Trật Tự Thế Giới - Chương 02
Chương 2
HỆ THỐNG CÂN BẰNG QUYỀN LỰC Ở CHÂU ÂU VÀ KẾT THÚC CỦA NÓ
BÍ ẨN NƯỚC NGA
Khi kỷ nguyên của Cách mạng Pháp và Napoleon chấm dứt, quân đội Nga đang chiếm đóng Paris trong một sự đảo chiều lịch sử đáng kinh ngạc. Nửa thế kỷ trước, Nga mới lần đầu tiên bước vào cán cân quyền lực ở Tây Âu khi tham gia cuộc Chiến tranh Bảy năm[56] và đã cho thấy bản chất cai trị độc đoán của Sa hoàng khi đột nhiên tuyên bố trung lập và rút khỏi cuộc chiến, vì Sa hoàng mới đăng quang ngưỡng mộ Frederick Đại đế. Cuối thời kỳ Napoleon, một Sa hoàng khác là Alexander tiếp tục quyết định tương lai châu Âu. Tự do của châu Âu và hệ thống trật tự đi cùng với nó đòi hỏi sự tham gia của một đế quốc lớn hơn nhiều so với toàn bộ phần còn lại của châu Âu và chuyên quyền đến mức độ chưa từng có trong lịch sử châu Âu.
Kể từ đó, Nga đã đóng một vai trò độc nhất trong các vấn đề quốc tế: là một phần của cán cân quyền lực ở cả châu Âu và châu Á nhưng lại chỉ đóng góp thất thường vào trạng thái cân bằng của trật tự quốc tế. Nước này đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh hơn so với bất kỳ cường quốc lớn đương thời nào khác, điều đã ngăn cản khả năng một cường quốc duy nhất thống trị châu Âu, kiên định chống lại Charles XII[57] của Thụy Điển, Napoleon và Hitler khi các yếu tố chủ chốt đảm bảo cân bằng ở lục địa bị phá vỡ. Chính sách của nước này đã theo đuổi một nhịp điệu đặc biệt của riêng mình qua nhiều thế kỷ, mở rộng trên một khu vực rộng lớn trải dài gần như mọi miền khí hậu và nền văn minh, đôi khi bị gián đoạn do nhu cầu cần phải điều chỉnh cơ cấu nội bộ theo tham vọng to lớn của kế hoạch đó, chỉ để quay lại như cơn thủy triều rút vào bờ. Từ Peter Đại đế[58] cho đến Vladimir Putin, dù hoàn cảnh thay đổi nhưng nhịp điệu đó vẫn đặc biệt nhất quán.
Nổi lên từ những biến động của thời kỳ Napoleon, các nước Tây Âu kính nể và lo sợ khi chứng kiến một đất nước có lãnh thổ và lực lượng quân đội vượt trội lãnh thổ và quân đội của cả lục địa châu Âu, một đất nước mà tầng lớp tinh hoa của nước này dù có khéo léo, biết ngoại giao nhưng dường như khó có thể che giấu một thế lực nguyên thủy trước nền văn minh phương Tây và xa hơn thế. Từ góc nhìn của một nước Pháp bị kiềm chế và một châu Âu bị cường quốc Nga định hình lại, lữ hành người Pháp Marquis de Custine[59] tuyên bố năm 1843: Nga là một sự lai tạp mang sức sống của thảo nguyên đến trung tâm châu Âu:
Một sự pha trộn kỳ quái giữa sự tao nhã lặt vặt của Byzantium và sự tàn bạo của bộ lạc du cư miền sa mạc, một cuộc đấu tranh giữa phép xã giao của Đế quốc Hạ vùng [Byzantine] và sự hoang dại của châu Á, đã sản sinh ra một nhà nước hùng mạnh mà châu Âu hiện chứng kiến và tạo ra những ảnh hưởng mà từ nay trở về sau lục địa này có lẽ sẽ cảm thấy nhưng không thể nào hiểu được sự vận hành của nó.
Tất cả mọi điều về Nga – sự chuyên chế, diện tích, những tham vọng trải dài địa cầu và sự bất an của nước này – rõ ràng là sự thách thức đối với quan niệm truyền thống về trật tự quốc tế của châu Âu vốn được xây dựng trên sự cân bằng và kiềm chế.
Vị thế của Nga ở trong và đối với châu Âu từ lâu đã mơ hồ. Trong khi đế chế của Charlemagne đã tan vỡ trong thế kỷ 9 thành những vùng sau này trở thành các quốc gia hiện đại là Pháp và Đức, các bộ tộc Slav cách đó hơn một ngàn dặm về phía đông đã liên kết thành một liên bang ở xung quanh thành phố Kiev (hiện là thủ đô và trung tâm địa lý của Ukraine, dù hầu hết người Nga đều nhận thức đó là một hợp phần không thể tách rời trong đất đai của cha ông họ). Miền “đất của người Nga” này là nơi giao nhau của rất nhiều nền văn minh và những tuyến đường thương mại. Với người Viking[60] ở phía bắc, Đế quốc Ả-rập đang bành trướng ở phía nam và các bộ tộc người Thổ Nhĩ Kỳ cướp bóc ở phía đông, Nga thường xuyên chịu sự chi phối của những cám dỗ và nỗi sợ hãi trộn lẫn. Ở phía đông, quá xa để có trải nghiệm với Đế quốc La Mã (mặc dù các Sa hoàng tuyên bố những “Caesar” là tổ tiên chính trị và nguồn gốc từ “czar” của họ), người Ki-tô giáo tìm thấy quyền lực tôn giáo nơi Nhà thờ Chính Thống ở Constantinople chứ không phải ở La Mã, Nga đủ gần với châu Âu hơn để có cùng một vốn từ văn hóa chung nhưng lại luôn lệch pha với những xu hướng lịch sử của lục địa này. Kinh nghiệm này khiến Nga trở thành một cường quốc “Âu-Á” độc nhất, trải dài trên hai lục địa nhưng chưa bao giờ hoàn toàn coi lục địa nào là nhà.
Sự phân tách sâu sắc nhất xuất hiện cùng với các cuộc xâm lược của người Mông Cổ vào thế kỷ 13, những cuộc xâm lược đã khuất phục một nước Nga bị chia rẽ về chính trị và san bằng Kiev. Hai thế kỷ rưỡi dưới ách thống trị của người Mông Cổ (1237-1480) và cuộc đấu tranh sau đó nhằm khôi phục một nhà nước cố kết dựa trên Công quốc Moscow, đã áp đặt lên Nga một định hướng về phương Đông, cũng như Tây Âu đang vạch ra những viễn cảnh công nghệ và tri thức mới mà sẽ hình thành nên kỷ nguyên hiện đại. Trong kỷ nguyên châu Âu khám phá đường biển, Nga rất vất vả để tái thiết thành một quốc gia độc lập và củng cố biên giới chống lại những mối đe dọa từ mọi hướng. Khi cuộc Cải cách Tin Lành thúc đẩy sự đa dạng chính trị và tôn giáo ở châu Âu, Nga đã biến sự sụp đổ của ngôi sao dẫn đường về tôn giáo của mình (Constantinople và Đế quốc Đông La Mã bị sụp đổ trước sự xâm lược của người Hồi giáo năm 1453) thành một niềm tin gần như thần bí rằng (như giáo sĩ Filofei viết cho Ivan III[61] vào khoảng năm 1500) Sa hoàng giờ đây là “Hoàng đế duy nhất của tất cả những người theo Ki-tô giáo trong toàn vũ trụ” với lời kêu gọi của Chúa cứu thế để giành lại thủ đô Byzantine cho đạo Ki-tô.
Châu Âu đang đi đến việc chấp nhận sự đa cực của nó như là một cơ chế nhằm đảm bảo cân bằng, nhưng Nga đang học được ý nghĩa của địa chính trị từ trường đời khắc nghiệt của thảo nguyên, nơi vô số bộ lạc du mục tranh giành các nguồn tài nguyên trên một địa hình mở với rất ít biên giới cố định. Ở đó những cuộc cướp bóc và bắt người của bộ lạc khác làm nô lệ diễn ra định kỳ, điều mà đối với một số người đó là lẽ sống; ở đây, độc lập đồng nghĩa với lãnh thổ mà một dân tộc có thể bảo vệ được mình. Nga khẳng định mối liên hệ của nó với văn hóa phương Tây, nhưng ngay cả khi bành trướng theo cấp số nhân, nước này tự coi là một tiền đồn của nền văn minh đang bị vây hãm mà chỉ có thể đảm bảo được bằng cách áp đặt ý chí chuyên chế của nó lên các nước láng giềng.
Trong khái niệm trật tự theo Hòa ước Westphalia, các chính khách châu Âu định nghĩa an ninh là sự cân bằng quyền lực và kiềm chế sử dụng quyền lực. Theo kinh nghiệm lịch sử của Nga, kiềm chế sử dụng quyền lực đồng nghĩa với thảm họa: theo quan điểm này, việc Nga không thống trị được những vùng xung quanh mình đã khiến nước này bị Mông Cổ xâm lược và rơi vào “Thời kỳ Rối ren” ác mộng (khoảng thời gian 15 năm trong tình trạng vô chính phủ trước khi triều đại Romanov[62] được thành lập vào năm 1613, khi đó những cuộc xâm lược, nội chiến và nạn đói đã làm thiệt mạng một phần ba dân số của Nga). Hòa ước Westphalia coi trật tự quốc tế như một cơ chế cân bằng phức tạp; Nga coi trật tự quốc tế là cuộc chiến ý chí vĩnh viễn, trong cuộc chiến đó Nga bành trướng lãnh thổ của mình ở từng giai đoạn tới giới hạn tuyệt đối các nguồn lực vật chất của nó. Vì thế, khi được hỏi về chính sách đối ngoại của Nga, Bộ trưởng Nashchokin dưới thời Sa hoàng Alexei[63] vào giữa thế kỷ 17 đã miêu tả thẳng thắn, “Mở rộng nhà nước về mọi hướng và đây là công việc của Bộ Ngoại giao.”
Quá trình này phát triển thành một quan điểm quốc gia và thúc đẩy Công quốc Moscow một thời mở rộng trên khắp châu Âu và châu Á để trở thành đế quốc có diện tích lớn nhất trên thế giới, trong sự thôi thúc bành trướng chậm rãi nhưng dường như không thể cưỡng lại được, và sẽ vẫn không hề suy giảm cho tới tận năm 1917. Do đó, năm 1903, học giả người Mỹ Henry Adams[64] ghi lại quan điểm của đại sứ Nga ở Washington (thời điểm đó Nga đã vươn tới Triều Tiên):
Triết lý chính trị của ông ta, giống như của tất cả người Nga, dường như cố định trên ý tưởng duy nhất rằng Nga phải lăn – với quán tính không thể cưỡng lại được, nghiền nát bất kỳ cái gì ngăn cản nó… Khi Nga cán qua một dân tộc láng giềng, nước này đã hấp thụ năng lượng của họ vào xu hướng phong tục và chủng tộc của riêng nó mà cả Sa hoàng lẫn người nông dân không thể chuyển đổi, hay muốn chuyển đổi, thành bất kỳ điều gì tương đương với phương Tây.
Không có biên giới tự nhiên nào ngoại trừ Bắc cực và Thái Bình Dương, Nga ở vị thế phải hài lòng với sự thôi thúc này trong nhiều thế kỷ, liên tục tiến vào Trung Á, sau đó là vùng Caucasus, rồi đến khu vực Balkan, Đông Âu, Scandinavia và Biển Baltic, cho tới Thái Bình Dương và các vùng biên giới của Trung Quốc và Nhật Bản (và trong một khoảng thời gian giữa thế kỷ 18 và thế kỷ 19 băng qua Thái Bình Dương tiến vào các khu định cư ở Alaska và California). Mỗi năm, nước này mở rộng một diện tích lớn hơn toàn bộ lãnh thổ của nhiều quốc gia châu Âu (trung bình 100.000 km2 mỗi năm từ năm 1552 đến năm 1917).
Khi hùng mạnh, Nga hành xử với sự chắc chắn độc đoán của một siêu cường và nhất quyết yêu cầu các nước khác phải chính thức bày tỏ lòng tôn kính đối với vị thế của nó. Khi suy yếu, nước này che giấu sự dễ bị tổn thương của mình thông qua việc viện dẫn đến nguồn lực dự trữ to lớn ở trong nước. Trong cả hai trường hợp, đó là một thách thức đặc biệt đối với các thủ đô phương Tây vốn quen ứng phó với một phong cách có phần lịch sự hơn.
Đồng thời, những chiến công bành trướng đáng sợ của Nga diễn ra trên một cơ sở nhân khẩu học và kinh tế mà nếu theo tiêu chuẩn phương Tây là không tiên tiến, với nhiều khu vực dân cư thưa thớt và dường như không được tiếp cận với văn hóa và công nghệ hiện đại. Vì vậy, đế quốc chinh phục thế giới này vẫn bị gắn liền với một cảm giác dễ bị tổn thương đầy nghịch lý, như thể hành quân nửa vòng Trái Đất đã tạo thêm nhiều kẻ thù tiềm năng hơn là có thêm sự đảm bảo an ninh. Từ quan điểm đó, đế chế của Sa hoàng có thể được cho là đã mở rộng bởi vì việc bành trướng có vẻ dễ tiếp tục hơn là ngừng lại.
Trong bối cảnh này, một khái niệm riêng biệt của Nga về tính chính danh chính trị được định hình. Trong khi châu Âu ở thời kỳ Phục hưng tái khám phá quá khứ nhân văn cổ điển của nó và gọt giũa những khái niệm mới của chủ nghĩa cá nhân và tự do, Nga tìm kiếm sự trỗi dậy của nó trong đức tin thuần khiết và trong sự gắn kết của một quyền lực thần thánh duy nhất chế ngự tất cả những sự chia rẽ, Sa hoàng là “biểu tượng sống của Thiên Chúa,” những mệnh lệnh của ông là không thể chống lại và đương nhiên là chính đáng. Một đức tin Ki-tô và một ngôn ngữ tinh hoa chung (tiếng Pháp) nhấn mạnh sự tương đồng quan điểm với phương Tây. Tuy nhiên, những du khách châu Âu đầu tiên tới nước Nga của Sa hoàng thấy mình như đang ở một vùng đất của những thái cực gần như siêu thực và nghĩ rằng đằng sau vẻ ngoài của một chế độ quân chủ phương Tây hiện đại, họ đã thấy một chế độ chuyên quyền theo tập quán của người Mông Cổ và Tartar – “kỷ luật châu Âu hỗ trợ cho sự độc tài của châu Á” – theo nhận xét khắt khe của Marquis de Custine.
Nga đã gia nhập hệ thống quốc gia châu Âu hiện đại dưới thời Peter Đại đế theo cách không giống như bất kỳ xã hội nào khác. Ở cả hai bên, sự gia nhập này là sự chấp nhận thận trọng. Peter sinh năm 1672 khi Nga về cơ bản vẫn ở thời Trung cổ. Vào lúc đó, Tây Âu đã phát triển qua thời kỳ Khám phá, Phục hưng và Cải cách; và đang đứng trước ngưỡng cửa của cuộc cách mạng khoa học và thời kỳ Khai sáng. Là người cao lớn (tới 2m03) và tràn đầy sinh lực, vị Sa hoàng trẻ tuổi bắt đầu biến đổi đế chế của mình trong một triều đại thể hiện cực đoan rất nhiều đặc điểm và khát vọng của Nga.
