Trật Tự Thế Giới - Chương 04

Chương 4

MỸ VÀ IRAN: NHỮNG CÁCH TIẾP CẬN VỀ TRẬT TỰ

Mùa xuân năm 2013, Đại Giáo chủ (Ayatollah) Ali Khamenei, Lãnh đạo Tối cao của Cộng hòa Hồi giáo Iran – nhân vật từ trước tới nay luôn đứng trên tất cả các bộ trưởng chính phủ của Iran, kể cả tổng thống và bộ trưởng ngoại giao – phát biểu tại một hội nghị quốc tế của các giáo sĩ Hồi giáo, ca ngợi sự khởi đầu của một cuộc cách mạng toàn cầu mới. Ông tuyên bố cái mà những nơi khác gọi là “Mùa xuân Ả-rập”, trên thực tế chính là “Sự thức tỉnh Hồi giáo” về một kết cục bao trùm thế giới. Khamenei giải thích: phương Tây đã sai lầm khi đánh giá rằng những đám đông người biểu tình đại diện cho chiến thắng của dân chủ tự do. Những người biểu tình sẽ khước từ “trải nghiệm cay đắng và hãi hùng trong việc theo gót phương Tây về chính trị, hành vi, và lối sống” vì họ là hiện thân của “sự hiện thực hóa kỳ diệu những lời hứa thiêng liêng”:

Ngày nay những gì xuất hiện trước mắt chúng ta và không một cá nhân hiểu biết và thông minh nào có thể phủ nhận, đó là thế giới Hồi giáo giờ đây đã nổi lên từ bên lề những phương trình chính trị và xã hội của thế giới, nó đã tìm được một vị trí nổi bật và xuất chúng ở trung tâm của các sự kiện toàn cầu mang tính quyết định, và nó đưa ra một cái nhìn mới mẻ về cuộc sống, chính trị, chính quyền, và những phát triển xã hội.

Trong phân tích của Khamenei, sự thức tỉnh này của ý thức Hồi giáo đang mở ra cánh cửa cho một cuộc cách mạng tôn giáo toàn cầu cuối cùng sẽ đánh bại ảnh hưởng độc đoán của Mỹ cùng các đồng minh của nước này, chấm dứt ba thế kỷ thống trị của phương Tây:

Sự thức tỉnh Hồi giáo, điều mà những kẻ phát ngôn thuộc phe ngạo mạn và phản động thậm chí không dám nói tới, là một sự thật mà những dấu hiệu của nó có thể được chứng kiến gần như khắp nơi trong thế giới Hồi giáo. Dấu hiệu rõ ràng nhất của nó là sự nhiệt thành của dư luận, đặc biệt là trong giới trẻ, làm sống lại sự vinh quang và vĩ đại của Hồi giáo, trở nên ý thức được về bản chất của trật tự thống trị quốc tế và lột bỏ tấm mặt nạ đeo trên bộ mặt không biết xấu hổ, đầy áp bức và ngạo mạn của các chính quyền và các trung tâm đang áp bức người Hồi giáo và phi Hồi giáo ở phương Đông.

Khamenei cam kết, tiếp sau “sự thất bại của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tự do” và với việc sức mạnh và sự tự tin của phương Tây đang sụp đổ, Sự thức tỉnh Hồi giáo sẽ gây chấn động trên toàn thế giới, thống nhất ummah (cộng đồng tín đồ xuyên quốc gia) Hồi giáo toàn cầu và đưa nó trở lại vị trí trung tâm thế giới:

Mục tiêu cuối cùng này ít nhất sẽ tạo ra một nền văn minh Hồi giáo huy hoàng. Tất cả các bộ phận của Ummah Hồi giáo – dưới hình thức các quốc gia và đất nước khác nhau – cần đạt đến vị thế khai hóa văn minh đã được xác định trong Kinh Quran… Thông qua niềm tin tôn giáo, kiến thức, đạo đức, và cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ, nền văn minh Hồi giáo có thể đem đến tư tưởng tiến bộ và những nguyên tắc hành vi cao quý tới Ummah Hồi giáo và toàn thể nhân loại, và nó có thể là thời điểm giải thoát khỏi những quan điểm nặng về vật chất và áp bức cũng như những hành vi suy đồi, những thứ đã tạo thành các trụ cột của nền văn minh phương Tây hiện nay.

Trước đây, Khamenei đã nói cụ thể về vấn đề này. Năm 2011, khi ông đưa ra nhận xét trước khán giả thuộc lực lượng bán quân sự của Iran, các cuộc biểu tình phổ biến ở phương Tây kêu gọi niềm khao khát toàn cầu về tâm linh và tính chính danh như được minh họa bởi nền chính trị thần quyền của Iran. Một cuộc cách mạng thế giới đang chờ đợi:

Những tiến triển ở Mỹ và châu Âu sẽ đưa tới một sự thay đổi lớn mà thế giới sẽ chứng kiến trong tương lai… Ngày nay, những khẩu hiệu của người Ai Cập và Tunisia đang được lặp lại ở New York và California… Nước Cộng hòa Hồi giáo hiện tại đang là tâm điểm của phong trào thức tỉnh của các quốc gia và thực tế này đã làm cho kẻ thù khó chịu.

Trong bất kỳ khu vực nào, những tuyên bố như vậy sẽ được coi là một thách thức lớn mang tính cách mạng: một nhân vật thần quyền nắm quyền tối cao cả về tâm linh và thế tục ở một đất nước quan trọng, công khai theo đuổi kế hoạch xây dựng một trật tự thế giới thay thế, đối lập với trật tự đang được cộng đồng thế giới áp dụng. Lãnh tụ Tối cao của Iran hiện nay đang tuyên bố rằng chính các nguyên tắc tôn giáo phổ quát chứ không phải những lợi ích quốc gia hay chủ nghĩa quốc tế tự do sẽ thống trị thế giới mới mà ông từng tiên tri. Nếu những ý kiến như vậy do một nhà lãnh đạo châu Á hay châu Âu phát biểu sẽ có thể được hiểu như là một thách thức toàn cầu gây choáng váng. Tuy nhiên, 35 năm lặp đi lặp lại gần như làm cho thế giới quen với sự cấp tiến của những ý kiến này cùng với những hành động yểm trợ chúng. Về phần mình, Iran kết hợp thách thức đối với sự hiện đại của nước này và truyền thống quản lý nhà nước tinh tế đặc biệt có lịch sử hàng ngàn năm.

TRUYỀN THỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA IRAN

Việc áp dụng lần đầu tiên các nguyên tắc Hồi giáo cấp tiến như một học thuyết quyền lực nhà nước diễn ra vào năm 1979, tại một thủ đô ít được mong đợi nhất, ở một đất nước không giống như phần lớn các quốc gia Trung Đông khác, với một lịch sử quốc gia lâu dài và nổi bật cùng sự tôn kính được kiến lập từ lâu đối với quá khứ trước khi có Hồi giáo. Vì vậy, khi Iran – một nhà nước được chấp thuận trong hệ thống theo Hòa ước Westphalia – biến mình thành một nước ủng hộ Hồi giáo cấp tiến sau cuộc cách mạng của Đại giáo chủ Khomeini, trật tự trong khu vực Trung Đông đã bị đảo lộn.

Trong tất cả các nước thuộc khu vực, có lẽ Iran có ý thức chặt chẽ nhất về tính chất là một quốc gia và truyền thống phức tạp nhất về quản lý nhà nước dựa trên lợi ích quốc gia. Đồng thời, các nhà lãnh đạo Iran có truyền thống vượt ra khỏi biên giới quốc gia hiện nay của mình và hiếm khi tuân thủ các khái niệm của Hòa ước Westphalia về vị thế quốc gia độc lập và bình đẳng chủ quyền. Truyền thống nền tảng của Iran xuất phát từ Đế quốc Ba Tư, một đế quốc dưới nhiều vương triều từ thế kỷ 7 TCN tới thế kỷ 7, đã thiết lập sự thống trị của mình trên hầu khắp Trung Đông ngày nay và một phần của Trung Á, Tây Nam Á, và Bắc Phi. Với nền văn hóa và nghệ thuật rực rỡ, một bộ máy quản lý phức tạp và giàu kinh nghiệm trong việc quản lý các tỉnh xa xôi và một quân đội lớn được tôi luyện bằng những chiến dịch thành công khắp nơi, Ba Tư thấy chính nó còn hơn cả một xã hội. Chế độ quân chủ lý tưởng của Ba Tư đã nâng chủ quyền của đế quốc này tới trạng thái gần như thần thánh, một chúa tể hào hùng của các dân tộc, “Vua của các vua” ban phát công lý và quyết định khoan hồng để đổi lấy sự tuân phục hòa bình về chính trị.

