vĩnh viễn tồn tại theo đúng nghĩa của nó. Những yêu cầu của nhà nước được xác định không phải bởi nhân cách của người cai trị, lợi ích của gia tộc hay nhu cầu chung của tôn giáo. Kim chỉ nam của nó là lợi ích quốc gia theo những nguyên tắc đo đếm được, sau này được biết đến như là raison d’état[36]. Do đó nó phải là đơn vị cơ bản của các quan hệ quốc tế.

Richelieu trưng dụng nhà nước non trẻ này làm một công cụ của chính sách đối ngoại. Ông tập trung quyền lực ở Paris, đặt ra những vị trí gọi là tham biện hay ủy viên quản trị chuyên nghiệp để phóng chiếu thẩm quyền của chính phủ tới từng địa hạt của vương quốc, khiến việc thu các loại thuế trở nên hiệu quả, và quyết liệt thách thức chính quyền địa phương truyền thống của giới quý tộc cũ. Các vị vua vẫn tiếp tục thực thi vương quyền như biểu tượng của quốc gia có chủ quyền và là một biểu hiện của lợi ích quốc gia.

Richelieu nhận thấy tình trạng hỗn loạn ở Trung Âu không phải là lời hiệu triệu vũ trang để bảo vệ Giáo hội mà là một phương tiện để kiềm chế sự ưu trội của đế chế Habsburg. Mặc dù Vua Pháp đã được gọi là Rex Catholicissimus hay “Vua Thiên Chúa giáo Tối cao,” từ thế kỷ 14, Pháp ban đầu âm thầm sau đó công khai chuyển sang ủng hộ liên minh Tin Lành (của các hoàng thân Thụy Điển, Phổ và miền Bắc Đức) trên cơ sở lạnh lùng tính toán các lợi ích quốc gia.

Đối với những lời chỉ trích giận dữ rằng, là một hồng y, ông có bổn phận đối với Giáo hội Thiên Chúa giáo phổ quát và vĩnh cửu, ngụ ý một sự liên kết chống lại các hoàng thân theo đạo Tin Lành nổi loạn ở miền Bắc và Trung Âu, Richelieu nhắc đến bổn phận của mình là một bộ trưởng trong một thực thể chính trị thế tục dễ bị tổn thương. Sự cứu rỗi có thể là mục tiêu cá nhân của ông, nhưng là một chính khách ông chịu trách nhiệm đối với một thực thể chính trị không có linh hồn vĩnh cửu để mà cứu rỗi. Ông nói, “Con người là bất tử, sự cứu rỗi của anh ta đến sau đó. Nhà nước không bất tử, sự cứu rỗi của nó là bây giờ hoặc không bao giờ.”

Sự tan rã ở Trung Âu được Richelieu nhìn nhận như là điều cần thiết về chính trị và quân sự. Mối đe dọa cơ bản đối với Pháp mang tính chiến lược, mà chẳng phải siêu hình hay tôn giáo: một Trung Âu thống nhất sẽ ở vị thế thống trị phần còn lại của lục địa châu Âu. Vì vậy, lợi ích quốc gia của Pháp là phải ngăn chặn sự hợp nhất của Trung Âu: “Nếu phe [Tin Lành] đó bị tiêu diệt hoàn toàn, sức mạnh chủ lực của hoàng tộc Habsburg sẽ tấn công Pháp.” Bằng việc trợ giúp rất nhiều các quốc gia nhỏ ở Trung Âu và làm suy yếu nước Áo, Pháp đã đạt được mục tiêu chiến lược của mình.

Mưu đồ của Richelieu kéo dài suốt quá trình với những biến động lớn sau đó. Trong vòng hai thế kỷ rưỡi, từ khi Richelieu xuất hiện vào năm 1624 đến khi Thủ tướng Bismarck[37] tuyên bố thành lập Đế quốc Đức vào năm 1871, mục tiêu giữ cho Trung Âu (gồm các lãnh thổ của Đức, Áo và miền Bắc Italy thời đó) chia rẽ vẫn là nguyên tắc chỉ đạo trong chính sách đối ngoại của Pháp. Cho tới chừng nào khái niệm này còn là bản chất của trật tự châu Âu, Pháp vẫn là ưu việt ở lục địa này. Khi khái niệm này sụp đổ, vai trò thống trị của Pháp đã cùng chung số phận.

Ba kết luận có thể rút ra từ sự nghiệp của Richelieu. Thứ nhất, yếu tố không thể thiếu của một chính sách đối ngoại thành công là một khái niệm chiến lược dài hạn dựa trên sự phân tích cẩn thận tất cả các yếu tố liên quan. Thứ hai, chính khách phải cô đọng tầm nhìn đó bằng việc phân tích và định hình một chuỗi những áp lực mơ hồ, thường mâu thuẫn lẫn nhau thành một hướng đi mạch lạc, có mục đích. Ông ta phải biết chiến lược này sẽ dẫn đến đâu và vì sao. Và thứ ba, ông ta phải hành động bên ngoài giới hạn của điều có thể, thu hẹp khoảng cách giữa kinh nghiệm và tham vọng của xã hội mà ông ta sống. Bởi sự quen thuộc lặp đi lặp lại sẽ dẫn đến trì trệ và hầu như không cần đến một sự táo bạo nào.

HÒA ƯỚC WESTPHALIA

Trong thời đại chúng ta, Hòa ước Westphalia đã tạo ra một tiếng vang đặc biệt như sự mở đường cho một khái niệm mới về trật tự quốc tế mà đã lan rộng trên toàn thế giới. Thời điểm đó, các đại biểu nhóm họp để đàm phán, tập trung nhiều vào những cân nhắc về vị thế và nghi thức ngoại giao.

Khi các đại diện của Đế quốc La Mã Thần thánh và hai đối thủ chính của nó là Pháp và Thụy Điển đồng ý về nguyên tắc để triệu tập một hội nghị hòa bình, cuộc xung đột đã kéo dài hơn 23 năm. Giao tranh còn diễn ra thêm hai năm nữa, các phái đoàn đàm phán mới thực sự gặp gỡ nhau; trong thời gian đó, mỗi bên đều cố gắng củng cố đồng minh và các khu vực bầu cử trong nước.

Không giống các hiệp định lịch sử khác như Hội nghị thành Vienna[38] trong giai đoạn 1814-1815 hay Hòa ước Versailles[39] năm 1919, Hòa ước Westphalia không phải là kết quả của một cuộc họp duy nhất, và bối cảnh không phải như ta thường hình dung về việc nhóm họp của các chính khách suy ngẫm từng câu hỏi siêu nghiệm về trật tự thế giới. Do có nhiều địch thủ giao tranh trong một cuộc chiến trải dài từ Tây Ban Nha đến Thụy Điển, nên hòa bình đạt được thông qua một loạt thỏa thuận riêng rẽ diễn ra ở hai thị trấn khác nhau thuộc Westphalia. Các cường quốc Thiên Chúa giáo, trong đó có 178 đại biểu riêng biệt từ các quốc gia khác nhau trong Đế quốc La Mã Thần thánh, nhóm họp ở thành phố Thiên Chúa giáo Münster. Các cường quốc Tin Lành tập trung ở thành phố Osnabrück nơi mà theo cả Giáo hội Luther và Thiên Chúa giáo, cách đó khoảng 48 km. 235 phái viên chính thức và đội ngũ nhân viên của họ đã trú ở bất kỳ phòng nào họ có thể tìm thấy ở hai thị trấn nhỏ này, nơi chưa từng được coi là thích hợp cho một sự kiện quy mô lớn chứ chưa nói gì đến một hội nghị của tất cả các cường quốc châu Âu. Phái viên Thụy Sĩ “trú ngụ ở cửa hàng của một thợ dệt len, trong một căn phòng nồng nặc mùi xúc xích và dầu cá,” trong khi phái đoàn xứ Bavaria chỉ có 18 giường cho 29 thành viên của họ. Không có chủ tọa hay người điều phối hội nghị chính thức và không có những phiên họp toàn thể, các đại diện nhóm họp đột xuất và đi lại trong vùng trung lập giữa hai thị trấn để tìm kiếm thỏa hiệp, đôi khi gặp gỡ không chính thức tại các địa điểm ở giữa hai thị trấn này. Một số cường quốc cử đại diện có mặt ở cả hai thị trấn. Giao tranh vẫn tiếp tục ở những vùng khác nhau của châu Âu trong suốt các cuộc đàm phán, với tình hình chiến sự liên tục thay đổi tác động đến quá trình đàm phán.

Hầu hết các đại biểu đến dự đều mang theo những chỉ thị rất thực tế dựa trên lợi ích chiến lược. Trong khi họ sử dụng những cụm từ cao thượng gần như giống hệt nhau về việc đạt được một “nền hòa bình cho Ki-tô giáo,” quá nhiều máu đã đổ để thai nghén việc đạt được mục tiêu cao cả này thông qua sự thống nhất về tín lý hay chính trị. Giờ đây ai cũng cho là đương nhiên, hòa bình (nếu có) sẽ được xây dựng thông qua sự cân bằng các lực lượng đối địch.