Quyết tâm khám phá những thành quả của hiện đại và so sánh chúng với những thành tựu của Nga, Peter thường xuyên ghé thăm các cửa hàng và nhà máy trong khu vực của người Đức lưu vong ở Moscow. Là một vị vương trẻ, ông đi khắp thủ đô các nước phương Tây để đích thân thử nghiệm các kỹ thuật hiện đại và các môn học chuyên ngành. Khi thấy Nga lạc hậu so với phương Tây, Peter tuyên bố mục tiêu của mình, “cắt đứt người dân khỏi những phong tục châu Á trước đây và hướng dẫn họ theo cách xử sự của tất cả những người Ki-tô giáo ở châu Âu.”
Một loạt sắc chỉ được ban hành: Nga sẽ áp dụng cách xử sự và kiểu tóc phương Tây, tìm kiếm công nghệ nước ngoài, xây dựng quân đội và hải quân hiện đại, mở rộng biên giới bằng các cuộc chiến với hầu hết các nước láng giềng, vượt qua Biển Baltic và xây dựng một thủ đô mới ở St. Petersburg. Cuối cùng, “cửa sổ ra phương Tây” của Nga được một lực lượng lao động cưỡng bức, bị lính đánh đập và chịu nhiều thương vong, xây dựng bằng tay không trên một vùng đầm lầy hoang dã do đích thân Peter chọn, khi ông đâm thanh kiếm của mình xuống đất và tuyên bố: “Nơi này sẽ là một thành phố.” Khi những người theo chủ nghĩa truyền thống nổi loạn, Peter đã dẹp tan họ và ít nhất là theo các câu chuyện đến được với thế giới phương Tây, ông đã đích thân tra tấn và chặt đầu những người lãnh đạo cuộc nổi loạn.
Thành tựu xuất sắc của Peter đã biến đổi xã hội Nga và đưa đế chế của ông lên hàng đầu các cường quốc ở phương Tây. Tuy nhiên, sự biến đổi đột ngột này để lại cho Nga những bất an của một “gã nhà giàu mới nổi.” Không ở một đế quốc nào mà người trị vì tuyệt đối cảm thấy cần phải nhắc nhở thần dân của mình bằng văn bản rằng “Nga là một quốc gia châu Âu. Điều này được chứng minh rõ ràng bởi những nhận định sau” như người kế vị Peter là Catherine Đại đế[65] đã làm vậy ở nửa thế kỷ sau đó.
Những cải cách của Nga luôn được những nhà chuyên chế tàn nhẫn thực hiện trên những người dân dễ sai khiến, với ước muốn vượt qua quá khứ của nó hơn là được thúc đẩy bởi niềm tin vào tương lai. Tuy nhiên, như những nhà cải cách và nhà cách mạng kế vị của mình, khi triều đại của ông ta đã qua, thần dân của ông và con cháu của họ ghi công ông vì đã thúc đẩy họ, dù tàn nhẫn đến đâu, để đạt được những thành tựu mà bản thân họ đã hầu như không kiếm tìm. (Theo các cuộc thăm dò gần đây, Stalin cũng được ghi công như vậy trong suy nghĩ của người Nga đương đại.)
Catherine Đại đế – nhà cải cách chuyên chế của Nga từ năm 1762 đến năm 1796 và là người giám sát một thời kỳ lịch sử của thành tựu văn hóa và mở rộng lãnh thổ (bao gồm cả cuộc chinh phục Hãn quốc Crimea của Nga và khuất phục Zaporizhian Host, vương quốc Cossack tự trị xưa kia ở vùng ngày nay là miền Trung Ukraine) – biện minh cho chế độ chuyên chế cực đoan của Nga như là hệ thống chính quyền duy nhất có thể đảm bảo sự thống nhất của một vùng lãnh thổ rộng lớn đến vậy:
Quy mô của lãnh thổ tự trị đòi hỏi một quyền lực tuyệt đối được trao cho người cai trị nó. Điều này là thích hợp khi các công văn dù được nhanh chóng gửi đi từ những miền xa xôi, có thể phải sửa đổi rất nhiều do đến chậm vì khoảng cách quá xa.
Bất kỳ hình mẫu chính quyền nào khác sẽ không chỉ gây phương hại tới Nga mà thậm chí còn dẫn đến sự sụp đổ toàn diện.
Do đó, những gì phương Tây coi là độc tài chuyên chế được Nga coi như một điều cần thiết căn bản, điều kiện tiên quyết cho sự cai trị thành công.
Như Hoàng đế Trung Hoa, Sa hoàng là người cai trị tuyệt đối theo truyền thống, được trao những quyền năng huyền bí và giám sát một lãnh thổ rộng lớn cấp châu lục. Tuy nhiên, vị trí của Sa hoàng khác với Hoàng đế Trung Hoa ở một khía cạnh quan trọng. Theo quan điểm của Trung Quốc, Hoàng đế trị vì khắp thiên hạ thông qua sự cai trị anh minh; theo quan điểm của Nga, sự lãnh đạo của Sa hoàng chủ yếu thông qua khả năng áp đặt ý chí của mình thông qua việc khẳng định quyền lực không thể bị thách thức và gây ấn tượng với tất cả mọi người về sức mạnh áp đảo của nhà nước Nga. Hoàng đế Trung Hoa được coi là hiện thân về tính ưu việt của nền văn minh Trung Hoa, truyền cảm hứng cho những người khác “hãy đến và được thay đổi.” Sa hoàng được coi là hiện thân của việc bảo vệ Nga trước kẻ thù xung quanh nó từ mọi hướng. Do đó, trong khi các hoàng đế được ca tụng vì lòng nhân từ không thiên vị của bậc bề trên, nhà sử học thế kỷ 19 Nikolai Karamzin[66] thấy trong sự hà khắc của Sa hoàng một dấu hiệu thể hiện ông đang thực thi sứ mệnh đích thực của mình:
Ở Nga, người cầm quyền tối cao là luật pháp sống. Ông ưu ái người tốt và trừng phạt kẻ xấu… [Một] trái tim nhân từ ở một quốc vương chỉ được coi là đức tính tốt khi nó được tôi luyện với trách nhiệm sử dụng sự nghiêm khắc một cách hợp lý.
Không như Mỹ trong quá trình mở rộng về phía tây, Nga luôn biện minh về mặt đạo đức cho những cuộc chinh phạt của mình, rằng nước này đang mở rộng trật tự và khai sáng tới những vùng đất ngoại đạo (trong đó, việc buôn bán lông thú và khoáng chất sinh lợi béo bở là lợi ích phụ). Tuy nhiên, trong khi tầm nhìn của Mỹ truyền cảm hứng lạc quan vô bờ bến, kinh nghiệm của Nga rốt cuộc dựa trên sự chịu đựng khắc kỷ. Mắc kẹt “tại điểm giao của hai thế giới rộng lớn và không thể hòa hợp,” Nga thấy bản thân mình có sứ mệnh đặc biệt là kết nối hai thế giới này, nhưng lại phải đối phó ở khắp mọi hướng với những lực lượng chống đối mà đã không hiểu được sứ mệnh này. Nhà văn vĩ đại và nhà dân tộc chủ nghĩa nhiệt thành người Nga Fyodor Dostoevsky[67] viện dẫn “luôn cố hữu trong người dân Nga một niềm khao khát không ngừng về một nhà thờ chung vĩ đại trên Trái Đất.” Sự tán dương về việc Nga tổng hợp các nền văn minh trên toàn thế giới gợi lên một sự tuyệt vọng tương ứng về vị thế của Nga (theo lời của một bài phê bình có ảnh hưởng vào thế kỷ 19) một “đứa trẻ mồ côi bị tách rời khỏi gia đình nhân loại… Để mọi người chú ý đến chúng ta, chúng ta đã phải trải rộng từ Eo biển Bering[68] tới sông Oder[69].”
Trong “tâm hồn Nga” bành trướng và khổ đau (như các nhà tư tưởng Nga có lẽ gọi như vậy), vẫn tồn tại một niềm tin rằng một ngày nào đó tất cả những nỗ lực lớn lao và mâu thuẫn của Nga sẽ gặt hái kết quả, cuộc hành trình của nước này sẽ được minh oan; những thành tựu của nó sẽ được khen ngợi và sự khinh thị của phương Tây sẽ biến thành nỗi kính sợ và lòng ngưỡng mộ; Nga sẽ kết hợp sức mạnh và sự rộng lớn của phương Đông với sự tinh tế của phương Tây và với cả sức mạnh tinh thần của tôn giáo đích thực; kết hợp Moscow – “La Mã thứ ba” kế thừa vai trò quan trọng của thành Byzantium sụp đổ – với Sa hoàng là “người kế nhiệm của những vị caesars của (đế quốc) Đông La Mã, của những người tổ chức Giáo hội và các hội đồng của nó mà đã định hình chính tín ngưỡng của đức tin Ki-tô” sẽ đóng vai trò quyết định trong việc mở ra một kỷ nguyên mới của công lý và tình huynh đệ toàn cầu.
Ở châu Âu nhưng không hoàn toàn thuộc về lục địa này, chính Nga với sự bao la rộng lớn và bí ẩn của nó đã khiến Napoleon thèm muốn; và chính sự thảm bại của ông ta (giống như của Hitler một thế kỷ rưỡi sau đó) khi nhân dân Nga, được tôi luyện trong gian nan thử thách, đã chứng minh khả năng chịu đựng sự thiếu thốn hơn quân đội chủ lực của Napoleon (hay quân đoàn của Hitler). Khi những người dân Nga thiêu rụi bốn phần năm Moscow để ngăn Napoleon chinh phạt thành công và quân đội của ông ta mất nguồn lương thực, Napoleon, với chiến lược vĩ đại giờ đã thất bại, được kể là đã phải thốt lên, “Thật là một dân tộc! Những người Scythia[70]! Thật cương quyết! Lũ người man rợ!” Giờ đây, khi những kỵ binh Cossack uống rượu sâm banh ở Paris, nhà nước độc tài khổng lồ này hiện ra trước một châu Âu cố gắng hiểu tham vọng và phương pháp vận hành của nó.
Khi Hội nghị thành Vienna diễn ra, Nga có lẽ là quốc gia hùng mạnh nhất trên lục địa châu Âu. Đích thân đại diện Nga tại hội nghị hòa bình Vienna, Sa hoàng Alexander rõ ràng là người trị vì chuyên chế nhất của nước này. Là người có niềm tin sâu sắc và nếu có thay đổi thì do chẳng qua ông vừa làm mới đức tin tôn giáo của mình sau khi đọc rất nhiều tài liệu về Kinh Thánh và có những tham vấn tâm linh. Như ông đã viết cho một người bạn tâm giao vào năm 1812, ông tin rằng chiến thắng trước Napoleon sẽ mở ra một thế giới mới và hài hòa dựa trên các nguyên tắc tôn giáo, và ông thề: “Tôi nguyện hiến dâng tất cả vinh quang của mình trên thế giới này để đẩy nhanh sự ngự trị đích thực của Chúa Jesus.” Tự coi mình là một công cụ của thánh ý, Sa hoàng đến thành Vienna năm 1814 với một bản thiết kế cho một trật tự thế giới mới xét trên một số khía cạnh còn triệt để hơn so với của Napoleon về độ phổ quát: Một “Liên minh Thần thánh” của các hoàng thân che giấu những lợi ích quốc gia của mình thành việc cùng kiếm tìm hòa bình và công lý, thề từ bỏ cân bằng quyền lực để đổi lấy các nguyên tắc về tình huynh đệ của Thiên Chúa giáo. Như Alexander nói với nhà trí thức và cũng là nhà ngoại giao hoàng gia Pháp Chateaubriand[71]: “Không còn tồn tại một chính sách của người Anh, một chính sách của Pháp, Nga, Phổ hay Áo nữa; hiện giờ chỉ có một chính sách chung duy nhất, đó là vì phúc lợi của tất cả, và chính sách này phải được tất cả các quốc gia và dân tộc thực thi.” Đó là tư tưởng đi trước khái niệm của Tổng thống Mỹ Wilson về bản chất của trật tự thế giới, dù nhân danh các nguyên tắc đi ngược lại tầm nhìn của Wilson.
Khỏi phải nói rằng, một thiết kế như vậy, được thúc đẩy bằng sức mạnh quân sự của kẻ chiến thắng mà các binh đoàn giờ đang sải bước trên lục địa châu Âu, đã đặt ra một thách thức đối với khái niệm của châu Âu về trạng thái cân bằng giữa các quốc gia có chủ quyền theo Hòa ước Westphalia ra sao. Do nhân danh tầm nhìn mới của nước này về tính chính danh, Nga đã mang đến sức mạnh quá mức cần thiết. Sa hoàng Alexander chấm dứt các cuộc Chiến tranh Napoleon bằng việc dẫn đầu đoàn quân của mình tiến vào Paris, và trong lễ kỷ niệm chiến thắng ông đã duyệt binh một lực lượng lớn chưa từng có tới 160.000 binh lính Nga trên vùng đồng bằng bên ngoài thủ đô Pháp, một sự phô trương không thể không khiến cho các nước lo ngại, kể cả các quốc gia đồng minh. Sau khi tham khảo ý kiến của cố vấn tôn giáo, Alexander đề xuất một dự thảo tuyên bố chung trong đó các nước thắng trận sẽ tuyên bố rằng “tiến trình quan hệ giữa các cường quốc trước đây cần phải thay đổi một cách căn bản, và điều cấp bách hiện nay là phải thay thế nó bằng một trật tự dựa trên những chân lý được ca tụng của tôn giáo vĩnh cửu của Đấng Cứu thế của chúng ta.”
Nhiệm vụ của các nhà đàm phán tại thành Vienna là biến tầm nhìn cứu tinh của Alexander thành một thứ tương thích với sự tiếp tục tồn tại độc lập của các quốc gia của họ và chào đón Nga vào trật tự quốc tế này mà không bị nó nghiền nát.
HỘI NGHỊ THÀNH VIENNA
Các chính khách tề tựu tại Vienna để thảo luận cách thức thiết kế một trật tự hòa bình đã trải qua một cơn lốc những biến động trong gần như từng giai đoạn thiết lập cấu trúc quyền lực. Trong khoảng thời gian 25 năm, họ đã chứng kiến sự hữu lý của thời kỳ Khai sáng bị thay thế bởi những cảm xúc mạnh mẽ của thời kỳ Khủng bố; tinh thần truyền giáo của Cách mạng Pháp bị biến đổi bởi kỷ luật của đế chế Bonaparte xâm lược. Quyền lực Pháp thịnh rồi suy. Nó đã tràn qua biên giới xa xưa của Pháp, chinh phục gần như tất cả lục địa châu Âu, rồi chỉ để gần như bị tiêu vong trong sự rộng lớn của Nga.
Bản thân công sứ Pháp tại Hội nghị thành Vienna là hiện thân cho những biến động dường như vô bờ của thời đại. Charles-Maurice de Talleyrand-Périgord (thường được biết đến dưới cái tên Talleyrand) dường như có mặt ở khắp nơi. Ban đầu, ông là Tổng Giám mục Autun, sau đó ông rời Giáo hội để ủng hộ Cách mạng, rồi từ bỏ Cách mạng để giữ chức ngoại trưởng cho Napoleon, rồi ông từ bỏ Napoleon để đàm phán về việc khôi phục lại vương triều Bourbons và xuất hiện ở thành Vienna trên cương vị ngoại trưởng của Vua Louis XVIII. Nhiều người gọi Talleyrand là một kẻ cơ hội. Talleyrand biện luận rằng mục tiêu của ông là sự ổn định trong lòng nước Pháp và hòa bình ở châu Âu, và rằng ông đã nắm lấy bất kỳ cơ hội sẵn có nào để đạt được những mục tiêu này. Ông chắc chắn đã nỗ lực giành được những vị trí có thể nghiên cứu những yếu tố khác nhau của quyền lực và tính chính danh trong phạm vi của mình mà không bị quá ràng buộc bởi bất cứ vị trí nào. Chỉ có một tính cách rất mạnh mẽ mới có thể đưa ông vào trung tâm của rất nhiều sự kiện lớn, đầy mâu thuẫn như vậy.