Giống như Trung Quốc cổ đại, kế hoạch đế quốc của Ba Tư đại diện cho một dạng trật tự thế giới, trong đó những thành tựu văn hóa và chính trị và sự tự tin về mặt tâm lý đóng một vai trò quan trọng tương tự như các cuộc chinh phạt quân sự truyền thống. Thế kỷ 5 TCN, sử gia Hy Lạp Herodotus miêu tả sự tự tin của một dân tộc đã hấp thu tất cả những tinh hoa phong tục nước ngoài – trang phục của người Media, áo giáp của người Ai Cập – và giờ đây coi mình là trung tâm của các thành tựu của loài người:

Quan trọng nhất, họ giữ sự tự trọng, tiếp đến là tôn trọng những người sống bên cạnh họ và sau đó tới những người bên cạnh của người bên cạnh họ, và như vậy có một sự tiếp nối về sự tôn trọng theo khoảng cách. Họ ít tôn trọng nhất đối với những người sống xa họ nhất. Điều này là do họ nghĩ rằng bản thân họ là tốt nhất trong toàn thể nhân loại về mọi mặt và những người khác giữ được đức tính tốt tương ứng với khoảng cách đối với họ; những người sống xa nhất là những người kém đạo đức nhất.

Khoảng 2500 năm sau, cảm giác tự tin thanh thản này vẫn trụ vững, như được thể hiện trong các câu chữ của một hiệp định thương mại năm 1850 giữa Mỹ và Triều đại Safavid – trị vì một vùng đất hẹp hơn nhưng vẫn là mở rộng của Đế quốc Ba Tư bao gồm Iran và những vùng đất quan trọng của các quốc gia ngày nay như Afghanistan, Iraq, Kuwait, Pakistan, Tajikistan, Thổ Nhĩ Kỳ, và Turkmenistan. Ngay cả sau khi mất Armenia, Azerbaijan, Dagestan, và Đông Georgia trong hai cuộc chiến tranh với Đế quốc Nga đang bành trướng, Shah vẫn toát lên sự quả quyết từ người thừa kế của Xerxes[100] và Cyrus[101]:

Tổng thống Mỹ và Hoàng thượng được xưng tụng như Thổ tinh; Lãnh đạo Tối cao mà Mặt trời phụng sự như một ngọn cờ; người mà sự lộng lẫy và hùng vĩ sánh ngang với Bầu trời; Lãnh đạo Tối cao vĩ đại, Quốc vương với quân đội nhiều như các vì sao; người mà sự vĩ đại gợi nhớ tới Jeinshid; sự hùng vĩ sánh ngang với Darius[102]; người Thừa kế Vương miện và Ngai vàng của người Kayania, Hoàng đế vĩ đại của toàn thể Ba Tư, bình đẳng và chân thành mong muốn thiết lập quan hệ hữu nghị giữa Chính phủ hai nước, được thắt chặt bởi một Hiệp ước Hữu nghị và Thương mại, cùng có lợi và mang lại lợi ích cho các Công dân và thần dân của hai bên ký kết, vì mục đích này giao cho Đại diện toàn quyền của họ…

Nằm tại giao điểm giữa Đông và Tây, quản lý các tỉnh cùng các thuộc quốc trải dài ở mức độ rộng lớn nhất trên vùng lãnh thổ là Libya ngày nay tới Kyrgyzstan và Ấn Độ, Ba Tư hoặc là điểm bắt đầu hoặc là mục tiêu cuối cùng của hầu hết những kẻ chinh phạt lớn trên đại lục Á-Âu từ thời Cổ đại đến Chiến tranh Lạnh. Trải qua tất cả những biến động đó, Ba Tư – giống Trung Quốc trong một số hoàn cảnh tương tự – vẫn gìn giữ được ý thức riêng biệt về bản sắc. Nằm trải rộng trên nhiều khu vực và các nền văn hóa vô cùng đa dạng, Đế quốc Ba Tư đã lựa chọn và tổng hợp những thành tựu của mình vào trong khái niệm riêng biệt về trật tự. Bị nhấn chìm dưới làn sóng chinh phạt của Alexander Đại đế[103], những đạo quân Hồi giáo thời kỳ đầu và sau đó là người Mông Cổ – những cú sốc gần như xóa bỏ ký ức lịch sử và sự độc lập chính trị của các dân tộc khác – Ba Tư vẫn giữ được lòng tự tin về sự vượt trội về văn hóa của mình. Nó cúi đầu trước kẻ chinh phục như là một sự nhượng bộ tạm thời nhưng vẫn giữ được độc lập thông qua quan điểm của mình về thế giới, miêu tả “những không gian bên trong tuyệt vời” trong thơ ca và chủ nghĩa thần bí, cũng như trân trọng sợi dây kết nối với những đấng anh hùng trị vì trong quá khứ được thuật lại trong cuốn sử thi Sách về các vua. Trong khi đó, Ba Tư đúc kết các kinh nghiệm quản lý nhiều loại lãnh thổ khác nhau cùng với những thách thức chính trị thành bộ quy tắc ngoại giao tinh vi, coi trọng sự nhẫn nại, phân tích sắc sảo về thực tế địa chính trị và khống chế đối thủ bằng tâm lý.

Ý thức về sự khác biệt và sự khống chế khéo léo này kéo dài trong thời kỳ Hồi giáo, khi Ba Tư theo tôn giáo của kẻ chinh phạt đến từ Ả-rập nhưng là nước duy nhất trong làn sóng đầu tiên các dân tộc bị khuất phục vẫn nhất quyết gìn giữ ngôn ngữ riêng và thêm vào trật tự mới những di sản văn hóa của đế chế mà Hồi giáo vừa mới lật đổ. Cuối cùng, Ba Tư trở thành trung tâm dân số và văn hóa theo hệ phái Shiite của Hồi giáo, ban đầu như một dị giáo dưới sự cai trị của Ả-rập, sau đó là quốc giáo bắt đầu từ thế kỷ 16 (được chấp thuận một phần như là cách để phân biệt với Đế quốc Ottoman của người Sunni đang bành trướng ở biên giới và thách thức Đế quốc này). Trái ngược với cách hiểu của những người Sunni chiếm đa số, hệ phái này của Hồi giáo nhấn mạnh những phẩm chất thần bí, không thể diễn giải của chân lý tôn giáo, và cho phép “sự giả vờ thận trọng” vì lợi ích của các tín đồ. Về mặt văn hóa, tôn giáo, và quan điểm địa chính trị, Iran (tên gọi chính thức nước này tự đặt sau năm 1935) đã bảo tồn bản sắc truyền thống và đặc trưng đặc biệt trong vai trò khu vực của nước này.

CUỘC CÁCH MẠNG KHOMEINI

Cuộc cách mạng chống lại Shah (nhà vua) Reza Pahlavi thế kỷ 20 ở Iran đã bắt đầu (hay ít nhất theo miêu tả với phương Tây) như một phong trào chống chế độ quân chủ, đòi dân chủ, và phân phối lại về kinh tế. Nhiều mối bất bình trong số đó là thật, được tạo ra bởi những rối loạn có nguyên nhân từ các chương trình hiện đại hóa của Shah và những biện pháp nặng tay, độc đoán của chính phủ để cố gắng kiểm soát bất đồng chính kiến. Nhưng vào năm 1979, khi Giáo chủ Ruhollah Khomeini sau thời gian sống lưu vong ở Paris và Iraq trở về đảm nhận vai trò “Lãnh đạo Tối cao” của cuộc cách mạng, ông ta làm vậy không đại diện cho các chương trình xã hội hay sự quản lý theo tinh thần dân chủ mà dưới danh nghĩa một cuộc tấn công chống lại toàn bộ trật tự khu vực và thực sự là chống lại những sắp đặt thể chế của thế giới hiện đại.

Học thuyết bén rễ ở Iran dưới thời Khomeini không giống như bất kỳ điều gì được áp dụng ở phương Tây kể từ sau các cuộc chiến tranh tôn giáo thời kỳ trước khi có Hòa ước Westphalia. Học thuyết này coi quốc gia có chủ quyền bản thân nó không phải là một chủ thể chính danh, mà như là một vũ khí thuận tiện cho một cuộc đấu tranh tôn giáo rộng lớn hơn. Khomeini tuyên bố: bản đồ thế kỷ 20 của Trung Đông là một sản phẩm sai lầm và phi Hồi giáo của những tên đế quốc và những kẻ thống trị độc tài vụ lợi, những kẻ đã “chia tách các bộ phận khác nhau của [cộng đồng] Hồi giáo umma và tự ý tạo ra các quốc gia riêng biệt.” Tất cả thể chế chính trị hiện nay ở trong và bên ngoài Trung Đông là “không chính danh” vì chúng “không dựa trên luật lệ của thánh thần.” Quan hệ quốc tế ngày nay dựa trên các nguyên tắc theo thể thức của Hòa ước Westphalia đặt trên một nền tảng sai lầm bởi vì “mối quan hệ giữa các quốc gia phải dựa trên cơ sở tâm linh” chứ không phải trên nguyên tắc lợi ích quốc gia.