Có lẽ Hòa ước Westphalia nổi lên từ những thảo luận phức tạp này là tài liệu ngoại giao được trích dẫn nhiều nhất trong lịch sử châu Âu, dù trên thực tế không hề có hiệp ước duy nhất nào để thể hiện các điều khoản của nó. Và các đại biểu cũng chưa từng nhóm họp trong một phiên họp toàn thể để phê chuẩn nó. Trên thực tế, Hòa ước là kết hợp của ba hiệp định bổ sung lẫn nhau được ký kết riêng biệt tại những thời điểm khác nhau ở các thị trấn khác nhau. Trong Hòa ước Münster tháng Một năm 1648, Tây Ban Nha công nhận nền độc lập của Cộng hòa Hà Lan, khép lại cuộc nổi dậy kéo dài 80 năm của người Hà Lan, cuộc nổi dậy đã hợp nhất với cuộc Chiến tranh Ba mươi năm. Tháng Mười năm 1648, các nhóm riêng biệt của các cường quốc đã ký Hòa ước Münster và Hòa ước Osnabrück, với những điều kiện tương tự nhau cũng như tham chiếu và hợp nhất những điều khoản chủ yếu.

Cả hai hòa ước quốc tế đa phương quan trọng này tuyên bố ý định là “một nền hòa bình và tình bằng hữu Ki-tô giáo, phổ quát, bất diệt, đích thực và chân thành” cho “vinh quang của Thiên Chúa và an ninh của Ki-tô giáo.” Các điều kiện có hiệu lực không khác biệt đáng kể so với những văn kiện khác của thời kỳ này. Tuy nhiên, những cách thức để đạt được hai hòa ước này là chưa từng có. Cuộc chiến tranh đã làm tan vỡ những kỳ vọng về tính phổ quát hay sự đoàn kết giải tội. Bắt đầu như là một cuộc đấu tranh của tín đồ Thiên Chúa giáo chống lại Tin Lành, nhất là sau khi Pháp đối đầu với Đế quốc La Mã Thần thánh theo Thiên Chúa giáo, cuộc chiến đã trở thành một cuộc hỗn chiến của những liên minh thường xuyên thay đổi và đối lập nhau. Cũng giống như những cuộc xung đột lớn ở Trung Đông trong thời đại chúng ta, những liên kết giáo phái được viện dẫn để đoàn kết và làm động lực trong trận chiến nhưng thường xuyên bị gạt bỏ bởi các xung đột lợi ích địa chính trị hoặc đơn giản là tham vọng của những nhân vật tên tuổi. Mỗi bên đã bị những đồng minh “đương nhiên” bỏ rơi tại một số thời điểm trong cuộc chiến; không bên nào ký vào những văn bản này mà không ảo tưởng rằng nó chẳng làm được bất kỳ điều gì ngoài việc thúc đẩy lợi ích và uy tín của họ.

Nghịch lý thay, sự mệt mỏi và yếm thế chung này cho phép các bên tham gia biến đổi những phương tiện thực tế để kết thúc một cuộc chiến tranh cụ thể thành những khái niệm chung về trật tự thế giới. Với hàng chục các bên dày dạn trận mạc nhóm họp để bảo vệ những lợi ích phải rất khó khăn mới giành được, những hình thức xưa cũ về quan hệ tôn ti cấp bậc bị lặng lẽ vứt bỏ. Sự bình đẳng vốn có giữa các quốc gia có chủ quyền được xây dựng, bất kể quyền lực hay hệ thống trong nước của các quốc gia này ra sao. Những cường quốc mới xuất hiện, chẳng hạn như Thụy Điển và Cộng hòa Hà Lan, đã được trao nghi thức ngoại giao ngang bằng với các siêu cường đã được thiết lập từ lâu như Pháp và Áo. Tất cả các vị vua được xưng tụng là “hoàng thượng” và tất cả các đại sứ là “quý ngài.” Khái niệm mới lạ này được đẩy đến mức mà các đoàn đại biểu khi yêu cầu sự bình đẳng tuyệt đối đã nghĩ ra một quy trình tiến đến địa điểm đàm phán qua các cửa ra vào riêng biệt (dẫn đến nhiều lối vào phải được xây dựng) và cùng tiến tới chỗ ngồi của mình ở tốc độ ngang nhau để không ai sẽ phải chịu đựng nỗi nhục chờ đợi người khác thong dong đến chỗ của họ.

Hòa ước Westphalia đã trở thành một bước ngoặt trong lịch sử của các quốc gia, vì những điều khoản mà hòa ước này thiết lập vừa đơn giản vừa có ảnh hưởng sâu rộng. Các quốc gia – chứ không phải đế chế, triều đại hay cộng đoàn tôn giáo – đã được xác định như một khối trật tự châu Âu đang hình thành. Khái niệm chủ quyền quốc gia được thiết lập. Quyền của mỗi bên ký kết về việc lựa chọn cấu trúc trong nước và định hướng tôn giáo mà không bị can thiệp đã được khẳng định, trong khi những điều khoản mới đảm bảo rằng các giáo phái thiểu số có thể thực hành đức tin của họ trong hòa bình và không còn ám ảnh về sự cải đạo bằng vũ lực. Vượt xa những nhu cầu trước mắt của thời điểm đó, các nguyên tắc của một hệ thống “quan hệ quốc tế” đang được định hình, được thúc đẩy bởi mong muốn chung nhằm tránh một sự tái diễn của chiến tranh tổng lực trên lục địa châu Âu. Trao đổi ngoại giao, bao gồm cả việc đồn trú của các đại diện thường trú ở các thủ đô của những quốc gia đồng cấp (một thông lệ mới chỉ được các bang thành Venice áp dụng thời đó), được thiết kế để điều chỉnh các mối quan hệ và thúc đẩy nghệ thuật hòa bình. Các bên tham gia ký kết đã hình dung về việc những hội nghị và tham vấn trong tương lai trên mô hình Hòa ước Westphalia sẽ là diễn đàn để giải quyết tranh chấp trước khi dẫn đến xung đột. Luật pháp quốc tế, được những nhà du thuyết như Hugo de Groot[40] (Grotius) xây dựng trong chiến tranh, được coi như phần mở rộng của học thuyết đã được đồng thuận nhắm tới việc gieo trồng sự hòa hợp, với trọng tâm là các hòa ước Westphalia.

Sự tài tình của hệ thống này và lý do nó lan ra toàn thế giới nằm ở chỗ các điều khoản của nó chỉ là hình thức chứ không phải thực chất. Nếu một quốc gia chấp nhận những yêu cầu cơ bản này, nó có thể được công nhận là một công dân quốc tế có thể duy trì văn hóa, chính trị, tôn giáo và chính sách nội bộ riêng của mình, được hệ thống quốc tế bảo vệ khỏi sự can thiệp từ bên ngoài. Lý tưởng về sự thống nhất đế quốc hay tôn giáo – tiền đề đang có hiệu lực của các trật tự lịch sử ở châu Âu và hầu hết các vùng khác – đã ngụ ý rằng, về mặt lý thuyết, chỉ có một trung tâm quyền lực mới có thể là hoàn toàn chính danh. Khái niệm của Hòa ước Westphalia lấy sự đa dạng như là điểm khởi đầu của nó và đã thu hút nhiều xã hội (mỗi xã hội được chấp nhận như hiện tồn) vào công cuộc tìm kiếm chung về trật tự. Cho tới giữa thế kỷ 20, hệ thống quốc tế này đã xuất hiện trên mọi lục địa; nó vẫn là rường cột của trật tự quốc tế như đang tồn tại hiện nay.

Hòa ước Westphalia không ủy nhiệm một sự sắp xếp cụ thể các liên minh hay một cơ cấu chính trị châu Âu lâu dài nào. Với sự chấm dứt của Giáo hội phổ quát như là nguồn tối thượng về tính chính danh và sự suy yếu của Hoàng đế La Mã Thần thánh, khái niệm trật tự châu Âu đã trở thành sự cân bằng quyền lực, mà theo định nghĩa bao gồm tính chất trung lập về tư tưởng và điều chỉnh đối với những hoàn cảnh đang tiến triển. Lord Palmerston[41] – chính khách thế kỷ 19 của Anh – trình bày nguyên tắc căn bản của nó như sau: “Chúng ta không có đồng minh vĩnh viễn và không có kẻ thù vĩnh viễn. Lợi ích của chúng ta là vĩnh viễn và bất diệt và những lợi ích này là nhiệm vụ chúng ta theo đuổi.” Khi được hỏi về việc xác định những lợi ích này theo cách cụ thể hơn dưới hình thức của một “chính sách ngoại giao” chính thức, người lèo lái được ca tụng của cường quốc Anh thú nhận, “Khi mọi người hỏi tôi… những gì được gọi là một chính sách, câu trả lời duy nhất là chúng tôi sẽ làm những gì có lẽ là tốt nhất dựa trên tình huống nó phát sinh, với lợi ích quốc gia là nguyên tắc chỉ đạo.” (Tất nhiên khái niệm tưởng như đơn giản này phù hợp với Anh một phần vì giai cấp cầm quyền của nước này đã được đào tạo trong một nhận thức chung, gần như trực giác về những gì là lợi ích vững bền của đất nước.)