Tại Vienna, đóng góp của Talleyrand là giành được cho Pháp một nền hòa bình mà trong đó “biên giới xa xưa” tồn tại khi nước này mới bắt đầu những cuộc phiêu lưu ra bên ngoài được giữ nguyên. Và trong vòng chưa đầy ba năm, vào năm 1818, ông đã xoay xở để Pháp gia nhập Đồng minh Bốn nước[72]. Kẻ thù bại trận trở thành một đồng minh để bảo vệ trật tự châu Âu trong một liên minh vốn được thiết lập để kiềm chế nó – một tiền lệ được tiếp nối sau khi Thế chiến II chấm dứt, khi Đức được chấp nhận gia nhập vào Liên minh phòng thủ Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Trật tự được thiết lập tại Hội nghị thành Vienna là trật tự gần nhất mà châu Âu đang tiến đến sự cai trị chung kể từ sự sụp đổ của Đế quốc Charlemagne. Trật tự này tạo ra một sự đồng thuận rằng những tiến triển hòa bình trong lòng trật tự hiện có là thích hợp hơn so với những lựa chọn thay thế; rằng việc duy trì hệ thống là quan trọng hơn bất kỳ tranh chấp nào có thể phát sinh bên trong nó; và rằng những khác biệt cần được giải quyết thông qua tham vấn, chứ không phải bằng chiến tranh.
Sau khi Thế chiến I đặt dấu chấm hết cho quan điểm này, việc chỉ trích nó trở nên phổ biến khi cho rằng trật tự được thiết lập tại Hội nghị thành Vienna là đã quá dựa trên sự cân bằng quyền lực vốn đầy những hành động không tin tưởng lẫn nhau đã đẩy thế giới vào chiến tranh. (Phái đoàn Anh yêu cầu nhà sử học về ngoại giao C.K. Webster – người đã viết về Hội nghị thành Vienna – viết một chuyên luận về cách làm thế nào để tránh những sai lầm đó.) Nhưng điều đó, nếu có đúng, thì chỉ xảy ra trong thập kỷ trước Thế chiến I. Giai đoạn từ năm 1815 đến khi chuyển giao thế kỷ này là thời kỳ yên bình nhất của châu Âu hiện đại và những thập kỷ tiếp ngay sau Hội nghị thành Vienna được đặc trưng bởi một sự cân bằng đặc biệt giữa tính chính danh và quyền lực.
Các chính khách gặp nhau tại Vienna vào năm 1814 ở trong một tình huống hoàn toàn khác với những vị tiền nhiệm của họ, những người đã soạn thảo Hòa ước Westphalia. Một thế kỷ rưỡi trước đó, một loạt những dàn xếp của nhiều cuộc chiến tranh khác nhau làm nên cuộc Chiến tranh Ba mươi năm đã được kết hợp với một bộ nguyên tắc ứng xử chung về chính sách đối ngoại. Trật tự châu Âu mới nổi sử dụng những thực thể chính trị hiện có nhưng đã thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo làm điểm khởi đầu. Khi đó, việc áp dụng các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia được kỳ vọng sẽ tạo ra một sự cân bằng quyền lực để ngăn chặn hay ít nhất là giảm thiểu xung đột. Trong suốt một thế kỷ rưỡi tiếp theo, hệ thống này đã nỗ lực kiềm chế những kẻ thách thức trạng thái cân bằng thông qua sự thành lập ít nhiều mang tính tự phát của các liên minh đối kháng.
Các nhà đàm phán tại Hội nghị thành Vienna phải đối mặt với sự đổ vỡ của trật tự này. Sự cân bằng quyền lực đã không thể ngăn được chiều hướng quân sự của cuộc Cách mạng hay của Napoleon. Tính chính danh của chính quyền vương triều đã bị chôn vùi bởi nhiệt tình cách mạng và nghệ thuật cầm quân tài ba của Napoleon.
Một sự cân bằng quyền lực mới phải được xây dựng từ đống đổ nát của hệ thống nhà nước này và của Đế quốc La Mã Thần thánh – những tàn tích của nó đã bị Napoleon phá bỏ vào năm 1806, đặt dấu chấm hết cho những thể chế đã kéo dài một ngàn năm – và giữa những trào lưu mới của chủ nghĩa dân tộc bùng nổ khi quân đội Pháp chiếm đóng hầu hết lục địa châu Âu. Sự cân bằng đó phải có khả năng ngăn chặn sự xuất hiện trở lại của chủ nghĩa bành trướng Pháp, thứ chủ nghĩa đã đưa Pháp tới vị thế gần như bá chủ ở châu Âu, ngay cả khi sự xuất hiện của Nga mang lại mối nguy hiểm tương tự từ phía Đông.
Do đó, sự cân bằng ở Trung Âu cũng phải được xây dựng lại. Từng là triều đại thống trị trên lục địa châu Âu, giờ đây gia tộc Habsburg chỉ trị vì trên những vùng lãnh thổ của tổ tiên họ từ Vienna. Những vùng lãnh thổ này rộng lớn và nhiều thứ tiếng (bao gồm hầu hết Áo, Hungary, Croatia, Slovenia và miền Nam Ba Lan ngày nay) và hiện không có sự gắn kết về chính trị rõ ràng. Những hành động cơ hội chủ nghĩa của một số bang nhỏ hơn của Đức đã tạo ra những linh hoạt nhất định trong hoạt động ngoại giao của hệ thống Hòa ước Westphalia vào thế kỷ 18, và các cuộc chinh phạt của Napoleon đã xóa sạch các nước này. Lãnh thổ của họ bị phân chia lại theo cách tương thích với trạng thái cân bằng mới tìm lại được.
Phương thức tiến hành ngoại giao tại Hội nghị thành Vienna khác căn bản so với tập quán trong thế kỷ 21. Những nhà ngoại giao ngày nay có sự liên hệ ngay lập tức với thủ đô của họ. Họ nhận được những chỉ thị tỉ mỉ, chi tiết tới từng câu chữ trong các bài phát biểu của mình; họ được yêu cầu tư vấn về tình hình nước sở tại và đôi khi về những vấn đề chiến lược lớn. Còn các nhà ngoại giao tại Vienna cách thủ đô của họ hàng tuần đi lại. Phải mất bốn ngày một thông điệp từ Vienna mới tới Berlin (như vậy phải mất ít nhất tám ngày để nhận được câu trả lời cho bất kỳ lời xin chỉ thị nào), ba tuần cho một thông điệp tới Paris; và tới London lâu hơn thế một chút. Do đó, các chỉ thị đã được soạn thảo theo những ngôn ngữ đủ chung chung để có thể áp dụng cho những thay đổi trong tình hình mới, vì vậy các nhà ngoại giao nhận chỉ thị chủ yếu về những khái niệm chung và lợi ích trong dài hạn; còn liên quan đến chiến thuật hằng ngày, họ hoàn toàn chủ động. Sa hoàng Alexander I cách thủ đô của mình hai tháng đi lại, nhưng ông ta không cần một chỉ thị nào; ý tưởng tùy hứng của ông ta là mệnh lệnh của Nga, và ông ta khiến cho Hội nghị thành Vienna bận rộn với trí tưởng tượng phong phú của mình. Ngoại trưởng Áo Klemens von Metternich có lẽ là chính khách sắc sảo và kinh nghiệm nhất tại Vienna, nói rằng Alexander “quá yếu đuối cho tham vọng thực sự, nhưng quá mạnh cho sự hư danh thuần túy.” Napoleon nói rằng Alexander có những tài năng lớn nhưng luôn thiếu “cái gì đó” trong bất kỳ điều gì ông ta làm. Và do không ai có thể đoán trước được điều còn thiếu là gì trong bất kỳ trường hợp nào, nên ông ta hoàn toàn không thể đoán trước được. Talleyrand nói thẳng hơn: “Có lý do để tin rằng ông ta chính là con trai của Sa hoàng Paul [điên rồ].”
Các thành viên khác tại Hội nghị thành Vienna đồng ý về những nguyên tắc chung của trật tự quốc tế và về sự cấp thiết phải đưa châu Âu trở lại một trạng thái cân bằng nào đó. Nhưng họ không thống nhất về việc trạng thái cân bằng sẽ như thế nào trên thực tế. Nhiệm vụ của họ là đạt được thỏa hiệp giữa các quan điểm đã được định hình bởi những kinh nghiệm lịch sử khác nhau về bản chất. Anh định nghĩa trật tự trên cơ sở những mối đe dọa bá quyền ở lục địa châu Âu. Nhưng các nước trong lục địa nhận thức về mối đe dọa ở mức thấp hơn; an ninh của họ có thể bị suy yếu bởi những điều chỉnh lãnh thổ chứ không cần đến bá quyền trên lục địa. Quan trọng hơn cả, không như Anh, các nước châu Âu cảm thấy dễ bị tổn thương trước những biến động trong nội bộ các nước láng giềng.
Hội nghị thành Vienna tương đối dễ dàng thống nhất một định nghĩa về sự cân bằng chung. Ngay trong chiến tranh, năm 1804, Thủ tướng Anh khi đó là William Pitt đã đưa ra một kế hoạch để khắc phục những gì ông coi là điểm yếu trong Hòa ước Westphalia. Các điều ước Westphalia đã khiến Trung Âu bị chia rẽ để làm gia tăng ảnh hưởng của Pháp. Để ngăn chặn những ham muốn thôn tính, Pitt lập luận phải tạo ra “đám đông quần chúng” ở Trung Âu để hợp nhất vùng này bằng cách sáp nhập một số bang nhỏ hơn. (“Hợp nhất” là một thuật ngữ tương đối, vì nó vẫn để lại 37 bang trong khu vực thuộc Đức ngày nay). Ứng viên hiển nhiên có thể sáp nhập được các công quốc bị bãi bỏ này là Phổ. Nước này ban đầu mong muốn sáp nhập thêm xứ Saxony láng giềng, nhưng thay vào đó đành chấp nhận xứ Rhineland do nước Áo và Anh khẩn khoản yêu cầu. Sự mở rộng này của Phổ đặt một cường quốc đáng kể cạnh biên giới của Pháp, tạo ra một thực tế địa chiến lược chưa hề tồn tại kể từ Hòa ước Westphalia.
37 bang còn lại của Đức được tập hợp lại thành một chủ thể gọi là Liên bang Đức, Liên bang này sẽ mang đến câu trả lời cho tình trạng tiến thoái lưỡng nan liên quan đến châu Âu của Đức: Khi Đức yếu, nó mời gọi sự can thiệp từ bên ngoài (chủ yếu là từ Pháp); khi thống nhất, nước này trở nên đủ mạnh để có thể một mình đánh bại các nước láng giềng, khiến họ thấy cần kết hợp với nhau để chống lại mối đe dọa này. Theo ý nghĩa đó, trong phần lớn lịch sử, Đức hoặc quá yếu hoặc quá mạnh cho nền hòa bình ở châu Âu.
Liên bang Đức quá chia rẽ để có hành động tấn công, nhưng đủ cố kết để chống lại những cuộc xâm lược của nước ngoài vào lãnh thổ của mình. Sự sắp xếp này tạo ra một trở ngại cho những cuộc xâm lăng vào Trung Âu mà không tạo ra mối đe dọa đối với hai cường quốc lớn ở hai bên sườn của nó, Nga về phía đông và Pháp về phía tây.
Để bảo vệ toàn bộ những dàn xếp mới này về lãnh thổ, Anh, Phổ, Áo, và Nga đã hình thành Liên minh Bốn nước. Một sự đảm bảo lãnh thổ – vốn là ý nghĩa của Liên minh Bốn nước – không có tầm quan trọng như nhau đối với mỗi bên ký kết. Mức độ cấp bách của mỗi mối đe dọa được nhận thức khác nhau đáng kể. Anh, với sự thống trị trên biển, cảm thấy tự tin khi từ chối những cam kết cụ thể trước các tình huống bất trắc và muốn đợi đến khi một mối đe dọa lớn từ châu Âu định hình cụ thể. Các nước trong lục địa có cách hiểu hẹp hơn về an ninh, các nước này đánh giá rằng sự sống còn của họ có thể bị đe dọa từ những hành động ít nghiêm trọng hơn nhiều so với những hành động có thể khiến Anh phải báo động.
Điều này đặc biệt đúng khi phải đối mặt với một cuộc cách mạng, đó là khi mối đe dọa liên quan đến tính chính danh. Các quốc gia bảo thủ tìm cách dựng lên những tấm khiên bảo vệ chống lại một làn sóng cách mạng mới; các nước này bổ sung các cơ chế giúp bảo toàn trật tự chính danh – tức là sự trị vì của chế độ quân chủ theo cách hiểu của họ. Liên minh Thần thánh do Sa hoàng đề xuất tạo ra một cơ chế bảo vệ sự nguyên trạng trong khắp các nước châu Âu. Những người đồng nhiệm của ông tìm thấy trong Liên minh Thần thánh vốn được thiết kế lại một cách tinh tế một cách thức để kiềm chế sự nồng nhiệt của Nga. Như các điều khoản cuối cùng được quy định, quyền can thiệp được giới hạn vì nó chỉ có thể được thực hiện khi có sự đồng thuận; theo cách này, Áo và Phổ giữ quyền phủ quyết đối với những kế hoạch cao hứng hơn của Sa hoàng.
Ba tầng các thể chế là bệ đỡ của hệ thống Vienna: Liên minh Bốn nước để đánh bại những thách thức đối với trật tự lãnh thổ; Liên minh Thần thánh để chế ngự những mối đe dọa đối với các thiết chế trong nước; và một sự đồng thuận của các cường quốc được thể chế hóa thông qua những hội nghị ngoại giao định kỳ của những nhà lãnh đạo chính phủ của các liên minh để xác định mục đích chung hoặc để đối phó với những cuộc khủng hoảng mới xuất hiện. Cơ chế đồng thuận này vận hành như một tiền thân của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Các hội nghị của nó đã có hành động cụ thể trước một loạt các cuộc khủng hoảng, cố gắng chắt lọc một tiến trình chung: Những cuộc cách mạng ở Naples năm 1820 (bị Liên minh Thần thánh dập tắt) và ở Tây Ban Nha giai đoạn 1820-1823 (bị Pháp dập tắt), cuộc cách mạng và chiến tranh giành độc lập của Hy Lạp giai đoạn 1821-1832 (cuối cùng được Anh, Pháp, và Nga ủng hộ). Sự đồng thuận của các cường quốc không đảm bảo một sự thống nhất về quan điểm, nhưng trong từng trường hợp một cuộc khủng hoảng chực chờ bùng nổ đã được giải quyết mà không xảy ra chiến tranh giữa các cường quốc lớn.
Một ví dụ tốt về tính hiệu quả của hệ thống Vienna là phản ứng của nó với cuộc cách mạng Bỉ năm 1830, khi đó tìm cách tách nước Bỉ ngày nay khỏi Vương quốc liên hiệp Hà Lan. Trong hầu hết thế kỷ 18, các đạo quân đã hành quân trên vùng đất khi đó là một tỉnh của Hà Lan này nhằm tìm kiếm sự thống trị ở châu Âu. Đối với Anh, với chiến lược toàn cầu dựa trên việc kiểm soát các đại dương, cửa sông Scheldt (tại đó có cảng Antwerp nằm trên tuyến đường xuyên qua Eo biển Manche) cần phải ở trong tay của một nước thân thiện, và trong mọi trường hợp không bao giờ được thuộc về một nước lớn ở châu Âu. Rốt cuộc, một hội nghị của các cường quốc châu Âu ở London đã xây dựng một cách tiếp cận mới, công nhận nền độc lập của Bỉ trong khi tuyên bố quốc gia mới này “trung lập,” một khái niệm đến tận khi đó chưa từng tồn tại trong mối quan hệ giữa các cường quốc, ngoại trừ là một tuyên bố đơn phương có chủ đích. Quốc gia mới đồng ý không tham gia các liên minh quân sự hay cho phép quân đội nước ngoài đóng quân trên lãnh thổ nước mình. Cam kết này đến lượt nó được các cường quốc lớn đảm bảo, và bởi vậy các cường quốc có nghĩa vụ chống lại những hành vi vi phạm tính trung lập của Bỉ. Trạng thái được quốc tế đảm bảo này kéo dài gần một thế kỷ; cho đến khi quân đội Đức mở đường sang Pháp qua lãnh thổ Bỉ và kéo Anh vào Thế chiến I.