Theo quan điểm của Khomeini, tương tự với quan điểm của Qutb – một người có tư tưởng bành trướng, việc đọc Kinh Quran chỉ ra con đường thoát khỏi những báng bổ này và hướng tới việc tạo ra một trật tự thế giới chính danh thực sự. Bước đầu tiên sẽ là lật đổ tất cả các chính phủ trong thế giới Hồi giáo và thay thế chúng bằng “một chính phủ Hồi giáo duy nhất.” Lòng trung thành truyền thống đối với quốc gia sẽ bị gạt ra một bên vì “trách nhiệm của tất cả chúng ta là phải lật đổ taghut; tức là những quyền lực chính trị không chính danh giờ đây đang cai trị toàn bộ thế giới Hồi giáo.” Việc thành lập một hệ thống chính trị Hồi giáo đích thực ở Iran sẽ đánh dấu “Ngày đầu tiên của Chính quyền của Thượng đế” như Khomeini tuyên bố khi thành lập Cộng hòa Hồi giáo Iran ngày 1 tháng Tư năm 1979.

Thực thể này sẽ không thể được so sánh với bất kỳ nhà nước hiện đại nào khác. Là người đầu tiên được Khomeini bổ nhiệm vào chức vụ Thủ tướng, Mehdi Bazargan nói với tờ New York Times, “Điều được mong muốn… là một kiểu chính phủ tồn tại trong 10 năm dưới sự trị vì của Đấng Tiên tri Mohammed và 5 năm dưới sự trị vì của con rể của Ngài – Ali – Lãnh tụ Hồi giáo dòng Shiite đầu tiên.” Khi chính phủ được quan niệm như thần thánh, sự bất đồng sẽ bị coi như lời báng bổ, chứ không còn là đối lập chính trị. Dưới sự lãnh đạo của Khomeini, nước Cộng hòa Hồi giáo này thực hiện những nguyên tắc đó, bắt đầu bằng một làn sóng những vụ xét xử, hành hình, và một sự đàn áp có hệ thống các tín ngưỡng thiểu số, vượt xa những gì đã diễn ra dưới chế độ độc tài chuyên chế của Shah.

Giữa những biến động đó, một nghịch lý mới đã hình thành dưới hình thức một thách thức hai mặt đối với trật tự quốc tế. Với cuộc cách mạng Iran, một phong trào Hồi giáo quyết tâm lật đổ hệ thống theo Hòa ước Westphalia đã giành được quyền kiểm soát một nhà nước hiện đại và cả những quyền và đặc quyền của nước này trong hệ thống theo Hòa ước “Westphalia” – có một chiếc ghế tại Liên Hợp Quốc, thực hiện hoạt động thương mại và vận hành bộ máy ngoại giao của nước đó. Do đó chế độ giáo sĩ của Iran tự đặt mình tại giao điểm của hai trật tự thế giới, yêu cầu sự bảo vệ chính thức của hệ thống theo Hòa ước Westphalia ngay cả khi liên tục tuyên bố không tin vào hệ thống đó, sẽ không bị ràng buộc bởi nó và sau cùng có ý định thay thế nó.

Tư duy hai mặt này đã ăn sâu trong học thuyết cầm quyền của Iran. Iran cho mình là “Cộng hòa Hồi giáo,” ngụ ý một thực thể với quyền lực vượt ra khỏi địa giới lãnh thổ và Giáo chủ đứng đầu cơ cấu quyền lực của Iran (đầu tiên là Khomeini, sau đó là người kế nhiệm ông, Ali Khamenei), không chỉ được coi là một nhân vật chính trị của Iran mà còn như một người có thẩm quyền toàn cầu – “Lãnh tụ tối cao của Cách mạng Hồi giáo” và “Lãnh tụ của Cộng đồng Hồi giáo và các dân tộc bị áp bức.” Nước Cộng hòa Hồi giáo này giới thiệu mình trên sân khấu thế giới bằng việc vi phạm nghiêm trọng một nguyên tắc cốt lõi của hệ thống quốc tế theo Hòa ước Westphalia – quyền miễn trừ ngoại giao – khi tấn công Đại sứ quán Mỹ ở Tehran và bắt giữ các nhân viên ở đó làm con tin trong 444 ngày (một hành động được chính phủ Iran hiện nay chấp thuận, khi vào năm 2014 đã bổ nhiệm người phiên dịch cho những kẻ bắt cóc làm đại sứ của mình tại Liên Hợp Quốc). Cũng với tinh thần tương tự, năm 1989, Giáo chủ Khomeini tuyên bố thẩm quyền tư pháp toàn cầu bằng việc ban hành một fatwa (một lệnh cấm có tính tôn giáo) tuyên án tử hình đối với Salman Rushdie, một công dân Anh gốc Hồi giáo Ấn Độ, vì đã xuất bản một cuốn sách ở Anh và Mỹ bị coi là xúc phạm đến người Hồi giáo.

Ngay cả khi đồng thời tiến hành các quan hệ ngoại giao bình thường với các quốc gia có một phần lãnh thổ bị các nhóm Hồi giáo lấn chiếm, Iran, trên khía cạnh Hồi giáo, đã hỗ trợ các tổ chức như Hezbollah ở Lebanon và quân đội Mahdi ở Iraq – những tay súng phi nhà nước thách thức các chính quyền đã được thiết lập từ lâu và sử dụng các cuộc tấn công khủng bố như một phần trong chiến lược của họ. Lời kêu gọi thực hiện cuộc cách mạng Hồi giáo của Iran được hiểu là cho phép sự hợp tác vượt lên sự chia rẽ Sunni-Shia để thúc đẩy những lợi ích chống phương Tây lớn hơn, bao gồm cả việc Iran trang bị vũ khí cho nhóm thánh chiến Hamas dòng Sunni chống lại Israel, và theo một số báo cáo thì cho cả Taliban ở Afghanistan; báo cáo của Ủy ban 11/9 và những cuộc điều tra về một âm mưu khủng bố năm 2013 ở Canada cho rằng các phần tử khủng bố al-Qaeda cũng đã tìm thấy cơ hội hoạt động từ Iran.

Về sự cần thiết phải lật đổ trật tự thế giới hiện nay, những người Hồi giáo ở cả hai phía – Sunni và Shia – đã có được sự đồng thuận chung. Bất chấp sự chia rẽ trong học thuyết giữa Sunni-Shia diễn ra gay gắt khắp Trung Đông như thế nào chăng nữa trong những năm đầu thế kỷ 21, quan điểm của Sayyid Qutb về cơ bản giống với quan điểm của các giáo chủ chính trị ở Iran. Tiên đề của Qutb cho rằng Hồi giáo sẽ sắp xếp lại trật tự thế giới và cuối cùng thống trị thế giới đã đánh trúng tâm lý của những người đã biến Iran thành mạch nguồn của cuộc cách mạng tôn giáo này. Các tác phẩm của Qutb được lưu hành rộng rãi ở Iran, một số bản được Đại Giáo chủ Ali Khamenei đích thân chuyển ngữ. Như Khamenei đã viết trong lời giới thiệu năm 1967 cho tác phẩm của Qutb, Tương lai của Tôn giáo này:

Tác giả cao cả và vĩ đại này trong suốt các chương của cuốn sách đã cố gắng… đầu tiên là giới thiệu về bản chất của đức tin như nó là, và sau khi cho thấy đây là một chương trình của sự sống… [để khẳng định] bằng những lời lẽ hùng hồn và thế giới quan đặc biệt của ông rằng cuối cùng chính phủ thế giới sẽ nằm trong tay giáo phái chúng ta và “tương lai thuộc về Hồi giáo.”

Đối với Iran, đại diện cho nhánh Shia thiểu số trong nỗ lực này, chiến thắng có thể được hình dung qua sự điều chỉnh những khác biệt về giáo lý hướng tới những mục đích chung. Theo hướng này, hiến pháp Iran tuyên bố mục tiêu thống nhất tất cả tín đồ Hồi giáo như một nhiệm vụ quốc gia bắt buộc:

Theo những vần thơ thiêng liêng của Kinh Quran (“Cộng đồng này của các ngươi là duy nhất, và ta là Chúa của các ngươi, vì thế hãy thờ phụng Ta” [21:92]), tất cả những người Hồi giáo tạo thành một quốc gia duy nhất, và chính phủ của nước Cộng hòa Hồi giáo Iran có nhiệm vụ xây dựng những chính sách chung với mục đích nuôi dưỡng tình hữu nghị và đoàn kết của tất cả các dân tộc Hồi giáo, nó phải không ngừng phấn đấu để mang lại sự thống nhất về chính trị, kinh tế, và văn hóa của thế giới Hồi giáo.