Ngày nay, những khái niệm này của Hòa ước Westphalia thường bị bêu xấu như là một hệ thống thao túng quyền lực yếm thế, không hề quan tâm đến các yêu cầu về đạo đức. Tuy nhiên, cơ cấu được thiết lập trong Hòa ước Westphalia đại diện cho nỗ lực đầu tiên để thể chế hóa một trật tự quốc tế trên cơ sở các quy tắc và giới hạn được đồng thuận, căn cứ trên số đông các cường quốc hơn là sự thống trị của một quốc gia duy nhất. Những khái niệm về raison d’état (lợi ích quốc gia) lần đầu tiên xuất hiện, thể hiện không phải là một sự đề cao sức mạnh mà là nỗ lực để hợp lý hóa và hạn chế sử dụng nó. Quân đội đã tuần hành trên khắp châu Âu trong nhiều thế hệ dưới ngọn cờ của những tuyên bố đạo đức phổ quát (và mâu thuẫn nhau); các nhà tiên tri và những kẻ chinh phạt đã gây ra chiến tranh tổng lực trong việc theo đuổi những tham vọng cá nhân xen lẫn những tham vọng về triều đại, đế chế và tôn giáo. Sự ăn khớp có tính logic về mặt lý thuyết và có thể tiên liệu được về những lợi ích quốc gia được dự kiến khắc phục những hỗn loạn đang diễn ra khắp nơi trên lục địa châu Âu. Những cuộc chiến tranh có giới hạn trên các vấn đề có thể tính toán được sẽ thay thế thời đại của những thuyết phổ độ mâu thuẫn nhau, với sự trục xuất và cải đạo bắt buộc của nó và cuộc chiến tranh không giới hạn làm thiệt hại vô số nhân mạng.

Với tất cả sự mơ hồ của nó, cân bằng quyền lực được cho là bước tiến bộ so với những đòi hỏi khắt khe của các cuộc chiến tranh tôn giáo. Nhưng cân bằng quyền lực sẽ được thiết lập như thế nào? Về lý thuyết, nó được dựa trên thực tiễn; do đó mỗi bên tham gia sẽ nhìn nhận nó tương tự nhau. Nhưng nhận thức của mỗi xã hội đều bị ảnh hưởng bởi cấu trúc trong nước, văn hóa và lịch sử của nó và bởi thực tế quan trọng rằng các yếu tố của quyền lực dù khách quan đến đâu vẫn luôn thay đổi liên tục không ngừng. Do đó cân bằng quyền lực cần phải được hiệu chỉnh lại theo thời gian. Nó dẫn đến những cuộc chiến tranh mà quy mô của chúng cũng bị nó giới hạn.

SỰ VẬN HÀNH CỦA HỆ THỐNG THEO HÒA ƯỚC WESTPHALIA

Với Hòa ước Westphalia, Giáo hoàng đã bị giới hạn trong các chức năng thuộc về Giáo hội và học thuyết về bình đẳng chủ quyền trở nên thịnh hành. Khi đó, lý thuyết chính trị nào có thể giải thích được nguồn gốc và biện minh cho các chức năng của trật tự chính trị thế tục? Nhà triết học nổi tiếng người Anh Thomas Hobbes[42] đã đưa ra một lý thuyết như thế trong cuốn Leviathan của ông được xuất bản năm 1651, ba năm sau Hòa ước Westphalia. Ông hình dung một “trạng thái tự nhiên” trong quá khứ khi chưa có chính quyền đã dẫn đến một “cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả.” Để thoát khỏi sự bất an không thể chấp nhận như vậy, ông đưa ra giả thuyết rằng mọi người sẽ giao quyền của họ cho một quyền lực tối cao để đổi lấy sự an toàn do người cầm quyền tối cao mang lại cho tất cả những ai bên trong biên giới quốc gia. Độc quyền về quyền lực của nhà nước có chủ quyền được thiết lập như là cách duy nhất để vượt qua nỗi sợ không ngừng về chết chóc, bạo lực và chiến tranh.

Khế ước xã hội này trong phân tích của Hobbes không áp dụng ở bên ngoài biên giới các quốc gia, vì không có chủ thể siêu quốc gia nào tồn tại để áp đặt trật tự. Do đó:

Liên quan đến nhiệm vụ của một thực thể quốc gia đối với thực thể khác được bao hàm trong luật mà thường được gọi là luật quốc tế, tôi không cần phải nói bất kỳ điều gì ở đây bởi vì luật quốc tế và luật tự nhiên là như nhau. Và mỗi thực thể quốc gia đều có quyền như nhau trong hành động theo đuổi sự an toàn cho người dân của mình, mà bất kỳ cá nhân nào cũng có thể có, trong việc mua sự an toàn của chính bản thân mình.

Đấu trường quốc tế vẫn ở trong trạng thái tự nhiên và hỗn loạn bởi không có một chủ quyền tầm cỡ thế giới nào tồn tại để đảm bảo cho sự an toàn của nó, và cũng không có chủ quyền nào như vậy có thể được hình thành trên thực tế. Vì vậy, mỗi nhà nước sẽ phải đặt lợi ích quốc gia của mình lên trên hết trong một thế giới mà quyền lực là yếu tố tối quan trọng. Hồng y Richelieu có lẽ cũng sẽ rất tán đồng điều này.

Hòa ước Westphalia trong những ngày đầu được áp dụng đã hàm ý về một thế giới theo triết lý chính trị của Hobbes. Sự cân bằng quyền lực mới này sẽ được hiệu chuẩn như thế nào? Cần có sự phân biệt giữa cân bằng quyền lực như là một thực tế và cân bằng quyền lực như là một hệ thống. Bất kỳ trật tự quốc tế nào để được xứng đáng với cái tên này không sớm thì muộn phải đạt được một trạng thái cân bằng, nếu không nó sẽ rơi vào trạng thái chiến tranh liên miên. Do thế giới thời Trung cổ gồm hàng chục công quốc, nên đúng là có một sự cân bằng quyền lực thường xuyên tồn tại trên thực tế. Sau Hòa ước Westphalia, sự cân bằng quyền lực này xuất hiện như là một hệ thống; nghĩa là, các quyền lực được cân bằng được chấp nhận như là một trong những mục đích chính trong chính sách đối ngoại; phá vỡ sự cân bằng này sẽ dẫn đến hình thành một liên minh nhân danh trạng thái cân bằng.

Đầu thế kỷ 18, sự nổi lên của Anh như là một đại cường quốc hải quân khiến nước này có thể biến các dữ kiện thực tế của sự cân bằng quyền lực này thành một hệ thống. Việc nắm quyền kiểm soát các vùng biển cho phép Anh tính toán thời điểm và quy mô của mình khi đóng vai trò ở lục địa châu Âu như là trọng tài của cán cân quyền lực, và thực sự là nước bảo đảm rằng châu Âu hẳn phải có một sự cân bằng quyền lực. Do đó, chừng nào mà Anh còn đánh giá chính xác các yêu cầu chiến lược của mình, nó sẽ vẫn có thể bảo vệ bên yếu hơn ở lục địa châu Âu chống lại bên mạnh hơn, ngăn ngừa bất kỳ quốc gia duy nhất nào đạt được vị thế bá quyền ở châu Âu, và từ đó huy động các nguồn lực của lục địa châu Âu để thách thức quyền kiểm soát các vùng biển của Anh. Cho đến khi Thế chiến I bùng nổ, nước Anh đã hành động như nước tạo thế cân bằng của trạng thái cân bằng. Họ phải chiến đấu trong các cuộc chiến ở châu Âu nhưng với những liên minh khác nhau, không vì theo đuổi những mục tiêu quốc gia cụ thể thuần túy mà bằng cách xác định lợi ích quốc gia đó là duy trì sự cân bằng quyền lực. Nhiều trong số những nguyên tắc này cũng áp dụng đối với vai trò của Mỹ trong thế giới đương đại, như sẽ được thảo luận về sau.

Trên thực tế có hai sự cân bằng quyền lực diễn ra ở châu Âu sau dàn xếp của Hòa ước Westphalia: Cân bằng tổng thể, trong đó nước Anh hành động như một người giám hộ và là người bảo vệ sự ổn định chung. Cân bằng Trung Âu về cơ bản do Pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn sự nổi lên của một nước Đức thống nhất ở vị thế quốc gia hùng mạnh nhất trên lục địa châu Âu. Trong hơn 200 năm, những cân bằng quyền lực này giữ châu Âu không bị xé thành nhiều mảnh như thời kỳ Chiến tranh Ba mươi năm; chúng không thể ngăn cản chiến tranh nhưng đã hạn chế tác động của nó, vì mục tiêu là trạng thái cân bằng chứ hoàn toàn không phải sự chinh phục.