Sức sống của một trật tự quốc tế được phản ánh trong sự cân bằng (mà nó duy trì được) giữa tính chính danh và quyền lực và tầm quan trọng tương đối của từng yếu tố đó. Không yếu tố nào được thiết kế để ngăn chặn sự thay đổi; đúng hơn, cả hai yếu tố này nhằm đảm bảo rằng sự thay đổi, nếu có, sẽ là sự tiến hóa chứ không phải một cuộc đấu trí trần trụi. Nếu sự cân bằng giữa quyền lực và tính chính danh được dàn xếp hợp lý, các hành động sẽ đạt được sự tự nhiên ở mức độ nhất định. Phô trương sức mạnh sẽ chỉ ở vùng ngoại vi và phần lớn mang tính biểu tượng; vì các bên nhìn chung đều hiểu cấu trúc lực lượng và không bên nào thấy cần thiết phải huy động toàn bộ lực lượng dự bị của mình. Khi sự cân bằng đó bị phá hủy, những kiềm chế biến mất và vùng đất này được mở ra cho những đòi hỏi lãnh thổ bành trướng nhất và những kẻ tham lam nhất; hỗn loạn sẽ tiếp nối cho đến khi một hệ thống trật tự mới được thiết lập.
Sự cân bằng đó là thành tựu nổi bật của Hội nghị thành Vienna. Đồng minh Bốn nước răn đe những thách thức đối với sự cân bằng về lãnh thổ và ký ức về Napoleon khiến Pháp, vẫn đang kiệt quệ bởi cuộc cách mạng, phải im lặng. Đồng thời, thái độ đúng đắn về hòa bình đưa Pháp nhanh chóng sáp nhập trở lại vào nhóm các cường quốc vốn được hình thành để cản trở tham vọng của Pháp. Còn Áo, Phổ, và Nga, mà theo những nguyên tắc về cân bằng quyền lực đáng lẽ phải là đối thủ của nhau, trên thực tế lại theo đuổi các chính sách chung: Áo và Nga tạm gác lại xung đột địa chính trị sắp xảy ra vì chia sẻ lo ngại chung về biến động trong nước. Chỉ đến khi yếu tố chính danh trong trật tự quốc tế này bị rung chuyển bởi những cuộc cách mạng thất bại năm 1848, cân bằng mới ít được diễn giải là một trạng thái dựa trên những điều chỉnh chung và ngày càng được hiểu là một điều kiện để chuẩn bị cho một cuộc đấu giành thế thượng phong.
Khi yếu tố quyền lực ngày càng được nhấn mạnh hơn trong trạng thái cân bằng, vai trò duy trì sự cân bằng của Anh trở nên ngày càng quan trọng. Chỉ dấu của vai trò cân bằng của Anh là việc nước này được tự do hành động và quyết tâm hành động đã được minh chứng. Ngoại trưởng (sau này là Thủ tướng) của Anh Lord Palmerston đưa ra một minh họa kinh điển vào năm 1841 khi ông biết được thông điệp từ Sa hoàng, người đang tìm kiếm một cam kết dứt khoát của Anh để chống lại “khả năng Pháp tấn công những quyền tự do ở châu Âu.” Palmerston đáp: Anh coi “nỗ lực của một quốc gia nhằm giành và chiếm đoạt một lãnh thổ của một quốc gia khác” là một mối đe dọa, vì “một nỗ lực như vậy dẫn đến xáo trộn sự cân bằng quyền lực hiện tại và bằng việc thay đổi sức mạnh tương đối của các quốc gia, nỗ lực đó có chiều hướng tạo ra mối đe dọa đối với các cường quốc khác.” Tuy nhiên, nội các của Palmerston không thể gia nhập liên minh chính thức nào chống lại Pháp vì “sẽ là không bình thường khi Anh can dự vào những việc giả định – những trường hợp chưa phát sinh trên thực tế hoặc không sớm diễn ra.” Nói cách khác, cả Nga và Pháp đều không thể chắc chắn dựa vào sự hỗ trợ của Anh để chống lại nhau; cả hai nước cũng không thể loại trừ khả năng Anh ủng hộ vũ trang cho đối phương nếu một trong hai nước đẩy sự việc đến mức đe dọa trạng thái cân bằng ở châu Âu.
TIỀN ĐỀ CỦA TRẬT TỰ QUỐC TẾ
Trạng thái cân bằng tinh tế của hệ thống Hội nghị thành Vienna bắt đầu có dấu hiệu tan vỡ vào giữa thế kỷ 19 dưới tác động của ba sự kiện: sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, những cuộc cách mạng năm 1848 và cuộc Chiến tranh Crimea[73].
Dưới tác động của các cuộc chinh phạt của Napoléon, nhiều dân tộc đã từng sống với nhau từ nhiều thế kỷ đã bắt đầu coi người cai trị họ là “kẻ ngoại bang.” Nhà triết học người Đức Johann Gottfried von Herder trở thành một môn đệ của xu hướng này đã lập luận rằng mỗi dân tộc, được xác định bởi ngôn ngữ, quê hương, và văn hóa dân gian, đều có một năng lực nổi trội ban đầu và do đó có quyền tự quản. Nhà sử học Jacques Barzun đã miêu tả nó theo cách khác:
Đằng sau học thuyết này là thực tế, rằng các đạo quân cách mạng và của Napoleon đã vẽ lại bản đồ tinh thần của châu Âu. Thay thế cho thế giới của các triều đại và tầng lớp thượng lưu quy chiếu theo chiều ngang vào thế kỷ 18, phương Tây giờ đây gồm những thực thể quy chiếu theo chiều dọc là các quốc gia, không hoàn toàn tách biệt nhưng không giống nhau.
Chủ nghĩa dân tộc về mặt ngôn ngữ khiến những đế quốc truyền thống, đặc biệt là Đế quốc Áo-Hung dễ bị tổn thương trước áp lực nội bộ cũng như sự oán giận của những nước láng giềng, đã tuyên bố có mối liên hệ dân tộc với thần dân của đế quốc này.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa dân tộc cũng ảnh hưởng nhất định đến mối quan hệ giữa Phổ và Áo sau khi Hội nghị thành Vienna tạo ra những “đám đông quần chúng.” Sự cạnh tranh giữa hai cường quốc lớn nói tiếng Đức ở Trung Âu để giành lấy lòng trung thành của khoảng 35 bang nhỏ hơn trong Liên bang Đức ban đầu được kiểm soát bởi nhu cầu bảo vệ Trung Âu. Ngoài ra, truyền thống đã tạo ra một sự tôn trọng nhất định đối với nước có người trị vì là Hoàng đế La Mã Thần thánh trong một nửa thiên niên kỷ. Hội đồng Liên bang Đức (gồm đại sứ của 37 thành viên liên bang) gặp nhau ở Đại sứ quán Áo tại Frankfurt và Đại sứ Áo tại Đức là chủ tọa.
Trong lúc đó, Phổ cũng đang nỗ lực khẳng định thế thượng phong của mình. Với mục đích khắc phục những điểm yếu cố hữu do dân cư thưa thớt và đường biên giới rộng, nước Phổ nổi lên như một cường quốc ở châu Âu nhờ lãnh đạo nước này có khả năng chèo lái khi năng lực quốc gia ở mức cận biên trong hơn một thế kỷ, điều mà Otto von Bismarck (lãnh đạo Phổ hoàn thành quá trình này) gọi là những “quan nhiếp chính mạnh mẽ, quyết đoán và khôn ngoan, những người đã sử dụng quân đội và các nguồn lực tài chính một cách khôn khéo và nắm giữ chúng trong tay để ném vào cán cân chính trị châu Âu ngay khi cơ hội thuận lợi xuất hiện bằng sự quả cảm tới mức tàn nhẫn.”
Dàn xếp ở Hội nghị thành Vienna đã củng cố cơ cấu xã hội và chính trị của Phổ với cơ hội về mặt địa lý. Trải dài từ sông Vistula tới sông Rhine[74], lần đầu tiên trong lịch sử Phổ trở thành nơi gửi gắm niềm hy vọng thống nhất đất nước của người German. Trong nhiều thập kỷ, sự lệ thuộc tương đối của chính sách ở Phổ vào chính sách của Áo đã trở nên rất khó chịu, và Phổ bắt đầu theo đuổi một con đường mang tính đối đầu hơn.
Các cuộc cách mạng năm 1848 là ngọn lửa lan khắp châu Âu và ảnh hưởng đến mọi thành phố lớn. Khi tầng lớp trung lưu đang lên buộc các chính phủ ngoan cố phải chấp nhận cải cách tự do, trật tự quý tộc cũ nhận thấy sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc đang tăng lên. Ban đầu, các cuộc nổi dậy quét sạch tất cả những gì cản đường, trải dài từ Ba Lan ở phía đông cho đến miền viễn tây tận Colombia và Brazil (một đế quốc mới gần đây giành được độc lập từ Bồ Đào Nha, sau khi giữ vai trò chính phủ lưu vong trong các cuộc chiến tranh Napoleon). Ở Pháp, lịch sử dường như lặp lại khi cháu trai của Napoleon lên nắm quyền và trở thành Napoleon III, ban đầu là tổng thống trên cơ sở một cuộc trưng cầu dân ý và sau đó là hoàng đế.
Liên minh Thần thánh đã được thiết lập chính là để đối phó với những biến động như vậy. Nhưng cái ghế của những người cai trị ở Berlin và Vienna đã trở nên quá bấp bênh, những biến động đã quá rộng và ảnh hưởng của chúng quá lớn để có thể có một sự hợp sức. Nga với năng lực quốc gia của mình đã can thiệp chống lại cuộc cách mạng ở Hungary và ngăn được sự cai trị của Áo ở đó. Với những nước còn lại, trật tự cũ tỏ ra đủ mạnh để vượt qua những thách thức của cách mạng. Nhưng nó không bao giờ lấy lại được sự tự tin của giai đoạn trước.
Cuối cùng, cuộc Chiến tranh Crimea 1853-1856 đã chia rẽ sự thống nhất của các quốc gia bảo thủ – Áo, Phổ và Nga – vốn đã từng là một trong hai trụ cột quan trọng của trật tự quốc tế theo Hội nghị thành Vienna. Sự kết hợp này đã bảo vệ những thể chế hiện có trong các cuộc cách mạng; nó đã cô lập Pháp, nước trước đây làm rối loạn nền hòa bình. Giờ đây, một Napoleon khác đang thăm dò cơ hội để khẳng định mình theo nhiều hướng. Trong cuộc Chiến tranh Crimea, Napoleon tìm thấy phương sách để kết thúc sự cô lập của mình, bằng liên minh Pháp với nỗ lực lịch sử của Anh để ngăn chặn Nga vươn tới Constantinople và tiếp cận Địa Trung Hải. Liên kết này thực sự đã ngăn được bước tiến của Nga nhưng với cái giá của quan hệ bang giao ngày càng dễ đổ vỡ.
Cuộc xung đột đã bắt đầu không phải vì Crimea – mà Nga đã chinh phục từ một nước chư hầu của Đế quốc Ottoman vào thế kỷ 18 – mà về những tuyên bố tranh chấp của Pháp và Nga về việc thúc đẩy quyền của cộng đồng Thiên Chúa giáo được ưu ái ở Jerusalem, khi đó nằm trong Đế quốc Ottoman. Trong một tranh cãi về việc tôn giáo nào, Thiên Chúa giáo hay Chính Thống giáo, sẽ có quyền tiếp cận những thánh địa, Sa hoàng Nicholas I yêu cầu công nhận ông là “người bảo vệ” của tất cả thần dân Chính Thống giáo ở Đế quốc Ottoman, một phần dân số đáng kể trải dài trên khắp những lãnh thổ chiến lược. Yêu cầu này – phát triển thành quyền can thiệp vào công việc của nước khác – được diễn đạt bằng ngôn từ của những nguyên tắc đạo đức phổ quát nhưng xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền của Ottoman. Khi Đế quốc Ottoman khước từ, Nga lập tức tiến quân vào khu vực Balkan và gây ra những vụ đụng độ trên Biển Đen. Sau sáu tháng, lo ngại sự sụp đổ của Đế quốc Ottoman và cùng với nó là sự cân bằng châu Âu, Anh và Pháp đã tham chiến và đứng về phía Ottoman.
Kết quả là, các hệ thống liên minh của Hội nghị thành Vienna đã tan vỡ. Cuộc chiến tranh có tên như vậy vì lực lượng liên minh Pháp-Anh đã đổ bộ ở Crimea để bao vây thành phố Sevastopol, nơi có hạm đội Biển Đen của Nga; lực lượng Nga cầm cự được cuộc bao vây trong 11 tháng trước khi tự đánh chìm tàu của họ. Phổ duy trì trung lập. Áo đã dại dột khi quyết định tận dụng sự cô lập của Nga để cải thiện vị trí của mình ở khu vực Balkan, huy động quân đội Áo ở đó. Khi Nga yêu cầu trợ giúp, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và là Bộ trưởng Ngoại giao, Hoàng tử Schwarzenberg của Áo đã bình luận, “Chúng ta sẽ khiến thế giới kinh ngạc trước mức độ vô ơn của chúng ta.” Thay vào đó, Bộ Ngoại giao Áo đã hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Anh và Pháp về mặt ngoại giao, với những biện pháp gần như mang tính chất của một tối hậu thư.
Nỗ lực cô lập Nga kết thúc bằng sự cô lập Áo. Trong vòng hai năm, Napoleon xâm chiếm các vùng đất thuộc Áo tại Italy nhằm ủng hộ sự thống nhất nước này trong khi Nga bàng quan đứng ngoài. Trong nước Đức, Phổ đạt được sự tự do hành động. Trong vòng một thập kỷ, Otto von Bismarck bắt đầu con đường thống nhất Đức, loại Áo khỏi vai trò lịch sử là nước đại diện cho quốc gia người German, một lần nữa với sự chấp thuận của Nga. Áo nhận ra một bài học quá muộn rằng trong quan hệ quốc tế, danh tiếng về mức độ khả tín là tài sản quan trọng hơn sự phô diễn của sự khéo léo trong chiến thuật.
METTERNICH VÀ BISMARCK
Hai chính khách là đòn bẩy cho những thay đổi lớn lao này ở Đức và châu Âu: Ngoại trưởng Áo Klemens von Metternich và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng sau này là Thủ tướng Đức Otto von Bismarck. Sự tương phản giữa những di sản của hai chính khách hàng đầu Trung Âu trong thế kỷ đó cho thấy sự thay đổi về yếu tố quan trọng trong trật tự quốc tế châu Âu, chuyển từ tính chính danh sang quyền lực trong nửa sau của thế kỷ 19. Cả hai đều được nhìn nhận như nguyên mẫu của những người bảo thủ. Cả hai đều được ghi nhận như là những bậc thầy thao túng cán cân quyền lực, mà họ đúng là như vậy. Nhưng họ có quan niệm gần như trái ngược về trật tự quốc tế, thao túng cán cân quyền lực cho những mục đích hoàn toàn khác nhau và với những tác động trái ngược đối với nền hòa bình ở châu Âu và trên thế giới.