Sự nhấn mạnh này sẽ không nằm ở những tranh cãi về thần học, mà là ở sự thuần phục về ý thức hệ. Như Khomeini đã vạch rõ: “Chúng ta phải cố gắng làm lan tỏa cuộc cách mạng của chúng ta trên toàn thế giới, và phải gạt bỏ tất cả các tư tưởng không làm như vậy, vì Hồi giáo không chỉ từ chối công nhận bất kỳ sự khác biệt nào giữa các quốc gia Hồi giáo, mà nó còn là chiến sĩ đấu tranh cho tất cả các dân tộc bị áp bức.” Điều này sẽ đòi hỏi một cuộc đấu tranh anh hùng mang tính sử thi chống lại “Mỹ – kẻ cướp bóc toàn cầu” và những xã hội cộng sản duy vật ở Nga và châu Á cũng như “Chủ nghĩa Phục quốc Do thái và Israel.”

Tuy nhiên, Khomeini và những đồng chí cách mạng Shia của ông khác với người Hồi giáo Sunni – và đây là bản chất của sự đối đầu huynh đệ tương tàn của họ – khi tuyên bố rằng biến động toàn cầu sẽ được giới hạn bởi sự xuất hiện của Mahdi (thủ lĩnh), người sẽ trở về từ “sự che khuất” (hiện hữu nhưng không nhìn thấy được) để nhận lãnh những quyền năng tối cao mà Lãnh đạo Tối cao của nước Cộng hòa Hồi giáo đang tạm thời thi hành thay mặt Mahdi này. Tổng thống Mahmoud Ahmadinejad của Iran khi đó coi nguyên tắc này đã tạm ổn thỏa để đưa ra phát biểu trước Liên Hợp Quốc ngày 27 tháng Chín năm 2007:

Không nghi ngờ gì nữa, Đấng được hứa và cũng là Đấng cứu thế tối thượng, sẽ đến. Cùng với các tín đồ, những người đi tìm công lý và các nhà hảo tâm, Người sẽ tạo lập một tương lai tươi sáng và làm cho công lý và cái đẹp ngập tràn thế giới. Đây là lời hứa của Thượng đế; do đó nó sẽ được ứng nghiệm.

Tổng thống Ahmadinejad đã viết thư cho Tổng thống George W. Bush vào năm 2006, nói rằng nền hòa bình được tiên đoán từ quan niệm như vậy có điều kiện tiên quyết là sự phục tùng toàn cầu trước học thuyết tôn giáo đúng đắn. Thư của Tổng thống Ahmadinejad (được nhiều người ở phương Tây hiểu như là một lời đề nghị đàm phán) kết thúc với dòng chữ “Vasalam Ala Man Ataba’al Hoda,” một cụm từ để nguyên không được chuyển ngữ khi đưa ra công chúng: “Hòa bình chỉ tới với những người theo chính đạo.” Đây là lời cảnh báo giống như đã từng được Đấng Tiên tri Mohammed gửi tới các hoàng đế của Đông La Mã và Ba Tư vào thế kỷ 7 mà ngay sau đó đã bị các cuộc thánh chiến Hồi giáo tấn công.

Trong nhiều thập kỷ, các nhà quan sát phương Tây đã tìm cách xác định những “nguyên nhân gốc rễ” của những tình cảm như vậy, và tự thuyết phục bản thân rằng những phát ngôn cực đoan hơn có phần nào đó là ẩn dụ và rằng sự từ bỏ chính sách hay hành vi trong quá khứ của phương Tây – như việc Mỹ và Anh can thiệp vào chính trị nội bộ của Iran trong những năm 1950 – có thể mở ra cơ hội hòa giải. Tuy nhiên, cho đến nay, chủ nghĩa Hồi giáo cách mạng vẫn chưa thể hiện sự tìm kiếm hợp tác quốc tế giống như phương Tây vẫn hiểu về thuật ngữ này; chế độ giáo sĩ Iran cũng không được hiểu theo cách tích cực nhất là một phong trào độc lập hậu thuộc địa đau buồn đang chờ đợi đầy hy vọng vào sự thể hiện thiện chí của Mỹ. Theo ý niệm của các giáo chủ về chính sách, tranh cãi với phương Tây không phải là vấn đề của sự nhượng bộ cụ thể mang tính kỹ thuật hay những công thức đàm phán, mà là một cuộc tranh luận về bản chất của trật tự thế giới.

Ngay cả khi đã có lúc được ca ngợi ở phương Tây như là dấu hiệu của tinh thần mới về hòa giải – sau khi một thỏa thuận tạm thời về chương trình hạt nhân của Iran với năm thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an và Đức được hoàn thành – Lãnh đạo Tối cao của Iran, Khamenei tuyên bố vào tháng Một năm 2014:

Bằng cách trang điểm cho khuôn mặt nước Mỹ, một số cá nhân đang cố gắng loại bỏ sự xấu xa, bạo lực, và khủng bố ra khỏi khuôn mặt ấy và giới thiệu chính phủ Mỹ với người dân Iran như là đáng yêu và nhân đạo… Làm sao các anh có thể thay đổi một khuôn mặt xấu xí và tội phạm đến vậy trước người dân Iran bằng việc trang điểm?... Iran sẽ không vi phạm những gì mình đã cam kết. Nhưng người Mỹ là kẻ thù của cuộc Cách mạng Hồi giáo, kẻ thù của nước Cộng hòa Hồi giáo, kẻ thù của lá cờ các anh vừa kéo lên.

Hay, như Khamenei đề cập tế nhị hơn trong một bài phát biểu trước Hội đồng Giám hộ Iran tháng Chín năm 2013, “Khi một đô vật đang vật lộn với đối thủ và ở những nơi cần thể hiện sự linh hoạt vì lý do kỹ thuật, đừng để anh ta quên mất đối thủ của mình là ai.”

Tình trạng này không phải là tất yếu mãi mãi. Trong số các quốc gia ở Trung Đông, Iran có lẽ có được trải nghiệm gắn kết nhất về sự vĩ đại của quốc gia và truyền thống chiến lược lâu dài và tinh tế nhất. Nước này đã bảo tồn nền văn hóa căn cốt của mình trong suốt 3000 năm, đôi khi là một đế chế đang bành trướng trong nhiều thế kỷ nhờ sự thao túng điêu luyện các yếu tố xung quanh. Trước khi có cuộc cách mạng của các giáo chủ, tương tác của phương Tây với Iran mang tính thân thiện và hợp tác từ cả hai phía, dựa trên sự nhận thức tương đồng về những lợi ích quốc gia. (Trớ trêu thay, sự lên ngôi quyền lực của các giáo chủ trong giai đoạn cuối đã được hỗ trợ bằng sự phân ly của Mỹ với chế độ đương nhiệm, căn cứ trên niềm tin sai lầm rằng sự thay đổi sắp tới sẽ thúc đẩy sự ra đời của một nền dân chủ và thắt chặt thêm mối quan hệ Mỹ-Iran).

Mỹ và các nền dân chủ phương Tây nên cởi mở để thúc đẩy những mối quan hệ hợp tác với Iran. Những gì họ không được làm là lấy căn cứ cho một chính sách như vậy bằng việc soi chiếu những kinh nghiệm trong nước của mình, coi chúng là thích hợp tất yếu hoặc tự động với các xã hội khác, nhất là trong trường hợp Iran. Họ phải đồng ý với khả năng rằng những ngôn từ không thay đổi của một thế hệ được dựa trên niềm tin chứ không phải sự phô diễn, và sẽ có những tác động tới một số lượng đáng kể người dân Iran. Một sự thay đổi giọng điệu không nhất thiết dẫn đến sự trở lại trạng thái bình thường, nhất là khi những định nghĩa về trạng thái bình thường về căn bản rất khác nhau như vậy. Nó cũng bao gồm – và rất có thể – khả năng về một sự thay đổi trong chiến thuật để đạt được các mục tiêu không thay đổi về căn bản. Mỹ cần cởi mở trước một sự hòa giải thực sự và có những nỗ lực đáng kể để tạo điều kiện thuận lợi cho nó. Tuy nhiên để một nỗ lực như vậy thành công, một ý thức rõ ràng về đường hướng là rất cần thiết, đặc biệt ở vấn đề mấu chốt là chương trình hạt nhân của Iran.