Sự cân bằng quyền lực này có thể bị thử thách ít nhất là theo hai cách: Cách thứ nhất là khi một nước lớn củng cố sức mạnh của mình tới một ngưỡng đe dọa đoạt bá quyền. Cách thứ hai xảy ra khi một nước từ trước đến nay vẫn là thứ yếu tìm cách được đứng vào hàng ngũ của những đại cường quốc và bắt đầu yêu cầu các cường quốc khác phải thi hành một loạt những điều chỉnh bù trừ với các quốc gia khác cho đến khi một cân bằng mới được thiết lập, hoặc một xung đột lớn diễn ra. Trong thế kỷ 18, hệ thống theo Hòa ước Westphalia vượt qua được cả hai thách thức này, đầu tiên bằng việc ngăn cản cuộc tấn công để đoạt bá quyền của Vua Louis XIV[43] của Pháp, và sau đó bằng việc điều chỉnh hệ thống theo sự nhất quyết đòi vị thế bình đẳng của Friederick Đại đế[44] ở nước Phổ.

Năm 1661, Vua Louis XIV đã kiểm soát toàn bộ hoàng gia Pháp và khai triển khái niệm trị quốc của Richelieu tới mức chưa từng thấy. Trong quá khứ, vị vua Pháp này đã cai trị thông qua các lãnh chúa phong kiến với quyền tự trị riêng của họ theo chế độ “cha truyền con nối.” Louis cai trị thông qua một bộ máy hành chính hoàng gia phụ thuộc hoàn toàn vào ông ta. Ông hạ cấp những cận thần có dòng máu cao quý và nâng cấp quý tộc cho các viên chức triều đình. Điều được xét đến ở đây là công lao phụng sự nhà vua chứ không phải dòng dõi xuất thân. Bộ trưởng Tài chính xuất sắc Jean-Baptiste Colbert – con trai của một người bán vải tỉnh lị – được trao quyền thống nhất hệ thống quản lý thuế và tài trợ chiến tranh liên miên. Trong hồi ký của Saint-Simon – một công tước cha truyền con nối và là một bậc văn sĩ – có chứa đựng những lời cay đắng về sự biến đổi xã hội này:

Ông ta [Louis] nhận thức rõ rằng: dù khi không hài lòng, ông ta có thể nghiền nát một nhà quý tộc nhưng không thể tiêu diệt người đó hay dòng dõi của người đó, trong khi một ngoại trưởng hay các bộ trưởng khác tương tự có thể bị hạ cấp cùng với toàn bộ gia đình xuống tới sự vô giá trị tận cùng mà ông ta đã nâng họ lên từ đó. Khi đó, bất kỳ sự giàu có hay lượng của cải nào cũng không thể giúp ích gì được họ. Đó cũng là một lý do vì sao ông ta thường trao quyền cho các bộ trưởng hơn là cho những người dòng dõi nhất ở vương quốc và thậm chí kể cả các hoàng tử hay hoàng thân.

Năm 1680, Louis nâng bản chất sự cai trị rộng lớn của mình thành biểu tượng khi đặt danh hiệu “Đại đế” đi cùng với danh hiệu tự xưng trước đó của ông là “Vua Mặt trời.” Năm 1682, các lãnh thổ khu vực Bắc Mỹ của Pháp được đặt tên là “Louisiana.” Cùng năm đó, triều đình của Vua Louis chuyển đến điện Versailles, nơi nhà vua giám sát kỹ lưỡng việc xây dựng một “rạp hát hoàng gia” mà trên hết dành riêng cho việc thể hiện sự uy nghiêm của ông.

Với một vương quốc thống nhất không bị tàn phá bởi nội chiến, sở hữu một bộ máy hành chính chuyên nghiệp và một quân đội vượt trội hơn bất kỳ nước láng giềng nào, trong một giai đoạn ngắn ngủi, Pháp ở vị thế có thể kiếm tìm sự thống trị ở châu Âu. Triều đại của Vua Louis kiên quyết tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh gần như liên tục. Cuối cùng, như với trường hợp của tất cả những nước sau này có tham vọng trở thành bá chủ châu Âu, mỗi cuộc chinh phục mới lại dẫn đến sự liên kết hình thành một liên minh các quốc gia đối lập. Ban đầu, các tướng của Vua Louis thắng trận ở khắp nơi; nhưng rốt cuộc, họ bị đánh bại hoặc khống chế ở khắp nơi, đáng chú ý nhất là trong 10 năm đầu tiên của thế kỷ 18 bởi John Churchill[45], người sau này là Công tước xứ Marlborough và là ông tổ mấy đời của vị Thủ tướng vĩ đại thế kỷ 20 Winston Churchill. Quân đoàn của Vua Louis đã không thể vượt qua sự kháng cự cơ bản của hệ thống theo Hòa ước Westphalia.

Nhiều thập kỷ sau cái chết của Richelieu, tính hiệu quả được chứng minh về một quốc gia thống nhất và tập quyền khi theo đuổi một chính sách ngoại giao thế tục cùng sự cai trị tập trung đã truyền cảm hứng cho nhiều nước cùng noi theo để đối trọng với cường quốc Pháp. Anh, Hà Lan, và Áo hình thành Đại Liên minh, sau này có thêm sự tham gia của Tây Ban Nha, Phổ, Đan Mạch và một vài công quốc Đức. Theo bản chất, sự đối lập với Vua Louis không phải là ý thức hệ hay tôn giáo: tiếng Pháp vẫn là ngôn ngữ của ngoại giao và văn hóa đẳng cấp trên hầu hết châu Âu, và sự chia rẽ giữa Thiên Chúa giáo và Tin Lành diễn ra hầu khắp trong phe đồng minh. Thay vào đó, sự đối lập này là cố hữu trong hệ thống theo Hòa ước Westphalia và không thể thiếu để duy trì tính đa nguyên trong trật tự châu Âu. Bản chất của nó được xác định bằng cái tên mà các nhà quan sát thời đó đặt ra: Đại Ổn định. Vua Louis kiếm tìm những điều chẳng khác gì bá quyền dưới danh nghĩa vinh quang của Pháp. Ông đã bị đánh bại bởi một châu Âu tìm kiếm một trật tự trong tính đa dạng.

Nửa đầu thế kỷ 18 đã bị thống trị bởi khát khao kiềm tỏa Pháp; nửa sau thế kỷ này được định hình bởi nỗ lực của nước Phổ nhằm tìm kiếm một vị trí giữa các đại cường quốc. Bất kỳ nơi nào Vua Louis đã chiến đấu để chuyển quyền lực thành bá quyền, thì nơi đó Vua Frederick II của nước Phổ cũng chiến đấu để chuyển biến điểm yếu tiềm tàng thành vị thế đại cường quốc. Nằm trên đồng bằng miền Bắc Đức khắc nghiệt và trải dài từ sông Vistula[46] ra toàn nước Đức, nước Phổ gây dựng, khai thác tính kỷ luật và dịch vụ công để thay thế cho dân số và nguồn lực lớn hơn của những nước được trời phú. Chia thành hai phần không liền kề nhau, nước này lao đao khi rơi vào vùng ảnh hưởng của Áo, Thụy Điển, Nga, và Ba Lan. Dân cư tương đối thưa thớt; sức mạnh của nước này là tính kỷ luật mà nhờ đó nó có thể huy động nguồn lực hạn chế của mình. Tài sản lớn nhất của nước này là ý thức công dân, một bộ máy hành chính hiệu quả và một đội quân được huấn luyện tốt.

Khi Frederick II lên ngôi năm 1740, ông dường như là ứng viên không ngờ đối với sự vĩ đại mà lịch sử đã ban cho ông. Nhận thấy địa vị thái tử phải tuân thủ kỷ luật quá khắt khe, ông đã cố chạy trốn sang Anh cùng với một người bạn tên là Hans Hermann von Katte. Hai người bị bắt. Nhà vua ra lệnh chặt đầu von Katte ngay trước mặt Frederick, sau khi đưa ra một tòa án quân sự do chính Nhà vua đứng đầu. Nhà vua chất vấn con trai mình bằng 178 câu hỏi mà Frederick đã trả lời khôn khéo tới mức được vua cha phục chức.