Chính sự bổ nhiệm của Metternich đã chứng thực tính chất quốc tế của xã hội thế kỷ 18. Ông được sinh ra ở Rhineland gần biên giới Pháp, học ở Strasbourg và Mainz. Metternich đến Áo năm 13 tuổi và từ năm 17 tuổi mới sống ở đó. Ông được bổ nhiệm làm ngoại trưởng vào năm 1809 và thủ tướng vào năm 1821, tại nhiệm cho đến năm 1848. Định mệnh đã đặt ông ở vị trí đứng đầu chính quyền dân sự trong một đế quốc cổ xưa đang ở giai đoạn đầu của sự suy tàn. Từng được coi là một trong những nước mạnh nhất và được quản trị tốt nhất ở châu Âu, Áo giờ đây dễ bị tổn thương vì vị trí trung tâm của nó đồng nghĩa với việc từng chấn động ở châu Âu đều khiến mặt đất ở đó rung chuyển. Tính chất đa ngôn ngữ khiến nước này dễ bị tổn thương trước làn sóng đang dâng cao của chủ nghĩa dân tộc, lực lượng mà một thế hệ trước đó gần như chưa từng được biết đến. Đối với Metternich, sự kiên định và độ tin cậy đã trở thành kim chỉ nam cho chính sách của ông:
Khi mọi thứ đều đang lung lay, điều tối cần thiết là phải có điều gì đó, bất luận là gì, không suy chuyển, để những kẻ bị mất mát có thể tìm thấy sự kết nối và những người đi lạc tìm được nơi trú ẩn.
Được sinh ra trong thời kỳ Khai sáng, những triết gia với sức mạnh của lý trí ảnh hưởng tới Metternich nhiều hơn là những người ủng hộ sức mạnh của vũ khí. Metternich bác bỏ việc không ngừng tìm kiếm các cách giải quyết những vấn đề trước mắt; ông coi việc tìm kiếm chân lý là nhiệm vụ quan trọng nhất của một chính khách. Theo quan điểm của ông, niềm tin rằng bất kỳ điều gì hình dung được cũng có thể đạt được là một ảo tưởng. Chân lý phải phản ánh một thực tế cơ bản về bản chất của con người và cấu trúc của xã hội. Bất kỳ điều gì càng có tầm ảnh hưởng lớn hơn, trên thực tế càng vi phạm những lý tưởng mà nó tuyên bố thực thi. Theo nghĩa này, “phát minh là kẻ thù của lịch sử, vì nó chỉ biết tới những khám phá và chỉ những gì tồn tại mới có thể khám phá được.”
Đối với Metternich, lợi ích quốc gia của Áo là một phép ẩn dụ về lợi ích chung của châu Âu, đó là làm thế nào để giữ được nhiều chủng tộc, dân tộc và ngôn ngữ trong một cấu trúc từng tôn trọng sự đa dạng và một di sản, đức tin và phong tục chung. Theo quan điểm đó, vai trò lịch sử của Áo là chứng thực cho tính đa nguyên, và do đó, cho nền hòa bình của châu Âu.
So với Metternich, Bismarck là người xuất thân trong một gia đình quý tộc Phổ ở tỉnh lẻ, nghèo hơn nhiều so với tầng lớp quý tộc ở phía Tây nước Đức và được coi là mang tính địa phương hơn. Trong khi Metternich cố gắng chứng thực cho tính liên tục và khôi phục lại ý tưởng phổ quát về một xã hội châu Âu, Bismarck thách thức tất cả những quan niệm thông thường đã được thiết lập trong thời kỳ của mình. Cho đến khi ông xuất hiện trên vũ đài (chính trị), người ta đã đương nhiên cho rằng sự thống nhất của Đức sẽ diễn ra, và nếu diễn ra, sẽ thông qua sự kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa tự do. Bismarck nỗ lực chứng minh rằng hai chiều hướng này có thể là riêng biệt, rằng không cần đến các nguyên tắc của Liên minh Thần thánh để duy trì trật tự, rằng một trật tự mới có thể được xây dựng dựa trên lời kêu gọi hướng tới chủ nghĩa dân tộc của những người bảo thủ, và rằng một khái niệm về trật tự châu Âu có thể dựa hoàn toàn trên đánh giá về quyền lực.
Sự bất đồng trong quan điểm của hai nhân vật có ảnh hưởng này về bản chất của trật tự quốc tế được phản ánh sâu sắc trong định nghĩa của họ về lợi ích quốc gia. Đối với Metternich, trật tự được duy trì không phải chủ yếu từ việc theo đuổi lợi ích quốc gia mà là từ khả năng kết nối lợi ích của quốc gia đó với lợi ích của các quốc gia khác:
*Các tiên đề lớn của khoa học chính trị xuất phát từ sự thừa nhận những lợi ích thực sự của tất cả các nước; chính trong lợi ích chung mới tìm thấy sự đảm bảo cho sự tồn tại, trong khi những lợi ích cụ thể – mà sự nuôi dưỡng những lợi ích này được những kẻ thiển cận luôn coi đó là sự khôn ngoan về mặt chính trị – chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Lịch sử hiện đại cho thấy việc áp dụng nguyên tắc đoàn kết và cân bằng… và những nỗ lực chung của các quốc gia… để buộc phải quay trở lại với thông luật.*
Bismarck bác bỏ lập luận rằng quyền lực có thể được hạn chế bởi nguyên tắc tối thượng. Những cách ngôn nổi tiếng của ông ủng hộ niềm tin rằng chỉ có thể đạt được sự đảm bảo an ninh bằng cách đánh giá đúng các thành tố của quyền lực:
Một chính sách theo cảm tính không cần biết sự có đi có lại… Mỗi chính phủ khác đều tìm kiếm tiêu chuẩn cho những hành động của mình hoàn toàn dựa trên lợi ích quốc gia, dẫu chính phủ đó có che đậy chúng bằng các suy diễn pháp lý… Không liên minh theo cảm tính quái quỷ nào nhận thức được về việc thực hiện một hành động tốt sẽ mang lại phần thưởng duy nhất cho sự hy sinh của chúng ta… Cơ sở lành mạnh duy nhất cho chính sách của một siêu cường… là tính ích kỷ chứ không phải là sự lãng mạn… Lòng biết ơn và sự tin tưởng sẽ không đưa người ta ra chiến trường chiến đấu vì chúng ta; chỉ có nỗi sợ mới làm được điều đó, nếu chúng ta sử dụng nó một cách thận trọng và khéo léo… Chính sách là nghệ thuật của các khả năng, là khoa học của sự tương đối.
Các quyết định cuối cùng sẽ phụ thuộc chặt chẽ vào việc cân nhắc tính hữu dụng. Trật tự châu Âu như từng thấy trong thế kỷ 18, như chiếc đồng hồ tuyệt vời của Newton với các bộ phận khớp nối vào nhau – đã bị thay thế bởi thế giới của Darwin nơi chỉ có kẻ mạnh nhất sống sót.
TÌNH TRẠNG TIẾN THOÁI LƯỠNG NAN CỦA CÂN BẰNG QUYỀN LỰC
Được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Phổ vào năm 1862, Bismarck bắt đầu thực thi những nguyên tắc của mình và biến đổi trật tự châu Âu. Trước những chế độ quân chủ bảo thủ ở phía đông bị chia rẽ sau cuộc Chiến tranh Crimea, Pháp bị lục địa châu Âu cô lập vì những ký ức mà người trị vì nước này đem lại, còn Áo ngả nghiêng giữa vai trò quốc gia và vai trò châu Âu của mình, Bismarck đã nhìn thấy cơ hội để mang lại một quốc gia-dân tộc Đức lần đầu tiên trong lịch sử. Bằng một vài hành động táo bạo từ năm 1862 đến năm 1870, ông đã đặt Phổ ở vị trí đứng đầu một nước Đức thống nhất và Đức ở trung tâm của một hệ thống trật tự mới.
Disraeli[75] gọi sự thống nhất của Đức vào năm 1871 là “một sự kiện chính trị lớn hơn cả Cách mạng Pháp” và kết luận rằng “sự cân bằng quyền lực đã hoàn toàn bị phá hủy.” Các trật tự châu Âu theo Hòa ước Westphalia và Hội nghị thành Vienna đã từng dựa trên một Trung Âu bị chia rẽ mà những áp lực cạnh tranh – giữa vô số bang của Đức trong dàn xếp ở Westphalia, và giữa Áo và Phổ trong kết quả của Hội nghị thành Vienna – sẽ cân bằng lẫn nhau. Điều xuất hiện sau sự thống nhất của Đức là một quốc gia quyền lực, đủ mạnh để đánh bại từng nước láng giềng riêng lẻ và có lẽ là tất cả các nước trên lục địa hợp sức lại. Sự ràng buộc bằng tính chính danh đã biến mất. Mọi thứ bây giờ phụ thuộc vào những tính toán về quyền lực.
Chiến thắng lớn nhất trong sự nghiệp của Bismarck cũng khiến cho sự vận hành của một sự cân bằng quyền lực linh hoạt khó khăn hơn, và có lẽ là không thể. Sự thảm bại của Pháp trong cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ từ năm 1870 đến năm 1871 mà Bismarck đã khôn khéo khiêu khích Pháp tuyên chiến, kéo theo đó là sự sáp nhập miền Alsace-Lorraine, một khoản bồi thường chiến tranh và sự tuyên bố thẳng thừng về Đế chế Đức trong Đại sảnh Gương của Điện Versailles vào năm 1871. Trật tự mới của châu Âu giờ chỉ nằm trong tay năm cường quốc lớn, hai trong số đó là Pháp và Đức ghẻ lạnh với nhau tới mức không thể vãn hồi.
Bismarck hiểu rằng một cường quốc có khả năng thống trị ngay giữa trung tâm châu Âu sẽ luôn phải đối mặt với nguy cơ đương đầu với một liên minh của tất cả các nước còn lại, giống như liên minh chống lại Vua Louis XIV trong thế kỷ 18 và Napoleon vào đầu thế kỷ 19. Chỉ có những hành xử kiềm chế nhất mới có thể tránh dẫn đến sự phản kháng tập thể của các nước láng giềng. Tất cả những nỗ lực của Bismarck sau đó đều là thực thi một loạt những hành vi thao túng tinh tế để ngăn chặn “cauchemar des coalitions” (cơn ác mộng của những liên minh) này, như cách ông gọi bằng cụm từ tiếng Pháp. Bismarck khuyến nghị rằng trong thế giới của năm nước, sẽ luôn là tốt hơn khi ở trong nhóm ba nước. Điều này dẫn đến hàng loạt các liên minh, những liên minh vừa chồng chéo vừa mâu thuẫn tới mức hoa mắt chóng mặt (ví dụ, liên minh với Áo và Hiệp ước Tái đảm bảo với Nga) nhằm để các cường quốc lớn khác (ngoại trừ Pháp không thể hòa giải) thấy có lợi khi cộng tác với Đức hơn là liên kết chống lại nước này.
Sự tài tình của hệ thống theo Hòa ước Westphalia mà Hội nghị thành Vienna đã điều chỉnh là tính linh hoạt và thực dụng của nó; phổ quát trong những tính toán của mình, hệ thống này trên lý thuyết có thể mở rộng tới bất kỳ khu vực nào và có thể giúp hợp nhất bất kỳ nỗ lực liên kết nào giữa các quốc gia. Với Đức được thống nhất và Pháp là một đối thủ cố định, hệ thống này mất đi tính linh hoạt của nó. Phải cần một thiên tài như Bismarck để duy trì mạng lưới các cam kết đối trọng với nhau, giữ được trạng thái cân bằng thông qua khả năng điêu luyện để ngăn chặn xung đột lớn trong nhiệm kỳ của mình. Nhưng một đất nước mà sự đảm bảo an ninh của nó phụ thuộc vào việc có một thiên tài trong mỗi thế hệ, thì đất nước đó đã tự đặt ra cho mình một nhiệm vụ mà chưa xã hội nào từng thực hiện được.
Sau khi Bismarck bị ép phải từ chức vào năm 1890 (sau mâu thuẫn với Kaiser Wilhelm II về phạm vi thẩm quyền của mình), hệ thống các liên minh chồng chéo của ông chỉ được duy trì một cách yếu ớt. Leo von Caprivi – Thủ tướng kế nhiệm – phàn nàn rằng trong khi Bismarck có thể tung hứng năm quả bóng trên không cùng một lúc, thì ông cảm thấy khó khăn ngay cả khi chỉ kiểm soát hai quả. Hiệp ước Tái đảm bảo với Nga không được gia hạn vào năm 1891 với lý do nó có phần không tương thích với liên minh với Áo, mà theo quan điểm của Bismarck, đây chính là tác dụng của nó. Gần như không thể tránh khỏi, Pháp và Nga bắt đầu thăm dò khả năng thành lập một liên minh. Những điều chỉnh lại như vậy đã xảy ra nhiều lần trước đây trong sự thay đổi liên tục trật tự ở châu Âu. Điều mới giờ đây là những gì thường xuyên diễn ra đã được thể chế hóa. Ngoại giao đã mất đi khả năng rút lại những gì đã thực hiện, ngoại giao đã trở thành một vấn đề sống còn chứ không phải là sự điều chỉnh dần dần. Bởi vì một sự thay đổi liên minh có thể là một thảm họa quốc gia cho bên bị bỏ rơi, mỗi đồng minh có thể giành được sự hỗ trợ từ đối tác của mình bất kể đối tác đó tin vào điều gì, do đó dẫn đến sự leo thang của tất cả các cuộc khủng hoảng và liên kết chúng với nhau. Ngoại giao trở thành một nỗ lực nhằm thắt chặt liên kết nội bộ trong từng phe, dẫn đến việc kéo dài và củng cố tất cả những nỗi bất bình.
Yếu tố linh hoạt cuối cùng đã bị mất khi Anh từ bỏ “sự biệt lập huy hoàng” của mình và gia nhập Entente Cordiale (Đồng minh Hữu nghị) của Pháp và Nga sau năm 1904. Nước này đã không thực hiện điều đó một cách chính thức mà trên thực tế thông qua các cuộc đàm phán cấp chuyên viên, tạo ra một nghĩa vụ đạo đức để chiến đấu bên cạnh các nước đối tác. Anh đã gạt sang một bên chính sách lâu nay của mình là duy trì sự cân bằng – một phần do chính sách ngoại giao của Đức mà trong một loạt các cuộc khủng hoảng liên quan đến Morocco và Bosnia, Đức đã tìm cách phá vỡ liên minh Pháp-Nga bằng cách lần lượt làm bẽ mặt từng thành viên của liên minh này (với Pháp về Morocco vào các năm 1905 và 1911, với Nga về Bosnia vào năm 1908). Bằng cách làm như vậy, Đức hy vọng gây ấn tượng với các nước rằng đồng minh của họ không đáng tin cậy. Cuối cùng, các chương trình quân sự của Đức đã mang lại một lực lượng hải quân lớn và ngày càng lớn mạnh, thách thức sự thống trị của Anh trên biển.