PHỔ BIẾN VŨ KHÍ HẠT NHÂN VÀ IRAN

Tương lai của quan hệ Iran-Mỹ sẽ phụ thuộc vào việc giải quyết vấn đề mà về mặt kỹ thuật có vẻ là quân sự, ít nhất là trong ngắn hạn. Khi những trang sách này được viết, một sự thay đổi tiềm tàng mang tính lịch sử trong cán cân quân sự tại khu vực và trạng thái cân bằng tâm lý có thể đang diễn ra. Nó được mở ra bởi sự tiến bộ nhanh chóng của Iran trên con đường hướng tới vị thế của một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, ngay trong khi cuộc đàm phán giữa nước này và các thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc cộng thêm Đức (P5+1) đang diễn ra. Dù được diễn đạt theo khía cạnh khả năng kỹ thuật và khoa học, bản chất gốc rễ của vấn đề vẫn là trật tự quốc tế – khả năng của cộng đồng quốc tế có thể áp đặt các yêu cầu của mình chống lại những hình thức từ chối tinh vi, khả năng thẩm thấu của chế độ không phổ biến vũ khí toàn cầu, và nguy cơ của một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân trong khu vực bất ổn nhất trên thế giới.

Sự cân bằng quyền lực truyền thống nhấn mạnh về năng lực quân sự và công nghiệp. Một thay đổi trong sự cân bằng này chỉ có thể đạt được từ từ hoặc bằng sự chinh phục. Sự cân bằng quyền lực hiện đại phản ánh trình độ phát triển khoa học của một xã hội, và có thể bị đe dọa nghiêm trọng bởi những phát triển chỉ diễn ra bên trong lãnh thổ của một quốc gia. Không một cuộc chinh phục nào có thể làm tăng năng lực quân sự của Liên Xô nhiều như việc phá vỡ thế độc quyền hạt nhân của Mỹ vào năm 1949. Tương tự như vậy, sự lan rộng của vũ khí hạt nhân có thể chuyển giao chắc chắn có ảnh hưởng đáng kể đến sự cân bằng trong khu vực và trật tự quốc tế, làm dấy lên một loạt các hành động chống đối leo thang.

Tất cả các chính phủ Mỹ trong Chiến tranh Lạnh đã buộc phải xây dựng chiến lược quốc tế của mình trong bối cảnh những tính toán về sự răn đe gây khiếp sợ: sự hiểu biết rằng chiến tranh hạt nhân sẽ dẫn tới thương vong trên quy mô có khả năng đe dọa văn minh loài người. Họ cũng bị ám ảnh bởi ý thức được rằng sự sẵn sàng bất chấp rủi ro hiển hiện đó – ít nhất tới một mức độ nào đó – là cần thiết nếu thế giới không muốn bị rơi lại vào tay những chế độ độc tài toàn trị tàn nhẫn. Sự răn đe vẫn tiếp tục khi đối mặt với những cơn ác mộng song hành này vì chỉ có hai siêu cường hạt nhân tồn tại. Mỗi siêu cường luôn có những đánh giá tương đối giống nhau về các hiểm họa đối với mình trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, khi vũ khí hạt nhân lan rộng và rơi vào tay ngày càng nhiều người, những tính toán răn đe ngày càng trở nên sớm mất tác dụng và tính răn đe ngày càng ít đáng tin cậy. Trong một thế giới phổ biến rộng rãi vũ khí hạt nhân, việc quyết định ai răn đe ai và với những tính toán nào ngày càng trở nên khó khăn.

Thậm chí nếu giả định rằng các quốc gia đang phổ biến vũ khí hạt nhân cũng có những tính toán tương tự về sự sống còn giống như những quốc gia đã sở hữu vũ khí hạt nhân khi cân nhắc việc gây hấn với nhau – một nhận định cực kỳ mơ hồ – những nước mới sở hữu vũ khí hạt nhân có thể phá vỡ trật tự quốc tế theo nhiều cách. Sự phức tạp trong việc bảo vệ kho vũ khí và các cơ sở hạt nhân (và xây dựng hệ thống cảnh báo sớm tinh vi mà các quốc gia hạt nhân tiên tiến sở hữu) có thể làm tăng nguy cơ đánh đòn phủ đầu bằng cách dành nhiều ưu tiên cho một cuộc tấn công bất ngờ. Chúng cũng có thể được sử dụng như một lá chắn để ngăn chặn sự trả đũa đối với các hành động quân sự của các nhóm phi nhà nước. Những cường quốc hạt nhân cũng không thể làm ngơ trước một cuộc chiến tranh hạt nhân ngay ngưỡng cửa nhà mình. Cuối cùng, kinh nghiệm về mạng lưới phổ biến hạt nhân “riêng tư” giữa Pakistan thân thiện về mặt kỹ thuật với Bắc Triều Tiên, Libya, và Iran cho thấy những hậu quả to lớn đối với trật tự quốc tế từ sự lan rộng của vũ khí hạt nhân, ngay cả khi các nước đang phổ biến hạt nhân không đáp ứng các tiêu chí chính thức để bị coi là một nhà nước bất hảo.

Ba trở ngại phải vượt qua để đạt được khả năng triển khai vũ khí hạt nhân: làm chủ hệ thống phóng, sản xuất vật liệu phân hạch, và chế tạo các đầu đạn. Đối với hệ thống phóng, có một thị trường mở đáng kể ở Pháp, Nga, và ở phạm vi nào đó là cả Trung Quốc; nó chủ yếu đòi hỏi những nguồn lực về tài chính. Iran đã đạt được những yêu cầu cốt lõi của một hệ thống phóng và có thể bổ sung vào hệ thống đó tùy theo quyết định của nước này. Các kiến thức về việc làm thế nào để chế tạo các đầu đạn không phải là bí truyền hoặc khó khăn để khám phá, và việc chế tạo chúng rất dễ che giấu. Cách tốt nhất và có lẽ là duy nhất để ngăn chặn sự xuất hiện của một năng lực vũ khí hạt nhân là kiềm chế sự phát triển của quá trình làm giàu uranium. Thành phần không thể thiếu cho quá trình này là thiết bị ly tâm – những chiếc máy tạo ra uranium đã được làm giàu. (Làm giàu plutonium cũng phải được ngăn chặn và là một phần của quá trình đàm phán tương tự.)

Mỹ và các thành viên thường trực khác của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã đàm phán trong hơn 10 năm, trải qua hai đời chính phủ của cả hai đảng để ngăn chặn sự xuất hiện một năng lực như vậy ở Iran. Kể từ năm 2006, sáu nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã nhấn mạnh rằng Iran phải ngừng chương trình hạt nhân làm giàu uranium của mình. Ba tổng thống Mỹ của cả hai đảng, mọi thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc (bao gồm cả Trung Quốc và Nga) cộng thêm Đức, nhiều báo cáo và nghị quyết của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế, tất cả đều tuyên bố không thể chấp nhận được một Iran có vũ khí hạt nhân và yêu cầu nước này dừng việc làm giàu hạt nhân vô điều kiện. Không có lựa chọn nào là “không được cân nhắc” trong việc theo đuổi mục tiêu này, theo lời của ít nhất hai tổng thống Mỹ.

Hồ sơ theo dõi cho thấy khả năng hạt nhân của Iran đang đều đặn tiến triển, trong khi vị thế của phương Tây đang ngày càng suy yếu nhanh. Trong khi Iran phớt lờ các nghị quyết của Liên Hợp Quốc và vẫn chế tạo các máy ly tâm, phương Tây đã đưa ra một loạt các đề xuất ngày càng dễ dãi, từ việc kiên quyết yêu cầu Iran chấm dứt chương trình làm giàu uranium của mình vĩnh viễn (2004), để rồi cho phép Iran có thể tiếp tục làm giàu uranium ở cấp độ thấp (LEU) dưới 20% (2005), tới đề xuất Iran chuyển phần lớn các LEU của nó ra khỏi đất nước để Pháp và Nga có thể biến chúng thành các thanh nhiên liệu với uranium được làm giàu 20% (2009); rồi đến một đề nghị cho phép Iran giữ đủ số lượng uranium được làm giàu 20% của mình để vận hành một lò phản ứng thử nghiệm trong khi đình chỉ hoạt động tại cơ sở đặt máy ly tâm Fordow, nơi có khả năng sản xuất thêm các thanh nhiên liệu này (2013). Bản thân Fordow từng là một địa điểm bí mật; khi bị phát hiện, nó trở thành đối tượng trong các yêu cầu của phương Tây rằng nó phải bị đóng cửa hoàn toàn. Hiện tại phương Tây đề nghị đình chỉ hoạt động tại cơ sở này, cùng với những biện pháp bảo vệ để việc tái khởi động nó sẽ khó khăn. Khi nhóm các nước P5+1 lần đầu tiên được thành lập vào năm 2006 nhằm phối hợp vai trò của cộng đồng quốc tế, các nhà đàm phán nhấn mạnh rằng Iran phải ngừng các chu trình nhiên liệu trước khi các cuộc đàm phán có thể được tiến hành; vào năm 2009, điều kiện này đã bị hủy bỏ. Đối mặt với hồ sơ như vậy, Iran hầu như không có động cơ để coi bất kỳ đề nghị nào là cuối cùng. Với sự tinh tế và không hề thiếu táo bạo, ở mỗi giai đoạn, nước này ngày càng không mấy quan tâm tới một giải pháp như nhóm các cường quốc lớn trên thế giới, và tiếp tục đề nghị họ đưa ra những nhượng bộ mới.