Frederick sống sót qua lần trải nghiệm sinh tử này chỉ có thể bằng cách áp dụng tinh thần trách nhiệm khắc khổ của vua cha và hình thành một thái độ bất tín xã hội nói chung đối với đồng loại. Frederick cho rằng quyền cá nhân của mình là tuyệt đối, nhưng các chính sách của ông bị bó cứng trong khuôn khổ các nguyên tắc raison d’état (lợi ích quốc gia) mà Richelieu đã đề ra từ một thế kỷ trước đó. Cương lĩnh của ông cho rằng “Những người cai trị là nô lệ cho các nguồn lực của họ, lợi ích quốc gia là luật của họ và luật này bất khả xâm phạm.” Dũng cảm và lãng tử (Frederick nói và viết bằng tiếng Pháp, sáng tác những bài thơ tình lãng mạn bằng tiếng Pháp ngay cả khi đang trong các chiến dịch quân sự, đặt phụ đề cho một trong những tác phẩm văn chương của mình là “Pas mal trop pour la veille d’une grande bataille” (Không quá tệ trước một trận đấu lớn), ông là hiện thân cho thời đại mới về quản lý nhà nước Khai sáng qua chế độ độc tài nhân từ, có được sự chính danh nhờ tính hiệu quả của nó chứ không phải do ý thức hệ.

Frederick kết luận rằng vị thế đại cường quốc đòi hỏi sự liên tục về lãnh thổ đối với nước Phổ và sau đó là bành trướng. Không cần thiết phải có bất kỳ biện minh chính trị hay đạo đức nào khác. “Tính ưu việt của quân đội của chúng ta, tính sẵn sàng hành động mà nhờ đó chúng ta có thể đưa quân vào chiến đấu ngay, nói tóm lại, lợi thế hiển nhiên mà chúng ta hơn hẳn các nước láng giềng của chúng ta” là tất cả sự biện minh mà Frederick cần đến để thôn tính tỉnh Silesia giàu có và giàu truyền thống của nước Áo vào năm 1740. Xử lý vấn đề này như một vấn đề địa chính trị chứ không phải vấn đề hợp pháp hay đạo đức, Frederick tự sánh mình với Pháp (quốc gia coi Phổ như một đối trọng với Áo) và giữ lại Silesia trong đàm phán hòa bình năm 1742, tăng gần gấp đôi lãnh thổ và dân số của nước Phổ.

Trong quá trình này, Frederick đã mang khói lửa chiến tranh trở lại hệ thống Âu châu vốn vẫn tồn tại trong hòa bình kể từ năm 1713 khi Hiệp ước Utrecht đặt dấu chấm hết cho tham vọng của Vua Louis XIV. Thách thức này đối với sự cân bằng quyền lực được thiết lập từ lâu khiến hệ thống theo Hòa ước Westphalia phải bắt đầu hoạt động. Cái giá để được thừa nhận là một thành viên mới vào trật tự Âu châu hóa ra là bảy năm chiến tranh thảm khốc. Giờ đây các liên minh bị đảo ngược, khi mà các đồng minh trước đây của Frederick tìm cách dập tắt các chiến dịch của ông ta, còn các địch thủ của họ thì nỗ lực khai thác lực lượng chiến đấu kỷ luật của nước Phổ cho mục đích riêng của mình. Xa xôi và bí ẩn, Nga lần đầu tiên bước vào một cuộc chiến vì sự cân bằng quyền lực ở châu Âu. Khi quân đội Nga đã ở ngay trước cửa ngõ của Berlin, Frederick đang mấp mé bên bờ chiến bại đã được cứu thoát vì Nữ Sa hoàng Elizabeth của Nga đột ngột băng hà. Là người hâm mộ Frederick từ lâu, vị Sa hoàng mới lên ngôi đã rút khỏi cuộc chiến. (Khi bị vây hãm ở Berlin tháng Tư năm 1945, Hitler mong đợi một sự kiện tương tự có thể so với cái gọi là Phép màu của Gia tộc Brandenburg[47], và được Joseph Goebbels[48] thông báo rằng điều đó đã xảy ra bởi Tổng thống Franklin D. Roosevelt từ trần.)

Đế quốc La Mã Thần thánh chỉ còn là cái mã bên ngoài, không một quốc gia kình địch nào ở châu Âu đứng lên đòi quyền lực tối thượng. Hầu như tất cả những người trị vì khẳng định rằng họ cai trị bởi quyền thần thánh, một tuyên bố không bị bất kỳ đại cường quốc nào thách thức, nhưng họ chấp nhận rằng Thiên Chúa cũng ban cho nhiều vị vua khác điều tương tự. Do đó, các cuộc chiến tranh chỉ xảy ra vì những mục tiêu lãnh thổ hạn chế, không nhằm lật đổ những chính phủ và tổ chức hiện có và cũng không phải để áp đặt một hệ thống mới trong quan hệ giữa các quốc gia. Truyền thống đã ngăn cản những người trị vì cưỡng ép thần dân của họ đi lính cũng như hạn chế việc tăng thuế. Tác động của những cuộc chiến này lên dân số không là gì khi so với nỗi kinh hoàng của cuộc Chiến tranh Ba mươi năm hay những gì mà công nghệ và ý thức hệ gây ra hai thế kỷ sau đó. Trong thế kỷ 18, sự cân bằng quyền lực vận hành như một sân khấu mà ở đó “cuộc sống và giá trị được phô bày giữa những nét tráng lệ, tao nhã, hào hoa và khuếch trương lòng tự tin tuyệt đối.” Sự vận hành quyền lực đó bị kiềm chế bởi nhận thức rằng hệ thống này sẽ không dung tha cho những khát vọng bá quyền.

Những trật tự quốc tế ổn định nhất có lợi thế về nhận thức đồng nhất. Các chính khách điều hành trật tự Âu châu ở thế kỷ 18 là những nhà quý tộc diễn giải những khái niệm trừu tượng như danh dự và nghĩa vụ theo cùng một cách và nhất trí về những điều căn bản. Họ đại diện cho một xã hội tinh hoa duy nhất nói cùng một ngôn ngữ (tiếng Pháp), thường đến các salon[49] và theo đuổi những mối quan hệ lãng mạn ở các thủ đô của nhau. Tất nhiên, các lợi ích quốc gia là khác nhau, nhưng trong một thế giới mà một ngoại trưởng có thể phục vụ một quốc vương khác quốc tịch (cho đến năm 1820, tất cả các ngoại trưởng của Nga đều được tuyển dụng từ nước ngoài), hoặc khi một lãnh thổ có thể thay đổi liên minh quốc gia của nó vì một hiệp ước hôn nhân hoặc một sự thừa kế ngẫu nhiên, sẽ luôn có một cảm giác giống nhau bao trùm. Những tính toán quyền lực trong thế kỷ 18 diễn ra trong bối cảnh tốt đẹp này của một ý thức chung về tính chính danh và những quy tắc bất thành văn trong ứng xử quốc tế.

Sự đồng thuận này không chỉ là vấn đề xã giao; nó phản ánh những niềm tin tinh thần vững chắc về một triển vọng chung châu Âu. Châu Âu chưa bao giờ từng đoàn kết hay tự giác hơn trong giai đoạn được nhìn nhận là Thời kỳ Khai sáng này. Những thành tựu mới về khoa học và triết học bắt đầu thay thế những điều từng được đoan chắc về truyền thống và đức tin đang bị rạn nứt của châu Âu. Sự tiến bộ nhanh chóng về trí tuệ trên nhiều lĩnh vực – vật lý, hóa học, thiên văn học, lịch sử, khảo cổ học, vẽ bản đồ, lý luận – thúc đẩy một tinh thần khai sáng thế tục mới cho rằng sự khám phá tất cả các cơ chế tiềm tàng trong tự nhiên sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian. “Hệ thống thực sự của thế giới này đã được công nhận, phát triển và hoàn thiện,” nhà bác học xuất chúng người Pháp Jean Le Rond d’Alembert đã thể hiện tinh thần của thời đại khi viết những dòng sau vào năm 1759:

Tóm lại, từ Trái đất tới sao Thổ, từ lịch sử các thiên thể tới lịch sử các loài côn trùng, triết học tự nhiên đã được cách mạng hóa; và gần như tất cả các lĩnh vực kiến thức khác đã khoác lên mình những hình thức mới… Sự phát hiện và ứng dụng một phương pháp lập luận triết học mới, kiểu nhiệt tình đi cùng với những khám phá, niềm vui sướng với những ý tưởng mà cảnh tượng vũ trụ bao la tạo ra trong chúng ta, tất cả những nguyên nhân này đã mang đến một sự sục sôi tâm trí sống động. Như một dòng sông bị vỡ đập, nước tràn về mọi hướng, sự sục sôi này đã cuốn đi tất cả mọi thứ cản đường nó với chút bạo lực.

Bản thân sự “sục sôi” này dựa trên một tinh thần phân tích mới và sự kiểm nghiệm chặt chẽ tất cả các giả thuyết. Trong một nỗ lực được biến thành biểu tượng bởi 28 tập Bách khoa Toàn thư mà d’Alembert đồng chủ biên trong khoảng thời gian từ năm 1751 đến năm 1772, việc thăm dò và hệ thống hóa tất cả các kiến thức cho thấy một vũ trụ phi thần thánh hóa mà con người có thể nhận thức được với tư cách nhân vật trung tâm và là người diễn giải vũ trụ. Denis Diderot – đồng nghiệp của d’Alembert – viết rằng kiến thức phi thường sẽ được kết hợp với “nhiệt huyết vì lợi ích cao nhất của loài người.” Sự hữu lý sẽ đối đầu với sự giả dối bằng những “nguyên tắc cứng rắn [để] làm nền tảng cho những sự thật hoàn toàn ngược lại,” theo đó “chúng ta sẽ có thể làm sụp đổ toàn bộ kiến trúc bảo thủ, lạc hậu và vứt bỏ đống bụi vu vơ, không căn cứ” và thay vào đó là “đưa con người đi đúng hướng.”