Kế hoạch quân sự tạo ra sự cứng nhắc. Kể từ Hội nghị thành Vienna, chỉ có một cuộc chiến tranh lớn ở châu Âu là Chiến tranh Crimea. (Cuộc Chiến tranh Pháp-Phổ chỉ giới hạn ở hai quốc gia tham chiến.) Cuộc chiến đó được tiến hành trên một vấn đề cụ thể và phục vụ những mục đích hạn chế. Bước sang thế kỷ 20, dựa trên những điều họ cho là các bài học về cơ giới hóa và phương pháp điều động quân, các nhà hoạch định quân sự bắt đầu nhắm tới mục tiêu toàn thắng trong cuộc chiến tranh tổng lực. Một hệ thống đường sắt cho phép sự chuyển quân nhanh chóng. Với lực lượng dự bị lớn ở tất cả các bên, tốc độ huy động quân trở thành điều cốt tử. Chiến lược của Đức – Kế hoạch Schlieffen[76] nổi tiếng – dựa trên đánh giá rằng Đức cần đánh bại một trong những nước láng giềng của nó trước khi nước đó có thể kết hợp với những nước khác tấn công Đức từ phía đông và phía tây. Từ đó, đánh phủ đầu đã được đưa vào các kế hoạch quân sự của nước này. Các nước láng giềng của Đức buộc phải thảo luận với nhau; họ phải tăng tốc sự huy động quân và phối hợp hành động để giảm tác động của đòn tấn công của Đức. Lịch trình huy động quân chi phối hoạt động ngoại giao; nếu các nhà lãnh đạo chính trị muốn kiểm soát những cân nhắc quân sự, thì ngoại giao đáng ra phải chi phối quân sự.
Ngoại giao, vốn vẫn theo những phương pháp truyền thống phần nào thong dong của mình, đã không nắm bắt được công nghệ mới nổi và hình thức chiến tranh do tác động của công nghệ này. Các nhà ngoại giao châu Âu vẫn tiếp tục cho rằng họ đang tham gia vào một nỗ lực chung. Cách tiếp cận đó của họ được củng cố vì không một cuộc khủng hoảng ngoại giao nào trước đó của thế kỷ mới từng đưa vấn đề tới điểm đổ vỡ. Trong hai cuộc khủng hoảng về Morocco và một cuộc khủng hoảng về Bosnia, lịch trình huy động quân không có tác động nào về mặt quân sự, vì dù việc sắp đặt quân có căng thẳng đến đâu, các sự kiện cũng không bao giờ leo thang tới điểm sự đối đầu sẽ xảy ra. Nghịch lý thay, chính thành công trong việc giải quyết các cuộc khủng hoảng này dẫn đến một hình thức chấp nhận rủi ro thiển cận mà không tính đến bất kỳ lợi ích nào thực sự bị đe dọa. Mọi người nghiễm nhiên cho rằng những nỗ lực giành chiến thắng mang tính chiến thuật vốn được báo chí theo chủ nghĩa dân tộc cổ vũ là một phương pháp thông thường để thực thi chính sách. Cũng được coi là đương nhiên khi các cường quốc có thể buộc nhau phải lùi bước sau hàng loạt những giằng co về các tranh chấp không liên quan đến nhau mà không bao giờ dẫn đến một sự đối đầu mang tính quyết định.
Nhưng lịch sử không sớm thì muộn sẽ trừng phạt sự thiếu nghiêm túc về mặt chiến lược này. Thế chiến I bùng nổ vì các nhà lãnh đạo chính trị mất kiểm soát chiến thuật của riêng mình. Gần một tháng sau vụ một kẻ dân tộc chủ nghĩa người Serbia ám sát Thái tử nước Áo vào tháng Sáu năm 1914, ngoại giao được tiến hành theo hình thức lề mề của nhiều cuộc khủng hoảng khác đã được khắc phục trong những thập kỷ trước đó. Bốn tuần trôi qua khi Áo chuẩn bị cho một tối hậu thư. Các tham vấn diễn ra; vì là giữa hè nên các chính khách đang đi nghỉ. Nhưng khi tối hậu thư của Áo được đệ trình vào tháng Bảy năm 1914, hạn chót của nó khiến việc ra quyết định trở thành điều vô cùng cấp thiết, và trong vòng chưa đầy hai tuần, châu Âu bước vào một cuộc chiến mà kể từ đó nó chưa bao giờ hồi phục.
Tất cả những quyết định này được thực hiện khi sự khác biệt giữa các cường quốc tỉ lệ nghịch với sự phô diễn sức mạnh của họ. Một khái niệm mới về tính chính danh – sự pha trộn giữa quốc gia và đế chế – đã xuất hiện, và không nước nào coi thể chế của những nước khác là mối đe dọa cơ bản đối với sự tồn tại của họ. Cán cân quyền lực hiện có cứng nhắc nhưng không mang tính áp đặt. Quan hệ giữa các quốc vương là thân thiện, thậm chí thân mật và như trong gia đình. Ngoại trừ Pháp cam kết giành lại miền Alsace-Lorraine, không một quốc gia lớn nào có những đòi hỏi về lãnh thổ của nước láng giềng. Tính chính danh và quyền lực đạt được sự cân bằng thực chất. Nhưng ở vùng Balkan giữa những tàn dư của các vùng đất thuộc Đế quốc Ottoman, có những nước mà Serbia ở tuyến đầu, đe dọa nước Áo bằng những tuyên bố về quyền tự quyết dân tộc chưa được thỏa mãn. Nếu bất kỳ nước lớn nào ủng hộ một tuyên bố như vậy, một cuộc chiến tranh lớn có thể xảy ra vì Áo có quan hệ liên minh với Đức như Nga với Pháp. Một cuộc chiến tranh mà những hậu quả của nó chưa từng được cân nhắc đã giáng xuống nền văn minh phương Tây vì một lý do hoàn toàn mang tính địa phương – vụ ám sát Thái tử Áo bởi một kẻ dân tộc chủ nghĩa người Serbia, giáng cho châu Âu một đòn nặng nề, xóa sạch mọi thành quả của một thế kỷ hòa bình và trật tự.
Trong 40 năm sau dàn xếp tại Hội nghị thành Vienna, trật tự châu Âu đã ngăn chặn các xung đột. Trong 40 năm sau sự thống nhất của Đức, hệ thống này làm tất cả các tranh chấp thêm trầm trọng. Không một nhà lãnh đạo nào thấy trước được quy mô của thảm họa sắp tới gần. Hệ thống của những sự đối đầu trở nên thường xuyên giữa họ cùng với máy móc quân sự hiện đại khiến thảm họa này không sớm thì muộn sẽ xảy ra. Và tất cả họ đều góp phần gây ra thảm họa này, nhưng lại không nhận thức được trên thực tế họ đang phá vỡ một trật tự quốc tế: Pháp với quyết tâm giành lại vùng Alsace-Lorraine, đồng nghĩa với việc có chiến tranh; Áo với sự lưỡng lự giữa các trách nhiệm quốc gia và trách nhiệm Trung Âu của mình; Đức với nỗ lực vượt qua nỗi sợ bị bao vây bằng việc liên tục săm soi Pháp và Nga, đồng thời xây dựng lực lượng hải quân, dường như bỏ qua những bài học lịch sử rằng Anh chắc chắn sẽ phản đối cường quốc lớn nhất trên lục địa châu Âu, nếu cường quốc đó đồng thời hành động như thể đe dọa sự vượt trội của hải quân Anh. Nga, bằng việc liên tục thăm dò tất cả các hướng, đồng thời đe dọa Áo và những nước nằm trong Đế quốc Ottoman trước đây. Và Anh, bằng sự mơ hồ đã che giấu việc nước này gia tăng cam kết với phe Đồng minh, dẫn đến sự bất lợi trong từng bước đi. Sự ủng hộ của nước này khiến Pháp và Nga thêm kiên quyết; chính sách bàng quan của nó khiến một vài nhà lãnh đạo Đức tin rằng Anh có thể giữ vị trí trung lập trong một cuộc chiến tranh ở châu Âu.
Suy ngẫm về những gì có thể đã xảy ra nếu lịch sử diễn biến khác đi thường là một việc làm vô ích. Nhưng cuộc chiến làm đảo lộn nền văn minh phương Tây này không phải là một sự cần thiết không thể tránh khỏi. Nó nảy sinh từ một loạt những tính toán sai lầm của các nhà lãnh đạo nghiêm túc, những người không hiểu được hậu quả của những kế hoạch của mình, và vòng xoáy cuối cùng bởi một cuộc tấn công khủng bố lại xảy ra trong cái năm mà đa số đều coi là khoảng thời gian yên bình. Cuối cùng, kế hoạch quân sự đã chi phối ngoại giao. Đây là một bài học mà các thế hệ tiếp theo không được phép quên.
TÍNH CHÍNH DANH VÀ QUYỀN LỰC GIỮA CÁC THẾ CHIẾN
Thế chiến I được chào đón bởi công chúng nhiệt tình và các nhà lãnh đạo phấn khích, những người hình dung một cuộc chiến vinh quang, ngắn ngủi với những mục tiêu hạn chế. Cuộc chiến đã giết chết hơn 25 triệu sinh mạng và làm sụp đổ trật tự quốc tế đang chiếm ưu thế khi đó. Những tính toán khôn ngoan về điều chỉnh lợi ích của cán cân châu Âu đã bị vứt bỏ, thay bằng ngoại giao đối đầu giữa hai liên minh cứng nhắc, và sau đó bị thiêu rụi bởi chiến tranh nơi chiến hào, gây ra thương vong chưa từng có từ trước đến nay. Trong thử thách cam go này, các Đế quốc Nga, Áo, và Ottoman hoàn toàn biến mất. Ở Nga, một cuộc nổi dậy của người dân nhân danh hiện đại hóa và cải cách tự do đã bị giới tinh hoa có vũ trang thâu tóm và tuyên bố một học thuyết cách mạng phổ quát. Sau khi rơi vào nạn đói và nội chiến, Nga và các vùng thuộc địa của nước này trở thành Liên bang Xô-viết, và khát khao của Dostoevsky về “một giáo hội chung vĩ đại trên Trái Đất” biến thành phong trào cộng sản trên toàn thế giới do Moscow dẫn dắt, bác bỏ tất cả những khái niệm hiện có về trật tự. Bismarck đã cảnh báo “Bất hạnh thay cho những chính khách khi lập luận cho việc tham chiến lúc chiến tranh đã kết thúc, không còn mang tính thuyết phục như khi nó bắt đầu.” Không nhà lãnh đạo nào bị cuốn vào chiến tranh trong tháng Tám năm 1914 sẽ làm như vậy nếu họ có thể thấy trước thế giới vào năm 1918.
Bàng hoàng trước cuộc tàn sát, các chính khách châu Âu cố gắng tạo nên một thời kỳ hậu chiến khác càng xa càng tốt với cuộc khủng hoảng mà họ nghĩ là đã dẫn đến cuộc Chiến tranh Vĩ đại, như được gọi khi đó. Họ xóa nhòa khỏi tâm trí gần như mọi bài học từ những nỗ lực trước đó để hình thành nên một trật tự quốc tế, đặc biệt là những bài học từ Hội nghị thành Vienna. Đó không phải là một quyết định vui vẻ. Hòa ước Versailles năm 1919 từ chối chấp nhận Đức trở lại trật tự châu Âu như Hội nghị thành Vienna đã từng chấp nhận một nước Pháp thua trận. Chính phủ cách mạng theo chủ nghĩa Marx-Lenin mới của Liên bang Xô-viết tuyên bố không bị ràng buộc bởi những khái niệm, hay hạn chế của một trật tự quốc tế, mà nước này đã đoán trước sự sụp đổ của nó; chính phủ này tham gia ở bên rìa ngoại giao châu Âu và chỉ được các cường quốc phương Tây công nhận một cách chậm chạp và miễn cưỡng. Trong năm nước tạo nên sự cân bằng châu Âu, Đế quốc Áo không còn; Nga và Đức bị loại trừ hoặc tự loại trừ; và Anh đang bắt đầu quay lại thái độ truyền thống của mình là can dự vào các vấn đề châu Âu chủ yếu chỉ để chống lại một mối đe dọa thực sự đến cán cân quyền lực chứ không phải để chặn trước một mối đe dọa tiềm tàng.
Ngoại giao truyền thống đã mang lại một thế kỷ hòa bình ở châu Âu bằng một trật tự quốc tế cân bằng một cách tinh tế giữa các yếu tố của quyền lực và của tính chính danh. Trong một phần tư còn lại của thế kỷ đó, sự cân bằng này đã chuyển sang dựa trên yếu tố quyền lực. Những người dự thảo dàn xếp của Hòa ước Versailles quay ngược lại yếu tố chính danh bằng cách tạo ra một trật tự quốc tế mà có thể được duy trì, nếu có, chỉ bởi việc kêu gọi tuân thủ những nguyên tắc chung, vì các yếu tố quyền lực đã bị phớt lờ hoặc bỏ lại trong tình trạng hỗn loạn. Nổi lên từ nguyên tắc tự quyết, vành đai các quốc gia nằm giữa Đức và Liên Xô tỏ ra quá yếu để chống lại một trong hai cường quốc này, khiến dễ dàng nảy sinh sự thông đồng, mặc cả giữa hai nước. Anh ngày càng thoái lui. Mỹ, sau khi quyết liệt bước vào cuộc chiến từ năm 1917 bất chấp sự miễn cưỡng ban đầu của công chúng, đã dần vỡ mộng bởi kết quả cuộc chiến và rút lui vào sự cô lập tương đối. Trách nhiệm mang lại yếu tố quyền lực do đó phần lớn rơi vào Pháp, vốn đã kiệt quệ bởi chiến tranh, tiêu hao nguồn nhân lực và sức chịu đựng tâm lý, ngày càng nhận thức được rằng sự chênh lệch về sức mạnh giữa nó và Đức có nguy cơ trở nên cố hữu.
Hiếm có một văn kiện ngoại giao nào lại chệch mục tiêu của mình như là Hòa ước Versailles. Trừng phạt quá mức nên không thể hòa giải, khoan dung quá mức nên không ngăn được Đức khôi phục, Hòa ước Versailles buộc các nền dân chủ kiệt quệ phải liên tục cảnh giác chống lại một nước Đức không thể hòa giải và khao khát phục thù cũng như một nước Liên Xô cách mạng.
Với việc Đức không được tham gia soạn thảo dàn xếp theo Hòa ước Versailles cũng như không phải đối đầu với một sự cân bằng quyền lực đủ rõ ràng để ngăn chặn những thách thức của nước này, trật tự theo Hòa ước Versailles gần như thách thức chủ nghĩa xét lại ở Đức. Đức chỉ có thể bị ngăn cản không được khẳng định ưu thế chiến lược tiềm năng của mình bởi các điều khoản phân biệt đối xử, vốn thách thức niềm tin đạo lý của Mỹ và của Anh, ở mức độ ngày càng tăng. Và một khi Đức bắt đầu thách thức dàn xếp này, các điều khoản của nó chỉ có thể được duy trì bằng việc sử dụng vũ khí của Pháp một cách tàn nhẫn hoặc sự can dự lâu dài vào các vấn đề thuộc lục địa châu Âu của Mỹ. Không điều nào trong hai điều trên có thể xảy ra.
Pháp đã trải qua ba thế kỷ để giữ cho Trung Âu ban đầu bị chia rẽ và sau đó là bị kiềm chế, lúc đầu bằng sức mạnh của mình và sau đó bằng việc liên minh với Nga. Nhưng sau Hòa ước Versailles, Pháp đã mất lựa chọn này. Pháp đã quá kiệt quệ bởi chiến tranh để có thể đóng vai trò sen đầm của châu Âu, và những dòng chảy chính trị chi phối Trung và Đông vượt quá khả năng thao túng của Pháp. Bị bỏ lại một mình để cân bằng với một nước Đức thống nhất, nước này có những nỗ lực miễn cưỡng để bảo vệ dàn xếp này bằng vũ lực, nhưng đã trở nên mất tinh thần khi cơn ác mộng lịch sử của nó tái diễn với sự xuất hiện của Hitler.