Khi các cuộc đàm phán bắt đầu vào năm 2003, Iran có 130 máy ly tâm. Khi cuốn sách này được viết, nước này đã triển khai khoảng 19.000 máy (dù chỉ một nửa trong số này đang được sử dụng). Khi các cuộc đàm phán bắt đầu, Iran chưa có khả năng tạo ra bất kỳ nguyên liệu phân hạch nào; trong thỏa thuận tạm thời hồi tháng Mười một năm 2013, Iran thừa nhận sở hữu bảy tấn uranium được làm giàu thấp. Với số máy ly tâm Iran sở hữu, số uranium này có thể được chuyển thành nguyên liệu ở cấp độ vũ khí trong một vài tháng (đủ để tạo ra bảy đến mười quả bom hạt nhân, loại đã được thả xuống Hiroshima). Trong thỏa thuận tạm thời, Iran hứa từ bỏ khoảng một nửa trong tổng số uranium được làm giàu 20% của mình nhưng thông qua một cách thức vòng vèo: nước này cam kết chuyển đổi số unranium này thành một dạng có thể dễ dàng được chuyển đổi trở về trạng thái ban đầu, và nước này vẫn giữ nguyên cách thức làm như vậy. Trong bất kỳ trường hợp nào, với số lượng máy ly tâm hiện nay của Iran, cấp độ 20% ít quan trọng vì uranium được làm giàu tới 5% (ngưỡng được tuyên bố là một thành công của đàm phán) có thể được làm giàu lên cấp độ vũ khí trong vài tháng.

Thái độ của các nhà đàm phán của hai bên phản ánh những nhận thức khác nhau về trật tự thế giới. Các nhà đàm phán Iran chuyển tải quan điểm đến các nhà đàm phán phía bên kia rằng họ sẽ không bị cản trở trong việc theo đuổi quá trình của mình, cho dù phải đối mặt với nguy cơ một cuộc tấn công vào các cơ sở hạt nhân của nước này. Các nhà đàm phán phương Tây bị thuyết phục (và thường viện dẫn sự thuyết phục này khi nhấn mạnh cam kết của họ đối với hòa bình và ngoại giao) rằng những hậu quả của một cuộc tấn công quân sự vào Iran làm giảm nguy cơ gia tăng năng lực hạt nhân của Iran. Những tính toán của họ được củng cố bằng những lời lặp đi lặp lại của các chuyên gia và họ cho đó là trách nhiệm của mình, rằng mọi bế tắc cần phải được phá vỡ bởi một đề xuất mới. Đối với phương Tây, câu hỏi trọng tâm là liệu có thể tìm được một giải pháp ngoại giao hay là sẽ cần đến các biện pháp quân sự. Ở Iran, vấn đề hạt nhân được coi như một khía cạnh của cuộc đấu tranh chung về trật tự khu vực và uy quyền tối cao về ý thức hệ, diễn ra trên một loạt các mặt trận và vùng lãnh thổ với các phương pháp trải rộng từ thái cực chiến tranh tới hòa bình – các hoạt động quân sự và bán quân sự, ngoại giao, đàm phán chính thức, tuyên truyền, lật đổ chính trị – liên tục và kết hợp củng cố lẫn nhau. Trong bối cảnh này, cuộc tìm kiếm một thỏa thuận phải đương đầu với viễn cảnh rằng ít nhất Tehran sẽ thử nghiệm một chiến lược làm giảm căng thẳng vừa đủ để phá vỡ lệnh trừng phạt, nhưng vẫn duy trì một cơ sở hạ tầng hạt nhân đáng kể và một sự tự do tối đa trong hành động để biến nó thành một chương trình vũ khí sau này.

Quá trình này dẫn đến thỏa thuận tạm thời vào tháng Mười một năm 2013, trong đó Iran đồng ý ngừng làm giàu uranium tạm thời và đúng theo quy định để đổi lấy việc gỡ bỏ một số các biện pháp trừng phạt quốc tế đối với nước này vì không tuân thủ các yêu cầu của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Nhưng do việc làm giàu uranium của Iran được cho phép tiếp tục trong sáu tháng theo thỏa thuận tạm thời, sự tiếp tục của thỏa thuận này cùng với việc thực hiện các biện pháp hạn chế toàn diện hơn sẽ được hợp nhất vào hạn chót để hoàn tất một thỏa thuận tổng thể. Kết quả là chương trình làm giàu uranium của Iran được chấp nhận trên thực tế, để lại vấn đề nặng ký (chỉ đối với phương Tây) không được giải quyết.

Khi cuốn sách này được viết, các cuộc đàm phán cho một thỏa thuận lâu dài đang được tiến hành. Trong khi các điều khoản – hoặc liệu có những kết quả có thể đạt được hay không – vẫn chưa được biết, rõ ràng chúng sẽ là “những lằn ranh đỏ,” giống như rất nhiều vấn đề ở Trung Đông. Liệu các nhà đàm phán của phương Tây (vận hành thông qua nhóm P5+1) sẽ nhất quyết yêu cầu lằn ranh đỏ này là về khả năng làm giàu uranium như nghị quyết của Liên Hợp Quốc đã khẳng định hay không? Đây sẽ là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn. Iran sẽ phải giảm bớt số máy ly tâm của nước này đến một mức độ phù hợp với các yêu cầu chính đáng của một chương trình hạt nhân dân sự, cũng như phá hủy hoặc bỏ xó số còn lại. Một kết quả như vậy có tác dụng thực tế là việc từ bỏ chương trình hạt nhân quân sự của Iran sẽ mở ra triển vọng về một sự thay đổi cơ bản trong mối quan hệ của phương Tây với Iran, đặc biệt nếu nó đưa tới sự đồng thuận rằng hai bên sẽ hành động để ngăn chặn những làn sóng của các tay súng cực đoan người Sunni và Shia hiện đang đe dọa khu vực.

Theo quan điểm của Lãnh đạo Tối cao Iran được lặp đi lặp lại trong các tuyên bố, rằng Iran sẽ không từ bỏ khả năng mà nó đã có – những tuyên bố được nhiều quan chức cấp cao Iran tái khẳng định – Iran dường như nhấn mạnh việc chuyển lằn ranh đỏ từ mức sản xuất đầu đạn, hoặc giảm bớt các máy ly tâm đến mức vẫn còn để lại một khoảng đủ lớn cho một chương trình hạt nhân quân sự. Theo kế hoạch như vậy, Iran sẽ đưa vào thỏa thuận quốc tế một fatwa của Lãnh đạo Tối cao cấm chế tạo vũ khí hạt nhân (một phán quyết chưa bao giờ được bất kỳ ai bên ngoài cơ cấu quyền lực của Iran công bố hay nhìn thấy); nước này sẽ cam kết với nhóm P5+1 không chế tạo vũ khí hạt nhân và cấp quyền thanh tra để giám sát sự tuân thủ. Hiệu quả thiết thực của những cam kết này sẽ phụ thuộc vào thời gian Iran cần có để chế tạo vũ khí sau khi nước này từ bỏ hoặc phá vỡ một thỏa thuận như vậy. Trước một thực tế là Iran đã cố gắng xây dựng hai nhà máy làm giàu bí mật trong khi vẫn ở dưới sự thanh tra quốc tế, sự vi phạm này dự đoán sẽ phải cân nhắc tới khả năng vi phạm đó không bị phát hiện. Một thỏa thuận phải không được để Iran “gần như là” cường quốc hạt nhân, một nước mà có thể trở thành một cường quốc hạt nhân quân sự trong một khung thời gian ngắn hơn so với bất kỳ nước láng giềng không có hạt nhân nào có thể bắt kịp, hoặc bất kỳ cường quốc hạt nhân nào có thể ngăn chặn một cách chắc chắn.

Iran đã sử dụng kỹ năng đặc biệt và sự nhất quán liên quan tới mục tiêu mà nước này tuyên bố là phá hoại hệ thống các quốc gia có chủ quyền ở Trung Đông và loại bỏ ảnh hưởng của phương Tây khỏi khu vực. Cho dù Iran sẽ xây dựng và thử nghiệm vũ khí hạt nhân trong tương lai gần hay “chỉ” giữ lại khả năng làm như vậy trong vòng vài tháng sau khi quyết định, các ngụ ý về trật tự khu vực và toàn cầu sẽ là tương tự nhau. Thậm chí nếu Iran dừng lại ở mức gần với năng lực về vũ khí hạt nhân, nước này sẽ được xem là vẫn đạt được mức độ đó bất chấp các lệnh trừng phạt quốc tế toàn diện nhất từng được áp đặt với bất kỳ nước nào. Đối với các đối thủ địa chiến lược của Iran như Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, và Ả-rập Saudi, những cám dỗ trong việc mua hoặc phát triển các chương trình hạt nhân của riêng họ để bắt kịp khả năng của Iran là sẽ không thể cưỡng lại được. Nguy cơ một cuộc tấn công phủ đầu do Israel thực hiện sẽ tăng lên đáng kể. Đối với Iran, nước này đã chống lại được các lệnh trừng phạt vì phát triển khả năng vũ khí hạt nhân, nó sẽ có được tiếng tăm, những quyền năng hăm dọa mới, và tăng cường khả năng hành động với các vũ khí thông thường hoặc các hình thức phi hạt nhân của chiến tranh phi truyền thống.