Chắc chắn, cách tư duy và phân tích mới này được áp dụng cho các khái niệm về quản lý nhà nước, tính chính danh chính trị và trật tự quốc tế. Nam tước xứ Montesquieu[50] và là nhà triết học chính trị Charles-Louis de Secondat áp dụng các nguyên tắc của sự cân bằng quyền lực vào chính sách đối nội bằng cách miêu tả một khái niệm kiểm soát và cân bằng mà sau này được thể chế hóa trong Hiến pháp Mỹ. Ông tiếp tục phát triển quan điểm đó thành một triết lý về lịch sử và về các cơ chế thay đổi xã hội. Nghiên cứu lịch sử của nhiều xã hội khác nhau, Montesquieu kết luận rằng các sự kiện không bao giờ diễn ra ngẫu nhiên. Luôn luôn có một căn nguyên sâu xa mà sự hữu lý có thể tìm ra và sau đó định hình thành lợi ích chung:

Không phải là sự giàu có cai trị thế giới… Có những nguyên nhân dễ hiểu mang tính quy luật tự nhiên trong mọi chế độ quân chủ dẫn đến sự trỗi dậy, duy trì và sụp đổ của nó. Tất cả những điều [có vẻ] ngẫu nhiên tuân theo những nguyên nhân này, và bất kỳ khi nào một trận chiến xảy ra ngẫu nhiên, nghĩa là một nguyên nhân cụ thể, xóa sổ một quốc gia, đồng thời một nguyên nhân chung cũng tồn tại dẫn đến sự sụp đổ của quốc gia đó như là hậu quả của một trận chiến duy nhất. Tóm lại, chính nhịp độ tiến triển chung của mọi thứ đã kéo theo tất cả các sự kiện đặc biệt cùng với nó.

Là nhà triết học vĩ đại nhất của thời kỳ Khai sáng, Immanuel Kant[51] đã đi xa hơn Montesquieu một bước nữa khi phát triển khái niệm về một trật tự thế giới hòa bình mãi mãi. Từ cố đô Königsberg của nước Phổ, ông suy ngẫm về thế giới, chú tâm vào những giai đoạn cuộc Chiến tranh Bảy năm, Chiến tranh Cách mạng Mỹ và cuộc Cách mạng Pháp, để nhìn thấy trong cuộc biến động chung những khởi đầu mong manh của một trật tự quốc tế mới, hòa bình hơn.

Kant lý luận: nhân loại được đặc trưng bởi một “tính hòa đồng phi xã hội”, “tuy nhiên, xu hướng đến với nhau trong cùng một xã hội luôn đi kèm với nó là một sự kháng cự liên tục luôn đe dọa phá tung xã hội này.” Vấn đề về trật tự, nhất là trật tự quốc tế, là vấn đề “khó khăn nhất và có thể được loài người giải đáp sau cùng.” Con người thành lập các nhà nước để giới hạn những cảm xúc mạnh mẽ của họ, nhưng cũng giống như các cá thể trong trạng thái tự nhiên, mỗi nhà nước tìm cách bảo vệ tình trạng tự do tuyệt đối của nó, thậm chí phải trả cái giá bị mang danh “một nhà nước tàn bạo, vô luật.” Nhưng “sự tàn phá, biến động, và thậm chí tình trạng kiệt sức hoàn toàn bên trong của các cường quốc” nảy sinh từ những cuộc đụng độ giữa các nước theo thời gian sẽ bắt buộc con người suy ngẫm về một giải pháp thay thế. Nhân loại phải đối mặt với hoặc nền hòa bình của “một nghĩa địa khổng lồ của loài người” hoặc nền hòa bình dựa trên bản thiết kế hữu lý.

Kant kết luận: Câu trả lời là một liên bang tự nguyện của các nền cộng hòa cam kết về hành vi nội bộ và quốc tế minh bạch, không thù địch. Không giống như những kẻ cai trị chuyên chế, các công dân của họ sẽ vun đắp hòa bình, vì khi xem xét hành động chiến tranh, họ sẽ cân nhắc về “việc bản thân mình phải gánh chịu tất cả những khổ đau của chiến tranh.” Qua thời gian, những điểm hấp dẫn của khế ước này sẽ trở nên rõ ràng, mở đường hướng tới sự mở rộng dần dần của nó thành một trật tự thế giới hòa bình. Mục đích của Tự nhiên là nhân loại theo lý trí rốt cuộc sẽ hướng về “một hệ thống quyền lực thống nhất, do đó là một hệ thống quốc tế về an ninh chính trị chung” và “một kết hợp dân sự hoàn hảo của nhân loại.”

Sự tự tin gần như xấc xược vào quyền năng của lý trí phần nào phản ánh một hình thái mà người Hy Lạp gọi là ngạo mạn, một kiểu tinh thần tự hào mang sẵn trong mình những hạt giống của sự hủy diệt. Các nhà triết học thời kỳ Khai sáng bỏ qua một vấn đề chính: Liệu những trật tự chính phủ được các nhà tư tưởng thiết kế từ con số không, hay là một phạm vi lựa chọn bị những thực tại và văn hóa căn bản hạn chế (quan điểm của Burke)? Liệu có một khái niệm và cơ chế duy nhất thống nhất logic tất cả mọi thứ, theo cách mà có thể được phát hiện và diễn giải (như d’Alembert và Montesquieu đã lập luận), hay là thế giới quá phức tạp và nhân loại quá đa dạng tới mức không thể chỉ tiếp cận logic những câu hỏi này mà phải cần đến một kiểu trực giác và một yếu tố gần như bí truyền về thuật trị quốc?

Các nhà triết học Khai sáng ở lục địa châu Âu thường chọn chủ nghĩa duy lý hơn là quan điểm hữu cơ của tiến trình chính trị. Trong tiến trình đó, một cách không chủ ý và trên thực tế ngược hẳn với chủ định của mình, họ đã góp phần tạo ra một biến động đã giằng xé châu Âu trong nhiều thập kỷ và hậu quả của nó vẫn còn cho đến ngày nay.

CÁCH MẠNG PHÁP VÀ HẬU QUẢ CỦA NÓ

Các cuộc cách mạng là đáng lo ngại nhất khi gần như là không thể được đoán trước. Tương tự như vậy với cuộc Cách mạng Pháp, cuộc cách mạng tuyên bố một trật tự trong nước và thế giới khác với hệ thống theo Hòa ước Westphalia như nó đáng lẽ phải vậy. Từ bỏ sự tách biệt giữa chính sách đối nội và đối ngoại, nó làm sống lại – và có lẽ phóng đại lên – những cảm xúc mạnh mẽ của cuộc Chiến tranh Ba mươi năm, một cuộc thập tự chinh thế tục thay cho sự thôi thúc tôn giáo của thế kỷ 17. Nó cho thấy những thay đổi nội bộ trong các xã hội có thể làm rung chuyển trạng thái cân bằng quốc tế sâu sắc hơn một cuộc xâm lược từ nước ngoài như thế nào, một bài học có thể được rút ra từ những biến động của thế kỷ 20, nhiều trong số đó được rút ra rõ ràng từ những khái niệm mà thoạt đầu đã được Cách mạng Pháp thúc đẩy.

Những cuộc cách mạng nổ ra khi hàng loạt những nỗi oán hận thường là khác nhau hợp nhất lại để tấn công một chế độ không phòng bị. Liên minh cách mạng càng rộng lớn, khả năng phá hủy các mô hình quyền lực hiện có của nó càng lớn. Nhưng thay đổi càng sâu rộng càng cần nhiều bạo lực để tái thiết quyền lực mà thiếu nó xã hội sẽ tan rã. Sự ngự trị của nỗi khiếp sợ không phải là ngẫu nhiên mà là cố hữu trong phạm trù cách mạng.

Cuộc Cách mạng Pháp xảy ra ở quốc gia giàu có nhất của châu Âu, dù chính phủ nước này lúc đó đang tạm thời bị phá sản. Sự thúc đẩy ban đầu của nó có thể truy nguyên tới những người lãnh đạo cách mạng – chủ yếu là những nhà quý tộc và giai cấp tư sản thượng lưu – những người tìm cách đưa việc cai quản đất nước của họ vào khuôn khổ các nguyên tắc của thời kỳ Khai sáng. Nó đạt được đà thắng thế mà những nhà cách mạng không lường trước được và tầng lớp tinh hoa cầm quyền thịnh hành khi đó cũng không thể hình dung được.