Các siêu cường nỗ lực thể chế hóa nỗi sợ chiến tranh thành một hình thức mới của trật tự quốc tế hòa bình. Một công thức mơ hồ về giải trừ vũ khí quốc tế được đưa ra, dù quá trình thực hiện bị hoãn lại cho tới những cuộc đàm phán sau này. Hội Quốc Liên và một loạt các điều ước trọng tài được đặt ra để thay thế những tranh chấp quyền lực bằng các cơ chế pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trong khi đa số các nước tham gia vào những cấu trúc mới này và mọi hình thức vi phạm hòa bình chính thức bị cấm, không một quốc gia nào tỏ ra sẵn sàng thực thi các điều khoản. Các cường quốc với nỗi bất bình hay mục tiêu bành trướng – như Đức, Nhật Bản, Italy của Mussolini – sớm nhận ra rằng không hề có hậu quả nghiêm trọng khi vi phạm các điều khoản với tư cách là thành viên của Hội Quốc Liên hay chỉ đơn giản là rút lui khỏi Hội Quốc Liên. Hai trật tự hậu chiến chồng chéo và mâu thuẫn nhau đã hình thành: Thế giới của các quy định và luật pháp quốc tế, chủ yếu là của những nền dân chủ phương Tây trong các mối quan hệ tương tác với nhau; và một khu vực không bị kiềm chế dành cho các cường quốc đã rút lui khỏi hệ thống những giới hạn này để được tự do hơn trong hành động. Lờ mờ phía sau và luôn tìm cơ hội chi phối cả hai thế giới này là Liên Xô, với khái niệm mang tính cách mạng của riêng mình về trật tự thế giới và cảnh báo nhấn chìm tất cả.
Cuối cùng, trật tự theo Hòa ước Versailles không đạt được tính chính danh hay trạng thái cân bằng. Sự yếu đuối gần như thảm hại của nó đã được chứng minh bởi Hiệp ước Locarno năm 1925, trong đó Đức “chấp nhận” những biên giới phía tây và việc phi quân sự hóa vùng Rhineland mà nó đã đồng ý trong thỏa thuận tại Versailles, nhưng dứt khoát từ chối đưa ra những bảo đảm tương tự đối với đường biên giới với Ba Lan và Tiệp Khắc, thể hiện rõ ràng tham vọng và nỗi bất bình sâu sắc của nước này. Thật ngạc nhiên, Pháp hoàn tất thỏa thuận của Hiệp ước Locarno dù thỏa thuận này chính thức để các đồng minh của Pháp ở Đông Âu bị hở sườn trước sự báo thù của Đức sớm muộn sẽ diễn ra, một gợi ý về những gì nước này sẽ làm ở một thập kỷ sau đó khi phải đối mặt với một thách thức thực sự.
Trong những năm 1920, Đức của Cộng hòa Weimar đánh vào lương tâm của phương Tây bằng cách nêu bật sự tương phản giữa tính không nhất quán và những trừng phạt trong thỏa thuận Versailles với những nguyên tắc lý tưởng hơn về trật tự quốc tế của Hội Quốc Liên. Lên nắm quyền vào năm 1933 nhờ phiếu bầu của những người dân Đức oán giận, Hitler chối bỏ tất cả những hạn chế đối với Đức. Ông ta đã tái vũ trang, vi phạm các điều khoản hòa bình trong Hòa ước Versailles và xé bỏ Hiệp ước Locarno khi tái chiếm vùng Rhineland. Khi những thách thức của ông ta không gặp phải phản ứng đáng kể nào, Hitler bắt đầu triệt phá từng nước ở Trung và Đông Âu, đầu tiên là Áo, tiếp theo là Tiệp Khắc, và cuối cùng là Ba Lan.
Bản chất của những thách thức này không giống như những năm 1930. Trong mọi kỷ nguyên, nhân loại sinh ra những cá nhân là quỷ dữ với những ý tưởng đàn áp hấp dẫn. Nhiệm vụ của các chính khách là ngăn chặn những cá nhân này lên nắm quyền và duy trì một trật tự quốc tế có khả năng răn đe khi các cá nhân đó giành được quyền lực. Sự kết hợp độc hại giữa chủ nghĩa hòa bình giả tạo, mất cân bằng về địa chính trị với tính không thống nhất của liên minh trong những năm giữa các cuộc chiến tranh đã cho phép những lực lượng này tự do hành động.
Châu Âu đã xây dựng một trật tự quốc tế từ 300 năm xung đột. Lục địa này đã vứt bỏ trật tự đó vì các nhà lãnh đạo đã không hiểu những hậu quả khi họ bước vào Thế chiến I, và dù họ có hiểu được những hậu quả của một thảm họa khác, họ chỉ chùn bước khi thấy trước những gì họ sẽ hành động. Sự sụp đổ của trật tự quốc tế về cơ bản là một câu chuyện về chối bỏ trách nhiệm, thậm chí là tự hủy diệt. Sau khi từ bỏ các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia và miễn cưỡng sử dụng vũ lực cần thiết để khẳng định giải pháp thay thế về đạo đức đã được tuyên bố, châu Âu giờ đây bị nhấn chìm trong một cuộc chiến mới, mà khi kết thúc, một lần nữa cho thấy cần phải lập lại trật tự châu Âu.
TRẬT TỰ CHÂU ÂU THỜI HẬU CHIẾN
Là kết quả của hai cuộc Thế chiến, khái niệm về chủ quyền theo Hòa ước Westphalia và các nguyên tắc cân bằng quyền lực bị suy giảm đáng kể trong trật tự đương đại ở lục địa châu Âu, nơi sản sinh những khái niệm và nguyên tắc này. Tàn dư của những khái niệm và nguyên tắc này sẽ tiếp tục, và có thể để lại hậu quả sâu sắc nhất ở một vài quốc gia được thành lập trong thời kỳ khám phá và mở rộng.
Đến cuối Thế chiến II, năng lực vật chất và tinh thần để đảm bảo trật tự thế giới của châu Âu đã hầu như biến mất. Mọi quốc gia ở châu Âu lục địa ngoại trừ Thụy Sĩ và Thụy Điển đều đã bị quân đội nước ngoài chiếm đóng vào lúc này hay lúc khác. Nền kinh tế của mọi nước đều ở trong tình trạng đổ nát. Rõ ràng là không một nước châu Âu nào (kể cả Thụy Sĩ và Thụy Điển) còn có thể tự định hình tương lai của chính mình được nữa.
Việc Tây Âu tìm thấy sức mạnh tinh thần để bước đi trên con đường tới một phương cách tiếp cận trật tự mới là tác phẩm của ba con người vĩ đại: Konrad Adenauer[77] ở Đức, Robert Schuman[78] ở Pháp, và Alcide de Gasperi[79] ở Italy. Được sinh ra và học hành trước Thế chiến I, họ vẫn giữ lại một số tín điều của triết học châu Âu xưa cũ về các điều kiện cải biến con người, điều này đem lại cho họ tầm nhìn và sức mạnh để vượt qua căn nguyên của những bi kịch ở châu Âu. Trong thời khắc mong manh nhất, họ vẫn giữ được một số khái niệm về trật tự từ thời thanh niên. Niềm tin quan trọng nhất của họ là nếu họ muốn cứu giúp cho người dân và ngăn ngừa những bi kịch của châu Âu tái diễn, họ cần vượt qua những chia rẽ lịch sử ở lục địa này và trên cơ sở đó tạo ra một trật tự châu Âu mới.
Họ phải đối đầu trước hết với một sự chia rẽ khác của châu Âu. Năm 1949, các đồng minh phương Tây kết hợp ba vùng chiếm đóng của họ để tạo ra nước Cộng hòa Liên bang Đức. Nga biến vùng chiếm đóng của mình thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa, gắn nó với Hiệp ước Warsaw. Đức trở lại vị trí của mình 300 năm trước sau Hòa ước Westphalia, sự chia rẽ của nó trở thành yếu tố chủ chốt của cấu trúc quốc tế mới đang nổi lên.
Pháp và Đức, hai nước mà sự kình địch giữa họ là trung tâm của mọi cuộc chiến tranh châu Âu trong ba thế kỷ, bắt đầu quá trình vượt qua giới hạn của lịch sử châu Âu bằng cách kết hợp các thành tố chủ chốt trong sức mạnh kinh tế còn lại của họ. Năm 1952, họ thành lập Cộng đồng Than Thép, bước đầu tiên hướng tới một “liên minh gần gũi hơn bao giờ hết” của nhân dân các nước châu Âu và là hòn đá tảng của một trật tự châu Âu mới.
Trong nhiều thập kỷ, Đức là thách thức chính đối với sự ổn định ở châu Âu. Trong thập kỷ đầu tiên của thời kỳ hậu chiến, chiều hướng lãnh đạo quốc gia của nước này rất quan trọng. Konrad Adenauer trở thành Thủ tướng của nước Cộng hòa Liên bang Đức mới ở tuổi 73, độ tuổi mà sự nghiệp của Bismarck gần kết thúc. Với phong thái quý tộc và sự nghi ngờ về chủ nghĩa dân túy, ông đã thành lập một đảng chính trị, Liên minh Dân chủ Thiên Chúa giáo, lần đầu tiên trong lịch sử nghị viện Đức nắm chính quyền như một đảng ôn hòa được đa số người dân ủy nhiệm. Với sự ủy nhiệm này, Adenauer cam kết giành lại niềm tin của các nạn nhân gần đây của Đức. Năm 1955, ông đưa Tây Đức vào Liên minh Đại Tây Dương. Cam kết với sự thống nhất châu Âu của Adenauer lớn tới mức trong những năm 1950, ông từ chối các đề xuất của Liên Xô gợi ý rằng Đức có thể thống nhất nếu Cộng hòa Liên bang Đức từ bỏ liên minh với phương Tây. Quyết định này chắc chắn không chỉ phản ánh một phán đoán sắc sảo về độ tin cậy trong những đề nghị của Liên Xô, mà nó còn là một nghi ngờ sâu sắc về khả năng xã hội của ông sẽ phải lặp lại hành trình đơn độc như một quốc gia dân tộc ở trung tâm lục địa châu Âu. Tuy nhiên, phải cần tới một lãnh đạo với sức mạnh ý chí lớn lao để có thể đặt một trật tự quốc tế mới trên nền tảng là sự chia cắt chính đất nước mình. Sự chia cắt Đức không phải một sự kiện mới trong lịch sử châu Âu; nó đã là cơ sở của các dàn xếp trong cả Hòa ước Westphalia và Hội nghị thành Vienna. Điều mới là Đức mới nổi công khai coi mình là một bộ phận của phương Tây trong cuộc đối đầu về bản chất của trật tự chính trị quốc tế. Đây là điểm trở nên quan trọng hơn bao giờ hết vì sự cân bằng quyền lực phần lớn được định hình bên ngoài lục địa châu Âu. Trong một nghìn năm, các dân tộc châu Âu đương nhiên coi bất kỳ biến động nào trong cán cân quyền lực với những yếu tố cấu thành cán cân đó là ở châu Âu. Thế giới của Chiến tranh Lạnh đang dần hình thành, tìm sự cân bằng của nó trong cách hành xử và vũ trang của hai siêu cường: Mỹ ở bên kia Đại Tây Dương và Liên Xô ở bên rìa châu Âu về mặt địa lý. Mỹ đã giúp tái khởi động nền kinh tế châu Âu với chương trình viện trợ Hy Lạp-Thổ Nhĩ Kỳ năm 1947 và Kế hoạch Marshall[80] năm 1948. Năm 1949, lần đầu tiên trong lịch sử của mình, Mỹ đã thiết lập một liên minh trong thời bình thông qua Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương.
Trạng thái cân bằng châu Âu, trong quá khứ do các quốc gia châu Âu tạo ra, giờ đã trở thành một khía cạnh trong chiến lược của các cường quốc bên ngoài. Liên minh Bắc Đại Tây Dương thiết lập một khuôn khổ tham vấn thường xuyên giữa Mỹ và châu Âu và sự cố kết nhất định trong việc thực thi chính sách đối ngoại. Nhưng trong bản chất, sự cân bằng quyền lực châu Âu chuyển từ các thỏa thuận nội bộ châu Âu sang việc ngăn chặn Liên Xô trên toàn cầu, chủ yếu bằng khả năng hạt nhân của Mỹ. Sau cú sốc của hai cuộc chiến tranh tàn phá, các nước Tây Âu phải đối mặt với sự thay đổi trong quan điểm về địa chính trị vốn thách thức ý thức của họ về bản sắc lịch sử.
Trật tự quốc tế trong giai đoạn đầu của Chiến tranh Lạnh trên thực tế là lưỡng cực, với sự vận hành của liên minh phương Tây chủ yếu do Mỹ điều hành, với tư cách là đối tác và là người hướng dẫn chính. Đối với Mỹ, liên minh không cần có quá nhiều quốc gia phối hợp hành động để duy trì trạng thái cân bằng, mà chỉ cần Mỹ đóng vai trò giám đốc điều hành của một doanh nghiệp liên doanh.
Sự cân bằng quyền lực của châu Âu trước đây trong lịch sử dựa trên sự bình đẳng giữa các thành viên; mỗi quốc gia góp một phần quyền lực của mình để tìm kiếm một mục tiêu chung và cơ bản là hạn chế, đó là trạng thái cân bằng. Nhưng Liên minh Bắc Đại Tây Dương, trong khi kết hợp lực lượng quân sự của các nước đồng minh trong một cấu trúc chung, lại chủ yếu được duy trì nhờ sức mạnh quân sự đơn phương của Mỹ, đặc biệt là nhờ khả năng răn đe hạt nhân của nước này. Chừng nào vũ khí hạt nhân chiến lược còn là yếu tố chủ yếu trong phòng thủ của châu Âu, mục tiêu của chính sách châu Âu chủ yếu là về khía cạnh tâm lý: Buộc Mỹ coi châu Âu như một phần mở rộng của mình trong trường hợp khẩn cấp.
Trật tự quốc tế thời kỳ Chiến tranh Lạnh phản ánh hai sự cân bằng mà lần đầu tiên trong lịch sử hầu như độc lập với nhau: Sự cân bằng hạt nhân giữa Liên Xô và Mỹ, sự cân bằng trong nội bộ Liên minh Bắc Đại Tây Dương mà sự vận hành của nó, theo những cách quan trọng, là yếu tố tâm lý. Thế ưu việt của Mỹ được thừa nhận để đổi lấy việc châu Âu có được sự bảo vệ bằng hạt nhân của Mỹ. Các quốc gia châu Âu xây dựng lực lượng quân sự của mình chủ yếu không phải để tăng thêm sức mạnh nhằm có tiếng nói trong các quyết định của liên minh, mà để được tham gia các thảo luận liên quan đến việc sử dụng khả năng răn đe của Mỹ. Pháp và Anh triển khai những lực lượng hạt nhân nhỏ, không liên quan đến sự cân bằng quyền lực chung, mà tạo ra một yêu cầu bổ sung để được một ghế tham gia vào quá trình ra quyết định của các cường quốc lớn.
Những thực tế của thời đại nguyên tử và sự gần gũi về mặt địa lý của Liên Xô duy trì liên minh này trong một thế hệ. Nhưng sự khác biệt cơ bản trong quan điểm sẽ lại xuất hiện cùng với sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào năm 1989.
Sau bốn thập kỷ Chiến tranh Lạnh, NATO đã có được sự kết thúc Chiến tranh Lạnh mà những người sáng lập liên minh này trước đó đã dự đoán. Sự sụp đổ của Bức tường Berlin vào năm 1989 nhanh chóng dẫn đến sự thống nhất của Đức, cùng với sự sụp đổ của quỹ đạo vệ tinh quanh Liên Xô, vành đai các quốc gia Đông Âu với hệ thống kiểm soát do Liên Xô thiết lập. Như một minh chứng cho tầm nhìn của các nhà lãnh đạo đồng minh, những người đã thiết kế Liên minh Bắc Đại Tây Dương và cho việc giám sát tài tình kết cục của Chiến tranh Lạnh, cuộc tranh giành châu Âu lần thứ ba trong thế kỷ đã kết thúc trong hòa bình. Đức đạt được sự thống nhất như một lời khẳng định của nền dân chủ tự do; nước này tái khẳng định cam kết của mình đối với sự thống nhất châu Âu như là một dự án của những giá trị chung và chia sẻ phát triển. Các quốc gia Đông Âu, bị áp chế trong 40 năm (một số nước lâu hơn) đã bắt đầu xuất hiện trở lại, trở thành các quốc gia độc lập và giành lại bản sắc của mình.