Có lập luận cho rằng một cách tiếp cận mới đối với quan hệ Mỹ-Iran sẽ phát triển từ các cuộc đàm phán hạt nhân, bù đắp cho việc từ bỏ vị trí lịch sử của phương Tây. Ví dụ về mối quan hệ của Mỹ với Trung Quốc thường được viện dẫn để minh họa cho hiệu ứng này, do hai nước đã chuyển từ thái độ thù địch sang chấp nhận lẫn nhau, và thậm chí hợp tác trong một thời gian tương đối ngắn trong những năm 1970. Như Iran đôi khi vẫn nói, nước này có thể sẵn sàng hạn chế sử dụng các chương trình hạt nhân quân sự sắp hoàn thành của mình vào mục đích ngoại giao để đổi lấy sự thiện chí và hợp tác chiến lược của Mỹ.

Sự so sánh này là khập khiễng. Trung Quốc khi đó đang phải đối mặt với 42 sư đoàn quân Xô-viết ở biên giới phía bắc sau một thập kỷ leo thang thù nghịch lẫn nhau, và cả những bất ổn nội bộ của Trung Quốc. Nước này có mọi lý do để thử nghiệm một hệ thống quốc tế thay thế để nương tựa. Không hề có một động cơ nào rõ ràng như vậy trong quan hệ Iran-phương Tây. Trong thập kỷ vừa qua, Iran đã chứng kiến sự loại bỏ hai trong số các đối thủ lớn của nước này, chế độ Taliban ở Afghanistan và Iraq của Saddam Hussein – trớ trêu thay lại là nhờ những hành động của Mỹ – và nước này đã làm sâu sắc thêm ảnh hưởng và vai trò quân sự của mình tại Lebanon, Syria, và Iraq. Hai trong số các đối thủ cạnh tranh chính của nước này trong việc giành ảnh hưởng ở khu vực – Ai Cập và Ả-rập Saudi – đang phải bận tâm với những thách thức nội bộ ngay cả khi Iran đã có những bước đi nhanh chóng và thành công rõ ràng trong việc đè bẹp đối lập nội bộ sau một cuộc nổi dậy đòi dân chủ năm 2009. Các nhà lãnh đạo Iran phần lớn đã được chào mời vào các địa vị quốc tế đáng trọng mà không cần cam kết bất kỳ thay đổi lớn nào trong chính sách, và được các công ty phương Tây chèo kéo về cơ hội đầu tư ngay cả khi các lệnh trừng phạt vẫn đang được thực thi. Trớ trêu thay, sự nổi lên của phong trào thánh chiến dòng Sunni dọc biên giới của Iran có thể khiến nước này phải suy nghĩ lại. Nhưng cũng không kém phần đáng tin cậy rằng Tehran coi bối cảnh chiến lược này như là thay đổi có lợi cho mình, và tiến trình cách mạng của nước này dường như được chứng minh là đúng. Việc Iran chọn phương án nào sẽ phụ thuộc vào những toan tính riêng của nước này, chứ không phải những giả định của Mỹ.

Cho đến khi cuốn sách này được viết, Iran và phương Tây đã gắn những ý nghĩa khác nhau cho khái niệm đàm phán. Trong khi các nhà đàm phán Mỹ và châu Âu nói về triển vọng cho một thỏa thuận hạt nhân với sự lạc quan thận trọng và kiềm chế tối đa trong các tuyên bố công khai với hy vọng thúc đẩy một bầu không khí thuận lợi, Giáo chủ Khamenei lại miêu tả các cuộc đàm phán hạt nhân như là một phần của cuộc chiến tôn giáo bất tận mà ở đó đàm phán là một hình thức đấu tranh và ngăn cấm sự thỏa hiệp. Tới tận cuối tháng Năm năm 2014, với sáu tuần còn lại trong khoảng thời gian thỏa thuận tạm thời, Lãnh đạo Tối cao của Iran được đưa tin là đã miêu tả các cuộc đàm phán hạt nhân như sau:

Lý do cho việc tiếp tục chiến đấu phải được nhấn mạnh, không phải do sự hiếu chiến của giới cầm quyền Hồi giáo. Nó đơn giản chỉ là sự hợp lý khi đi qua một khu vực đầy những tên cướp biển, người ta nên trang bị đầy đủ cho mình, được thúc đẩy bởi động cơ và có khả năng tự bảo vệ mình.

Trong những trường hợp như vậy, chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc tiếp tục chiến đấu và cho phép ý tưởng chiến đấu bao trùm tất cả các vấn đề đối nội và đối ngoại của đất nước mình. Những kẻ thúc đẩy sự nhượng bộ và đầu hàng trước sự bắt nạt và buộc tội gây chiến cho Hồi giáo mới chính là những kẻ phạm tội phản quốc.

Tất cả giới chức của đất nước trong các lĩnh vực kinh tế, khoa học, văn hóa, hoạch định chính sách, lập pháp, và đàm phán ngoại giao cần phải nhận thức rằng họ đang chiến đấu và tiếp tục chiến đấu cho việc thiết lập và duy trì sự tồn tại của hệ thống Hồi giáo... Cuộc thánh chiến sẽ không bao giờ kết thúc vì quỷ Satan và những trận chiến với nó sẽ tồn tại mãi mãi.

Đối với mọi quốc gia, lịch sử đóng vai trò hình thành tính cách con người. Trong lịch sử đầy tự hào và phong phú của Iran, người ta có thể phân biệt ba cách tiếp cận khác nhau đối với trật tự quốc tế. Đó là chính sách của nhà nước trước khi diễn ra cuộc cách mạng Khomeini: thận trọng trong việc bảo vệ biên giới, tôn trọng chủ quyền của các nước khác, sẵn sàng tham gia vào các liên minh, từ đó theo đuổi lợi ích quốc gia của mình bằng các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia. Đó cũng là truyền thống của đế quốc, coi Iran là trung tâm của thế giới văn minh và tìm cách xóa bỏ quyền tự chủ của các nước xung quanh tới chừng nào quyền lực nước này có thể vươn tới. Cuối cùng, đó là một Iran thánh chiến đã được mô tả trong các trang trước. Sự thay đổi trong hành vi của những nhà lãnh đạo cấp cao Iran được lấy cảm hứng từ truyền thống nào trên đây? Nếu chúng ta giả định một sự thay đổi cơ bản, những gì mang đến sự thay đổi đó? Đó là cuộc xung đột mang tính tâm lý hay chiến lược? Cuộc xung đột đó sẽ được giải quyết bằng sự thay đổi thái độ hay sự điều chỉnh chính sách? Và nếu là điều chỉnh chính sách, sự điều chỉnh nào nên được tìm kiếm? Liệu quan điểm của hai nước về trật tự thế giới có thể được dung hòa? Hay thế giới sẽ phải chờ đến khi những áp lực thánh chiến mờ nhạt, như chúng đã biến mất trước đây ở Đế quốc Ottoman như là kết quả của một sự thay đổi trong những vận động quyền lực và những ưu tiên nội địa? Việc trả lời những câu hỏi này phụ thuộc vào tương lai của mối quan hệ Mỹ-Iran và có lẽ là nền hòa bình của thế giới.

Về nguyên tắc, Mỹ cần chuẩn bị để đạt được một sự thấu hiểu về địa chính trị cùng với Iran trên cơ sở các nguyên tắc không can thiệp của Hòa ước Westphalia, và xây dựng một khái niệm tương thích với trật tự khu vực. Trước khi có cuộc cách mạng Khomeini, Iran và Mỹ trên thực tế đã là các đồng minh dựa trên đánh giá cứng rắn về lợi ích quốc gia của các tổng thống Mỹ ở cả hai đảng. Lợi ích quốc gia của Iran và Mỹ đã từng được hai bên coi là tương đồng. Cả hai đã cùng phản đối sự thống trị khu vực bởi một siêu cường, khi đó là Liên Xô. Cả hai đều đã từng sẵn sàng dựa trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nước khác trong chính sách của họ đối với khu vực. Cả hai cùng ủng hộ sự phát triển kinh tế trong khu vực, ngay cả khi nền kinh tế ấy đã không tiến triển trên một lĩnh vực đủ lớn nào. Từ quan điểm của Mỹ, có mọi lý do để tái lập một mối quan hệ như vậy. Sự căng thẳng trong quan hệ Iran-Mỹ có nguyên nhân từ việc Tehran tiếp nhận các nguyên tắc và những lời lẽ thánh chiến, cùng với những cuộc tấn công trực tiếp vào lợi ích và quan điểm của Mỹ về trật tự quốc tế.