Tại trung tâm của nó là sự sắp xếp lại trật tự trên một quy mô chưa từng có ở châu Âu kể từ khi chấm dứt những cuộc chiến tranh tôn giáo. Đối với những nhà cách mạng, trật tự của con người không phản ánh kế hoạch thần thánh trong thế giới Trung cổ, cũng không phản ánh những lợi ích ăn khớp nhau của các triều đại lớn ở thế kỷ 18. Giống như hậu duệ của họ trong các phong trào độc tài toàn trị ở thế kỷ 20, những nhà triết học của Cách mạng Pháp đánh đồng cơ chế lịch sử với sự vận hành trọn vẹn của ý chí nguyện vọng chung của dân chúng, mà theo định nghĩa không thể chấp nhận một giới hạn cố hữu hay theo hiến pháp nào và họ tự dành cho bản thân sự độc quyền xác định (ý chí nguyện vọng chung đó). Ý chí nguyện vọng chung của dân chúng được hình thành theo cách này hoàn toàn khác biệt với khái niệm về nguyên tắc đa số phổ biến ở nước Anh, hoặc khái niệm về kiểm soát và cân bằng trong một bản hiến pháp thành văn như ở Mỹ. Những tuyên bố của các nhà cách mạng Pháp vượt xa khái niệm của Richelieu về thẩm quyền của nhà nước bằng cách trao quyền lãnh đạo tối cao cho một khái niệm trừu tượng – không phải một cá nhân nào mà là toàn thể nhân dân như những chủ thể không thể tách rời đòi hỏi tính thống nhất về tư tưởng và hành động – và sau đó tự chỉ định mình là người phát ngôn và trên thực tế là hiện thân của nhân dân.

Jean-Jacques Rousseau[52] – lãnh đạo tinh thần của cuộc Cách mạng – trình bày tuyên bố chung này một cách hệ thống trong một loạt tác phẩm với sự uyên bác và hấp dẫn làm lu mờ những tác động sâu rộng của chúng. Dẫn dắt người đọc từng bước đi qua một phân tích “hợp lý” về xã hội loài người, Rousseau lên án tất cả những thể chế hiện có – quyền sở hữu, tôn giáo, các giai tầng xã hội, cơ quan chính phủ, xã hội dân sự – là hão huyền và gian lận. Thay thế chúng sẽ là một “nguyên tắc quản lý mới trong trật tự xã hội.” Quần chúng hoàn toàn tuân theo nguyên tắc này bằng sự phục tùng mà không một người trị vì nhân danh quyền thần thánh nào có thể hình dung được, ngoại trừ Sa hoàng Nga, đối với ông ta thì toàn dân không thuộc giới quý tộc và những cộng đồng ở biên giới khắc nghiệt ngoài dãy Urals đều là nông nô. Những lý thuyết này báo trước chế độ độc tài toàn trị hiện đại, trong đó ý chí nguyện vọng chung của dân chúng sẽ chuẩn thuận các quyết định đã được loan báo từ trước bằng các hình thức biểu tình do quần chúng tạo dựng nên.

Theo đuổi ý thức hệ này, tất cả các chế độ quân chủ đúng nghĩa bị coi như kẻ thù; vì họ sẽ không từ bỏ quyền lực mà không kháng cự lại, do đó để thắng thế, cách mạng phải tự biến nó thành một phong trào quốc tế có sự vận động lớn để đạt được hòa bình thế giới thông qua việc áp đặt những nguyên tắc của nó. Nhằm thúc đẩy hệ thống trật tự mới này trên khắp châu Âu, toàn bộ nam giới trưởng thành của Pháp phải thực hiện nghĩa vụ quân sự. Cách mạng dựa trên một đề xuất tương tự như đề xuất của Hồi giáo một thiên niên kỷ trước và của chủ nghĩa cộng sản trong thế kỷ 20: Việc không thể chung sống lâu dài giữa các quốc gia có những quan niệm chân lý tôn giáo hay chính trị khác nhau và sự biến các vấn đề quốc tế thành một cuộc đối đầu ý thức hệ toàn cầu được chiến đấu bằng bất kỳ phương tiện sẵn có nào và huy động tất cả các yếu tố của xã hội. Bằng cách như vậy, một lần nữa cách mạng hợp nhất chính sách đối nội và đối ngoại, tính chính danh và quyền lực, mà sự phân tách rõ ràng các yếu tố này trong dàn xếp của Hòa ước Westphalia đã hạn chế quy mô và cường độ của các cuộc chiến tranh ở châu Âu. Khái niệm về một trật tự quốc tế với những giới hạn quy định hành động của nhà nước đã bị vứt bỏ và bị thay thế bằng một cuộc cách mạng trường kỳ hoặc thắng lợi hoặc thất bại hoàn toàn.

Tháng Mười một năm 1792, Nghị viện Pháp thách thức châu Âu bằng hai nghị quyết bất thường. Nghị quyết đầu tiên thể hiện một cam kết không giới hạn để mở rộng sự hỗ trợ quân sự của Pháp đối với cách mạng quần chúng ở bất kỳ nơi nào. Nghị quyết tuyên bố: Sau khi đã tự giải phóng, Pháp “sẽ mang tình huynh đệ và sự hỗ trợ tới tất cả các dân tộc muốn khôi phục tự do của họ.” Nghị viện đã tăng tầm quan trọng cho nghị quyết này bằng điều khoản rằng văn kiện đó sẽ được “dịch và phát hành bằng mọi ngôn ngữ.” Nghị viện đoạn tuyệt với trật tự thế kỷ 18 này theo cách không thể vãn hồi khi đưa nhà vua bị phế truất của Pháp lên máy chém vài tuần sau đó. Nó cũng tuyên chiến với Áo và xâm lược Hà Lan.

Tháng Mười hai năm 1792, một nghị quyết thậm chí cấp tiến hơn được ban hành với phạm vi áp dụng còn rộng khắp hơn nhiều. Bất kỳ phong trào cách mạng nào cho rằng nghị quyết này có thể áp dụng được đối với nó sẽ được mời “điền vào chỗ trống” của một văn kiện ghi “Nhân dân Pháp gửi Nhân dân...”, văn kiện này tán thành cuộc cách mạng tình hữu nghị anh em sắp tới và cam kết hỗ trợ cho “việc trấn áp tất cả những chính quyền dân sự và quân sự đã cai trị các bạn cho tới ngày hôm nay.” Ngụ ý có phạm vi vô hạn, quá trình này là không thể đảo ngược: “Quốc gia Pháp tuyên bố sẽ coi như kẻ thù những ai chối bỏ quyền tự do và quyền bình đẳng hoặc không chấp nhận những quyền này, những kẻ mong muốn giữ, gợi nhớ lại, hoặc thương lượng với hoàng tử và những giai cấp đặc quyền.” Rousseau đã viết rằng “bất kỳ ai từ chối tuân theo ý chí nguyện vọng chung của dân chúng thì sẽ bị buộc phải (toàn tâm toàn ý) làm như vậy… Anh ta sẽ bị ép buộc (bằng vũ lực) trước khi được tự do.” Cách mạng mở rộng định nghĩa về tính chính danh này cho tất cả nhân loại.

Để đạt được những mục tiêu rộng lớn và phổ quát như vậy, các nhà lãnh đạo của cuộc Cách mạng Pháp cố gắng thanh trừng mọi khả năng đối lập trong nước. “Triều đại Khủng bố” đã giết hàng nghìn người thuộc tầng lớp cai trị cũ và tất cả các đối thủ tình nghi trong nước, thậm chí cả những người ủng hộ mục tiêu của Cách mạng nhưng hoài nghi một số phương pháp của nó. Hai thế kỷ sau, những động cơ tương tự là cơ sở cho các cuộc thanh trừng ở Nga vào những năm 1930 và cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc trong những năm 1960 và 1970.

Cuối cùng, trật tự đã được vãn hồi, như nó phải vậy nếu một quốc gia không bị tan rã. Một lần nữa, mô hình này lại bắt nguồn từ “nhà lập pháp vĩ đại” Rousseau. Vua Louis XIV đã trưng dụng nhà nước này phục vụ cho quyền lực hoàng gia; Cách mạng cưỡng bức người dân ủng hộ thiết kế của nó. Napoleon, người tự xưng là “Tổng tài Đệ nhất suốt đời” sau đó là Hoàng đế, đại diện cho một kiểu mới: “Đại đế” làm lay chuyển thế giới bằng sức mạnh ý chí của mình, tự cho mình sự chính danh bằng sức quyến rũ lôi cuốn và thành công cá nhân trong chỉ huy quân sự. Điều cốt yếu của vị Đại đế này là việc ông từ chối thừa nhận những giới hạn truyền thống và nhất quyết sắp xếp lại trật tự thế giới bằng thẩm quyền riêng của mình. Năm 1804, vào thời điểm cao trào trong lễ đăng quang Hoàng đế của mình, không như Charlemagne, Napoleon khi từ chối được chính danh hóa bởi một quyền lực khác hơn là chính mình, đã giật lấy vương miện từ tay Giáo hoàng, tự đội lên đầu và xưng Hoàng đế.