Sự sụp đổ của Liên Xô thay đổi trọng tâm của chính sách ngoại giao. Bản chất địa chính trị của trật tự châu Âu căn bản đã biến đổi khi không còn tồn tại một mối đe dọa quân sự thực chất từ bên trong châu Âu. Trong không khí hân hoan sau đó, các vấn đề truyền thống của trạng thái cân bằng bị vứt bỏ như là ngoại giao “kiểu cũ” và được thay thế bằng sự truyền bá những lý tưởng chung. Liên minh Bắc Đại Tây Dương, như bản thân nó giờ đây tuyên bố, cần quan tâm ít hơn đến vấn đề an ninh và nhiều hơn nữa về tầm ảnh hưởng chính trị của nó. Sự mở rộng của NATO tới tận biên giới Nga, thậm chí có lẽ bao gồm cả nước này, giờ đây được đề cập đến như một viễn cảnh nghiêm túc. Việc mở rộng một liên minh quân sự vào vùng đất có lịch sử tranh chấp cách Moscow vài trăm dặm được đề xuất trên cơ sở không phải chủ yếu là lý do an ninh mà như là một phương pháp hợp lý nhằm tiếp tục theo đuổi những thành quả của dân chủ.
Trước một mối đe dọa trực tiếp, trật tự quốc tế đã được coi như là cuộc đối đầu của hai khối đối lập do Mỹ và Liên Xô chi phối. Khi cường quốc Xô-viết suy yếu, ở một mức độ nào đó, thế giới trở nên đa cực và châu Âu nỗ lực xác định một bản sắc độc lập.
TƯƠNG LAI CỦA CHÂU ÂU
Châu Âu đã phải trải qua một hành trình để tới được thời điểm này. Châu Âu đã khám phá địa cầu, truyền bá những tập quán và giá trị của nó trên toàn thế giới. Mỗi thế kỷ trôi qua, châu Âu lại thay đổi cấu trúc nội bộ và sáng tạo ra những cách suy nghĩ mới về bản chất của trật tự quốc tế. Giờ đây ở đỉnh cao của một thời đại, và để tham gia vào thời đại này, châu Âu thấy phải gạt sang bên những cơ chế chính trị mà qua đó nó đã điều hành công việc của mình trong ba thế kỷ rưỡi. Bị thúc đẩy bởi mong muốn giảm nhẹ tác động từ sự thống nhất của Đức, Liên minh châu Âu đã hình thành một đồng tiền chung vào năm 2002 và một cơ cấu chính trị chính thức vào năm 2004. Liên minh châu Âu tuyên bố một châu Âu thống nhất, toàn thể và tự do, điều chỉnh những khác biệt của mình bằng các cơ chế hòa bình.
Sự thống nhất Đức làm thay đổi trạng thái cân bằng của châu Âu vì thực chất không một dàn xếp nào có thể thay đổi được thực tế rằng chỉ riêng Đức một lần nữa lại là quốc gia mạnh nhất châu Âu. Đồng tiền chung mang lại một mức độ thống nhất chưa từng thấy ở châu Âu kể từ thời Đế quốc La Mã Thần thánh. Liệu Liên minh châu Âu sẽ đạt được vai trò toàn cầu như hiến chương của nó tuyên bố, hay nó sẽ không thể cố kết các thành viên lại với nhau như đế chế của Charles V?
Cấu trúc mới, theo nghĩa nhất định, là sự từ bỏ Hòa ước Westphalia. Tuy nhiên, Liên minh châu Âu cũng có thể được hiểu là châu Âu trở lại hệ thống quan hệ quốc tế theo Hòa ước Westphalia mà nó đã tạo ra, mở rộng ra toàn cầu, được bảo vệ và được minh chứng qua phần lớn thời kỳ hiện đại, lần này như một siêu cường khu vực chứ không phải siêu cường quốc gia, như là một đơn vị mới trong cái giờ đây là phiên bản toàn cầu của hệ thống theo Hòa ước Westphalia.
Kết quả này đã kết hợp các khía cạnh của cả hai cách tiếp cận khu vực và quốc gia mà không, hay ít nhất là chưa, đảm bảo lợi ích đầy đủ của bất kỳ cách tiếp cận nào. Liên minh châu Âu giảm bớt chủ quyền và chức năng chính phủ truyền thống của các nước thành viên của nó, chẳng hạn như quyền kiểm soát tiền tệ và biên giới. Mặt khác, chính trị châu Âu vẫn chủ yếu mang tính quốc gia, và ở nhiều nước sự phản đối chính sách của Liên minh châu Âu đã trở thành vấn đề nội bộ chính. Kết quả là một cấu trúc tổng hợp, hợp hiến nào đó nằm giữa quốc gia và liên bang, vận hành thông qua các cuộc họp bộ trưởng và một bộ máy quan liêu chung, giống với Đế quốc La Mã Thần thánh hơn là châu Âu ở thế kỷ 19. Nhưng không như Đế quốc La Mã Thần thánh (ít nhất là trong hầu hết lịch sử của nó), Liên minh châu Âu phải vất vả giải quyết những căng thẳng nội bộ của mình trong cuộc tìm kiếm những nguyên tắc và mục tiêu định hướng cho mình. Trong quá trình đó, nó theo đuổi liên minh tiền tệ đồng thời với sự phân tán tài khóa và bộ máy quan liêu xung đột với dân chủ. Trong chính sách đối ngoại, nó theo đuổi những lý tưởng toàn cầu mà không có phương tiện để thực thi chúng, và theo đuổi bản sắc quốc tế xung đột với lòng trung thành với quốc gia. Cùng với sự thống nhất của châu Âu là sự chia rẽ đông-tây và bắc-nam và một thái độ đại kết đối với các phong trào đòi tự trị (Catalan, Bavarian, Scot) đe dọa sự toàn vẹn của các quốc gia. Tuy nhiên, “mô hình xã hội” của châu Âu phụ thuộc vào những người không cảm thấy thoải mái với sự năng động thị trường. Các chính sách của Liên minh châu Âu trân trọng việc đảm bảo tất cả mọi người đều được tham gia với một thái độ khoan dung, tiếp cận những ai không sẵn sàng bằng việc khẳng định những giá trị của riêng phương Tây, thậm chí cả khi các quốc gia thành viên có nền chính trị được thúc đẩy bởi nỗi sợ hãi về dòng người nước ngoài nhập cư vào châu Âu.
Kết quả là một chu kỳ kiểm tra tính chính danh của chính Liên minh châu Âu. Các nước châu Âu đã từ bỏ phần đáng kể của những gì từng được coi là thẩm quyền quốc gia của họ. Vì các nhà lãnh đạo châu Âu vẫn cần sự thông qua hay bị từ chối bởi các quá trình dân chủ quốc gia, họ thường thấy cần phải thực thi những chính sách có lợi cho quốc gia mình, và hệ quả là những tranh chấp kéo dài giữa các vùng khác nhau ở châu Âu, thường là về các vấn đề kinh tế. Đặc biệt trong các cuộc khủng hoảng như cuộc khủng hoảng bắt đầu từ năm 2009, cấu trúc châu Âu khi đó đi theo hướng các biện pháp khẩn cấp ngày càng mang tính xâm phạm, đơn giản chỉ để tồn tại. Tuy nhiên, khi công chúng được kêu gọi phải hy sinh cho “dự án châu Âu,” thì lại có thể không có hiểu biết rõ ràng về những nghĩa vụ của dự án này. Các nhà lãnh đạo sau đó phải đối mặt với lựa chọn bỏ qua ý muốn của nhân dân hoặc tuân theo ý muốn đó và đối lập với Brussels.
Châu Âu đã trở lại với câu hỏi mà nó bắt đầu, ngoại trừ việc giờ đây nó có tầm ảnh hưởng toàn cầu. Trật tự quốc tế nào có thể được rút ra từ những khát vọng đối lập và những xu hướng mâu thuẫn với nhau? Những nước nào sẽ là các thành phần của trật tự này và họ sẽ kết nối các chính sách của mình theo phương thức nào? Châu Âu cần sự thống nhất đến mức nào, và chịu được sự đa dạng đến mức nào? Nhưng vấn đề trái ngược trong dài hạn có lẽ còn căn bản hơn: Xét về lịch sử của mình, châu Âu phải duy trì sự đa dạng đến mức nào để đạt được một sự thống nhất có ý nghĩa?
Khi duy trì một hệ thống toàn cầu, châu Âu đại diện cho khái niệm chi phối về trật tự thế giới. Các chính khách của nó thiết kế những cấu trúc quốc tế và quy định chúng cho phần còn lại của thế giới. Ngày nay, bản chất của trật tự thế giới đang nổi lên này còn là vấn đề tranh cãi và những vùng bên ngoài châu Âu sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định các thành tố làm nên trật tự đó. Liệu có phải thế giới đang hướng tới những liên kết khu vực đóng vai trò như là các quốc gia trong hệ thống theo Hòa ước Westphalia? Nếu vậy, liệu sau đó sẽ có sự cân bằng, hay điều này sẽ làm giảm số lượng các quốc gia chủ chốt xuống mức còn quá ít, đến mức mà sự cứng nhắc trở nên không thể tránh khỏi và những nguy cơ đầu thế kỷ 20 quay trở lại, với những khối được xây dựng một cách cứng nhắc tìm cách triệt hạ lẫn nhau? Trong một thế giới mà những cấu trúc lục địa như Mỹ, Trung Quốc, và có thể là cả Ấn Độ và Brazil đã đạt đến điểm tới hạn, châu Âu sẽ xử lý quá trình chuyển đổi thành một đơn vị khu vực như thế nào? Cho đến nay, quá trình hội nhập đã được xử lý chủ yếu như là một vấn đề quan liêu của việc gia tăng thẩm quyền cho nhiều cơ quan hành chính châu Âu khác nhau, hay nói cách khác, là việc mô tả những gì quen thuộc. Động lực cho việc lập kế hoạch cam kết hướng nội để đạt được những mục tiêu này sẽ xuất hiện ở đâu? Lịch sử châu Âu đã chỉ ra rằng sự thống nhất chưa bao giờ đạt được chủ yếu bằng những thủ tục hành chính. Nó đòi hỏi nước đứng ra thống nhất – như Phổ ở Đức, vùng Piedmont ở Ý – mà nếu không có vai trò lãnh đạo của những nước này (và sự sẵn sàng tạo ra việc đã rồi) sự thống nhất sẽ vẫn chết yểu. Nước nào hay thiết chế nào sẽ đóng vai trò này? Hay một thiết chế mới hoặc nhóm nội khối nào đó sẽ phải được thiết lập để tìm hướng đi?
Và nếu châu Âu đạt được sự thống nhất, bằng bất kỳ con đường nào, lục địa này sẽ xác định vai trò toàn cầu của mình như thế nào? Nó có ba lựa chọn, hoặc thúc đẩy quan hệ đối tác Đại Tây Dương; hoặc chấp nhận một vị trí trung lập hơn bao giờ hết; hoặc hướng tới một hiệp ước ngầm với một hoặc một nhóm cường quốc ngoài châu Âu. Liệu lục địa này có tính đến thay đổi liên minh, hay nó tự nhận mình là một thành viên của khối Bắc Đại Tây Dương mà thường chấp nhận những lập trường tương thích? Châu Âu gắn bản thân nó với quá khứ nào của mình: Quá khứ gần đây của sự gắn kết Đại Tây Dương hay lịch sử xa hơn của việc lèo lái để giành lợi thế tối đa trên cơ sở lợi ích quốc gia? Nói tóm lại, liệu sẽ vẫn tồn tại một cộng đồng Đại Tây Dương, và nếu vậy, như tôi thiết tha hy vọng, cộng đồng này sẽ định nghĩa bản thân mình như thế nào?
Đây là một câu hỏi cả hai bờ Đại Tây Dương phải tự hỏi. Cộng đồng Đại Tây Dương không thể còn ý nghĩa chỉ bằng cách tiếp tục với những gì đã quen thuộc. Hợp tác để định hình các vấn đề chiến lược toàn cầu, các thành viên châu Âu của NATO trong nhiều trường hợp đã miêu tả chính sách của họ như là những chính sách của các nhà quản lý quy tắc một cách trung lập và các nhà phân phối viện trợ. Nhưng họ thường không biết chắc phải làm gì khi mô hình này bị bác bỏ hay việc thực hiện nó đi sai hướng. Một ý nghĩa cụ thể hơn cần phải được gắn cho mối quan hệ “đối tác Đại Tây Dương” thường được nhắc đến cho một thế hệ mới được định hình bởi những trải nghiệm khác so với thách thức từ Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh.
Sự tiến hóa chính trị của châu Âu về cơ bản là do người châu Âu quyết định. Nhưng các đối tác Đại Tây Dương của nó có lợi ích quan trọng trong đó. Liệu một châu Âu đang nổi lên sẽ trở thành một thành viên tích cực trong việc xây dựng một trật tự quốc tế mới, hay nó sẽ đắm chìm trong các vấn đề nội bộ của riêng mình? Chiến lược cân bằng quyền lực thuần túy của các cường quốc lớn truyền thống ở châu Âu không thể thực thi được trước thực tế địa chính trị và chiến lược đương đại. Nhưng tổ chức mới ra đời của những “quy tắc và chuẩn mực” của một tầng lớp tinh hoa toàn châu Âu cũng chưa thể tỏ ra là một phương tiện hiệu quả để thực hiện chiến lược toàn cầu, trừ khi kèm theo một số tính toán thực tế về địa chính trị.
Mỹ có mọi lý do từ lịch sử đến địa chính trị để ủng hộ Liên minh châu Âu và ngăn không cho liên minh này trôi vào một khoảng trống địa chính trị; nếu tách rời khỏi châu Âu về chính trị, kinh tế và quốc phòng, về phương diện địa chính trị Mỹ sẽ trở thành một hòn đảo ngoài khơi của lục địa Á-Âu, và bản thân châu Âu có thể biến thành vùng phụ cận của châu Á và Trung Đông.
Châu Âu, với vai trò gần như độc quyền trong việc thiết kế trật tự toàn cầu chưa đầy một thế kỷ trước đây, đang có nguy cơ tự tách mình khỏi cuộc tìm kiếm đương đại về trật tự thế giới bằng việc xác định xây dựng nội bộ là mục tiêu địa chính trị tối thượng. Với nhiều người, kết quả này là đỉnh cao của giấc mơ của nhiều thế hệ, một lục địa thống nhất trong hòa bình và cam kết từ bỏ những đấu đá quyền lực. Tuy nhiên, trong khi các giá trị mà châu Âu theo đuổi trong cách tiếp cận quyền lực mềm của mình thường mang lại cảm hứng cho các nước, rất ít khu vực khác thể hiện sự cống hiến cao độ đến vậy cho loại chính sách đơn nhất, và điều này làm gia tăng khả năng mất cân bằng. Châu Âu hướng nội đúng vào khi cuộc tìm kiếm một trật tự thế giới, mà nó đã góp phần đáng kể trong việc thiết kế trật tự đó, đang phải đối mặt với một thời điểm quan trọng mà hệ quả là bất kỳ khu vực nào không tham gia vào việc định hình trật tự đó có thể bị nhấn chìm. Vì thế, châu Âu thấy mình lơ lửng giữa một quá khứ mà nó đang tìm cách vượt qua và một tương lai mà nó vẫn chưa xác định được.