Cách Iran tổng hợp những di sản phức tạp của nước này sẽ được thúc đẩy phần lớn bởi những động lực nội bộ; trong một đất nước có quá nhiều phức tạp về văn hóa và chính trị như vậy, những cách thức đó rất khó đoán trước đối với các nhà quan sát nước ngoài, và chúng cũng không bị ảnh hưởng bởi những đe dọa hay xu nịnh từ bên ngoài. Nhưng dù Iran thể hiện bộ mặt nào với thế giới bên ngoài, nó cũng không làm thay đổi thực tế rằng Iran cần phải đưa ra một lựa chọn. Nó phải quyết định xem mình là một đất nước hay là một mục tiêu. Mỹ cần cởi mở cho một quá trình hợp tác và thúc đẩy quá trình đó. Nhưng dù là thành phần cần thiết của sự phát triển này, sự khéo léo và quyết tâm của các nhà đàm phán phương Tây sẽ không đủ để đảm bảo điều đó. Việc Iran không tiếp tục hỗ trợ cho các nhóm như Hezbollah sẽ là một bước đi quan trọng và cần thiết trong việc tái lập một mô hình mang tính xây dựng của các mối quan hệ song phương. Thách thức sẽ là liệu Iran có coi sự hỗn loạn dọc biên giới của mình như là một mối đe dọa hay là một cơ hội để thực hiện những hy vọng ngàn năm.

Mỹ cần xây dựng một tầm nhìn chiến lược về quá trình mà mình tham gia. Phát ngôn viên của chính phủ khi giải thích vai trò giảm sút của Mỹ ở Trung Đông, đã miêu tả tầm nhìn về một trạng thái cân bằng mà ở đó các quốc gia của người Sunni (và có lẽ là Israel) tạo thế cân bằng với Iran. Ngay cả khi một chòm sao như vậy xuất hiện để rồi tàn lụi, nó chỉ có thể được duy trì bởi một chính sách ngoại giao tích cực của Mỹ. Vì sự cân bằng quyền lực không bao giờ ở trạng thái tĩnh, nên các thành phần của nó sẽ liên tục thay đổi. Mỹ sẽ được cần đến trong vai trò nước tạo thế cân bằng trong tương lai gần. Vai trò của nước tạo thế cân bằng sẽ được thực hiện tốt nhất nếu Mỹ xích lại gần các lực lượng đối nghịch hơn là giữa họ với nhau và không để bản thân sa đà vào việc bảo trợ cho chiến lược của bên nào, đặc biệt là ở các thái cực. Theo đuổi những mục tiêu chiến lược của riêng mình, Mỹ có thể là một nhân tố quan trọng – có lẽ là nhân tố quyết định – trong việc xác định liệu Iran theo đuổi con đường cách mạng Hồi giáo hay con đường của một quốc gia vĩ đại, được đặt một cách chính danh và quan trọng trong hệ thống các quốc gia theo Hòa ước Westphalia. Nhưng Mỹ có thể thực hiện trọn vẹn vai trò đó chỉ trên cơ sở của sự tham gia, chứ không phải sự thoái lui.

TẦM NHÌN VÀ THỰC TẾ

Trong những năm gần đây, vấn đề hòa bình ở Trung Đông tập trung vào chủ đề rất kỹ thuật là vũ khí hạt nhân ở Iran. Không có con đường tắt nào cho sự cần thiết bắt buộc phải ngăn chặn sự xuất hiện của những vũ khí này. Nhưng đáng để chúng ta nhớ lại những giai đoạn khi các cuộc khủng hoảng khác dường như không thể giải quyết ở Trung Đông, những giai đoạn đã được xem xét dưới góc độ mới bằng sự dũng cảm và tầm nhìn.

Giữa những năm 1967 và 1973, xảy ra hai cuộc chiến tranh giữa Ả-rập và Israel, quân đội Mỹ hai lần bị báo động, một cuộc xâm lược Jordan của Syria, hàng loạt cầu hàng không tiếp viện của Mỹ vào khu vực chiến sự, nhiều vụ không tặc và hầu hết các nước Ả-rập phá bỏ quan hệ ngoại giao với Mỹ. Tuy nhiên, sau những sự kiện trên là một tiến trình hòa bình đã mang đến ba thỏa thuận giữa Ai Cập và Israel (mà đỉnh cao là một hiệp ước hòa bình vào năm 1979), một thỏa thuận không can thiệp với Syria năm 1974 (kéo dài bốn thập kỷ bất chấp các cuộc nội chiến ở nước này), Hội nghị Madrid năm 1991 tái khởi động tiến trình hòa bình, Hiệp định Oslo giữa Tổ chức Giải phóng Palestine và Israel năm 1993, và một hiệp ước hòa bình giữa Jordan và Israel vào năm 1994.

Những mục tiêu này đã đạt được vì ba điều kiện được đáp ứng: chính sách tích cực của Mỹ, sự ngăn chặn việc đưa ra những kế hoạch tìm cách thiết lập một trật tự khu vực bằng cách áp đặt các nguyên tắc phổ quát thông qua bạo lực, và sự xuất hiện của những nhà lãnh đạo với tầm nhìn hướng tới hòa bình.

Hai sự kiện mà tôi đã trải nghiệm tượng trưng cho tầm nhìn đó. Năm 1981, trong chuyến thăm cuối cùng tới Washington, Tổng thống Sadat đã mời tôi đến Ai Cập vào mùa xuân năm sau để dự lễ kỷ niệm Bán đảo Sinai được Israel trả lại cho Ai Cập. Sau đó, ông ấy im lặng một lát và nói, “Đừng đến dự lễ kỷ niệm, việc ấy sẽ là quá đau đớn với Israel. Hãy đến sáu tháng sau đó, anh và tôi sẽ cùng nhau lái xe đến đỉnh núi Sinai, nơi tôi dự định xây một thánh đường Hồi giáo, một nhà thờ Thiên Chúa giáo và một giáo đường Do Thái để tượng trưng cho ước muốn hòa bình.”

Từng là Tham mưu trưởng quân đội Israel, Yitzhak Rabin là Thủ tướng khi ký kết thỏa thuận chính trị đầu tiên giữa Israel và Ai Cập vào năm 1975, và sau đó một lần nữa khi ông và Shimon Peres – cựu Bộ trưởng Quốc phòng, giờ đây là Bộ trưởng Ngoại giao – đàm phán một thỏa thuận hòa bình với Jordan vào năm 1994. Tháng Bảy năm 1994, nhân dịp thỏa thuận hòa bình giữa Israel-Jordan, Rabin đã phát biểu tại một phiên họp chung của Nghị viện Mỹ cùng với Vua Hussein của Jordan:

Hôm nay, chúng tôi đang cùng nhau dấn thân vào một trận chiến mà không có người chết và không ai bị thương, không có đổ máu và không còn nỗi thống khổ. Đây là trận chiến duy nhất mà sự khai chiến là một niềm vui: trận chiến của hòa bình…

Trong Thánh Kinh của chúng tôi, cuốn sách của mọi cuốn sách, hòa bình được đề cập 237 lần bằng nhiều thành ngữ khác nhau. Trong Thánh Kinh, chúng tôi học được giá trị và sức mạnh của mình, trong Sách Jeremiah[104], chúng tôi tìm thấy sự tiếc thương cho Nữ thánh Rachel[105]. Sách viết:

“Hãy nín tiếng than khóc của ngươi, mắt ngươi đừng sa lụy, vì công việc của ngươi sẽ được đền đáp, Chúa phán.”

Tôi sẽ không kìm chế khóc thương cho những người đã khuất. Nhưng vào ngày hè hôm nay ở Washington, ở nơi xa quê nhà, chúng tôi cảm nhận rằng công việc của chúng tôi sẽ được đền đáp, như Đấng Tiên tri đã tiên tri.

Cả Sadat và Rabin đều bị ám sát. Nhưng những thành tựu của họ không thể bị xóa bỏ và cảm hứng của họ không thể bị dập tắt.

Một lần nữa, các học thuyết về đe dọa bằng bạo lực thách thức những niềm hy vọng về trật tự thế giới. Nhưng khi chúng bị ngăn chặn – và chỉ khi chúng bị ngăn chặn – sẽ có thể xuất hiện một khoảnh khắc tương tự như những gì đã đưa tới những đột phá được kể lại trên đây, khi tầm nhìn đã vượt qua thực tại.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3