Cách mạng không còn làm nên người lãnh đạo; mà chính người lãnh đạo định nghĩa Cách mạng. Khi chế ngự Cách mạng, Napoleon cũng đã tự biến mình thành người bảo đảm cho nó. Tuy nhiên, ông cũng thấy mình – mà không phải là vô cớ – là đỉnh cao của Thời kỳ Khai sáng. Ông hợp lý hóa hệ thống chính quyền Pháp, thiết lập hệ thống các tỉnh mà thông qua đó hệ thống hành chính của Pháp vận hành, và vẫn đang vận hành ngay cả khi những dòng chữ này đang được viết. Ông tạo ra Bộ luật Napoleon, mà các bộ luật thịnh hành ở Pháp và các nước châu Âu khác đều dựa trên đó. Ông chấp nhận tính đa dạng tôn giáo và khuyến khích chủ nghĩa duy lý trong chính phủ, nhằm mục đích cải thiện số phận người dân Pháp.

Nó như thể vừa là hiện thân của Cách mạng, vừa là biểu hiện của Thời kỳ Khai sáng mà Napoleon khởi đầu để giành được địa vị thống trị và thống nhất châu Âu. Cho tới năm 1809, dưới sự lãnh đạo quân sự tài tình của ông, quân đội của Napoleon đã nghiền nát tất cả những đối thủ ở Tây và Trung Âu, cho phép ông vẽ lại bản đồ lục địa châu Âu như một bản thiết kế địa chính trị. Ông sáp nhập những lãnh thổ quan trọng vào Pháp và thành lập những nền cộng hòa vệ tinh ở những nơi khác, nhiều trong số đó do người thân của ông hay các tướng lĩnh Pháp cai trị. Một bộ luật thống nhất được đưa vào sử dụng ở khắp châu Âu. Hàng ngàn chỉ thị về các vấn đề kinh tế và xã hội đã được ban hành. Liệu Napoleon có trở thành người thống nhất một lục địa bị chia cắt kể từ khi La Mã sụp đổ?

Hai trở ngại vẫn còn đó: Anh và Nga. Thống trị các vùng biển kể từ sau đại thắng của Phó Đô đốc Nelson[53] ở trận hải chiến Trafalgar[54] năm 1805, lúc bấy giờ Anh là bất khả xâm phạm nhưng không đủ mạnh để phát động một cuộc xâm lược đáng kể qua Eo biển Anh. Cũng như một thế kỷ rưỡi sau đó, nước Anh đơn độc ở Tây Âu, nhận thức được rằng một hiệp ước hòa bình với kẻ chinh phạt sẽ tạo điều kiện cho một cường quốc duy nhất hợp nhất các nguồn lực trên toàn lục địa và sớm hay muộn sẽ áp đảo sự thống trị của nước này trên các đại dương. Núp sau eo biển này, nước Anh chờ đợi Napoleon (và một thế kỷ rưỡi sau là Hitler) mắc một sai lầm mà sẽ cho phép nó tái xuất trên lục địa châu Âu về mặt quân sự như người bảo vệ sự cân bằng quyền lực. (Trong Thế chiến II, Anh cũng chờ Mỹ tham gia vào danh sách này.)

Napoleon đã lớn lên dưới hệ thống triều đại ở thế kỷ 18, và thật kỳ lạ, chấp nhận tính chính danh của nó. Theo đó, là một người đảo Corse có địa vị nhỏ bé nơi quê nhà, theo định nghĩa thì ông không chính danh, điều đó có nghĩa rằng ít nhất trong tâm trí ông, sự trị vì của ông có chính danh hay không phụ thuộc vào sự trường kỳ, và trên thực tế là quy mô, của những cuộc chinh phục của ông. Khi nào vẫn còn một người không lệ thuộc vào ý chí của ông, Napoleon còn cảm thấy bắt buộc phải truy đuổi người đó. Không bị khái niệm, tính khí hay kinh nghiệm kiềm chế, ông tung quân vào Tây Ban Nha và Nga, dù không nước nào cần thiết cho một bản thiết kế địa chính trị. Napoleon không thể chấp nhận một trật tự quốc tế; tham vọng của ông là một đế chế rộng lớn ít nhất bằng cả lục địa châu Âu và vì thế ông cho rằng quyền lực của mình vẫn chưa đủ.

Với những cuộc chiến tranh Cách mạng và chiến tranh Napoleon, thời đại chiến tranh tổng lực – huy động toàn bộ nguồn lực của một quốc gia – đã đến. Cảnh máu chảy, đầu rơi và quy mô tàn phá tương tự như cuộc Chiến tranh Ba mươi năm. Quân đội chủ lực của Napoleon (Grande Armée) giờ đây được huy động bằng cách cưỡng bức tòng quân, kể cả từ những vùng lãnh thổ bị sáp nhập, tự cung tự cấp và duy trì dựa trên những tài sản của kẻ thù và người dân bị chinh phục, bao gồm cả những khoản “cống nạp” tiền bạc khổng lồ. Kết quả là một sự gia tăng rất lớn quy mô đội quân này và sự khuất phục của toàn bộ khu vực. Không phải đến tận khi Napoleon không cưỡng nổi sự cám dỗ xâm nhập những vùng lãnh thổ có nguồn lực tại chỗ không đủ để cung cấp cho một đội quân khổng lồ (Tây Ban Nha và Nga) thì ông mới phải đối mặt với thất bại; ông từng thất bại lần đầu tiên do không lượng sức mình ở Nga vào năm 1812, và sau đó là khi phần còn lại của châu Âu liên kết để chống lại ông trong sự xác minh muộn màng của những nguyên tắc của Hòa ước Westphalia. Năm 1813, trong Chiến tranh Liên minh thứ sáu ở Leipzig[55], quân đội chung của các nước châu Âu còn tồn tại đã giáng cho Napoleon thất bại lớn đầu tiên và mang tính quyết định trong một trận đánh. (Thất bại ở Nga là do bị tiêu hao binh lực.) Sau Chiến tranh Liên minh thứ sáu, Napoleon cự tuyệt những dàn xếp mà lẽ ra đã cho phép ông giữ lại một số đất đai mà ông đã chinh phục được. Ông lo ngại rằng bất kỳ sự chấp nhận chính thức nào về những giới hạn sẽ triệt tiêu tuyên bố chính danh duy nhất của ông. Như thế, ông đã bị lật đổ bởi chính sự bất an của mình cũng như bởi các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia. Kẻ chinh phạt hùng mạnh nhất châu Âu kể từ Charlemagne đã bị đánh bại không chỉ bởi một trật tự quốc tế nổi dậy chống lại ông mà bởi cả chính ông ta.

Giai đoạn Napoleon đánh dấu đỉnh cao của thời kỳ Khai sáng. Lấy cảm hứng từ những ví dụ của Hy Lạp và La Mã, các nhà tư tưởng thời kỳ này đã đánh đồng sự khai sáng với sức mạnh của lý trí, ngụ ý một sự phân tán uy quyền từ Giáo hội cho giới tinh hoa thế tục. Giờ đây những khát vọng này đã được cô đọng hơn nữa và tập trung vào một lãnh đạo như là biểu trưng của quyền lực toàn cầu. Một câu chuyện minh họa cho ảnh hưởng của Napoleon xảy ra vào ngày 13 tháng Mười năm 1806, một ngày trước trận Jena, nơi quân Phổ bị đánh bại. Khi ông đi trinh sát trận địa với vị tướng tham mưu của mình, Georg Wilhelm Friedrich Hegel khi đó còn là một giảng viên đại học (người sau này viết cuốn Triết học Lịch sử, truyền cảm hứng cho học thuyết của Marx), đã miêu tả cảnh tượng này với những lời tán dương khi nghe tiếng vó ngựa vang trên đường:

Tôi thấy Hoàng đế – linh hồn thế giới này – cưỡi ngựa ra khỏi thành phố đi trinh sát. Thật tuyệt vời khi được thấy một cá nhân xuất chúng đến dường này, người có mặt ở đây tại một thời khắc duy nhất, cưỡi ngựa đi khắp thế gian và làm chủ thế giới.

Nhưng rốt cuộc, linh hồn thế giới này đã kéo theo vào châu Âu một cường quốc mới rộng vô biên ở châu Âu nhưng có tới ba phần tư lãnh thổ bao la ở châu Á là nước Nga đế quốc; quân đội của nước này đã truy đuổi lực lượng bị tổn thất nặng nề của Napoleon trở lại lục địa châu Âu và chiếm đóng Paris khi cuộc chiến tranh này kết thúc. Sức mạnh của cường quốc này làm dấy lên những vấn đề cơ bản về sự cân bằng quyền lực ở châu Âu và những tham vọng lớn của nó khiến cho sự quay trở lại với trạng thái cân bằng trước cách mạng là điều dường như không thể.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3