Trật Tự Thế Giới - Chương 05

Chương 5

SỰ ĐA DẠNG CỦA CHÂU Á

CHÂU Á VÀ CHÂU ÂU: CÁC KHÁI NIỆM KHÁC NHAU VỀ CÂN BẰNG QUYỀN LỰC

Thuật ngữ “châu Á” gán sự gắn kết dễ nhầm lẫn cho một khu vực gồm nhiều thành phần khác nhau. Trước khi có sự viếng thăm của các cường quốc phương Tây hiện đại, không một ngôn ngữ châu Á nào có từ vựng để chỉ “châu Á”; không một dân tộc nào mà ngày nay là gần 50 quốc gia có chủ quyền của châu Á quan niệm rằng họ sống ở một “lục địa” duy nhất hay một khu vực đòi hỏi sự đoàn kết với tất cả những dân tộc khác. Được gọi là “phương Đông,” khu vực này chưa bao giờ song hành rõ nét với “phương Tây.” Vẫn chưa có một tôn giáo chung nào, càng không có một tôn giáo phân thành các nhánh khác nhau như Ki-tô giáo ở phương Tây. Phật giáo, Hindu giáo, Hồi giáo, và Ki-tô giáo đều phát triển mạnh ở các khu vực khác nhau của châu Á. Một đế chế chung giống như La Mã không hề tồn tại trong ký ức nơi đây. Trên khắp các vùng Đông Bắc, Đông, Đông Nam, Nam, và Trung Á, các khác biệt về dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, xã hội, và văn hóa lớn hiện hành đã bị các cuộc chiến tranh trong lịch sử hiện đại khoét sâu và thường là với một cách cay đắng.

Bản đồ chính trị và kinh tế của châu Á minh họa cho bức tranh phức tạp của khu vực này. Lục địa này bao gồm các quốc gia công nghiệp và có công nghệ tiên tiến như Nhật Bản, Hàn Quốc, và Singapore, với nền kinh tế và mức sống sánh ngang với các nước châu Âu; ba quốc gia có quy mô lục địa là Trung Quốc, Ấn Độ, và Nga; hai quần đảo lớn (ngoài Nhật Bản) là Philippines và Indonesia, bao gồm hàng ngàn hòn đảo nằm trên các tuyến hàng hải chính; ba quốc gia cổ đại với dân số xấp xỉ Pháp hoặc Italy là Thái Lan, Việt Nam, và Myanmar; một Australia khổng lồ và một New Zealand đồng quê, với phần lớn dân cư có nguồn gốc châu Âu; và Bắc Triều Tiên, một chế độ độc tài gia đình trị theo kiểu Stalin thiếu thốn hoàn toàn về công nghiệp và công nghệ, ngoại trừ chương trình vũ khí hạt nhân. Một lượng lớn dân cư với đa số theo Hồi giáo tập trung chủ yếu trên khắp Trung Á, Afghanistan, Pakistan, Bangladesh, Malaysia, và Indonesia, cùng một bộ phận khá lớn các nhóm thiểu số Hồi giáo sống ở Ấn Độ, Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, và Philippines.

Trật tự thế giới trong thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20 chủ yếu là do châu Âu thiết lập, được thiết kế để duy trì một sự cân bằng quyền lực sơ khai giữa các nước lớn ở châu Âu. Bên ngoài châu lục của riêng mình, các quốc gia châu Âu xây dựng các thuộc địa và biện minh cho hành động của họ theo các phiên bản khác nhau của cái-gọi-là sứ mệnh khai hóa. Từ góc nhìn của thế kỷ 21, khi mà các quốc gia châu Á đang gia tăng về sự thịnh vượng, sức mạnh và sự tự tin, có vẻ như không thể xảy ra việc chủ nghĩa thực dân đạt được một sức mạnh như vậy, hay việc các thiết chế của chủ nghĩa thực dân được coi là một cơ chế bình thường của đời sống quốc tế. Chỉ các nhân tố vật chất thì không thể giải thích được điều này; một ý thức về sứ mệnh và một xung lượng tâm lý vô hình cũng đóng một vai trò trong đó.

Các tài liệu tuyên truyền và luận thuyết của các cường quốc thực dân từ buổi bình minh của thế kỷ 20 đã cho thấy một sự kiêu ngạo lớn tới mức họ được quyền đóng khung một trật tự thế giới theo những nguyên tắc của mình. Các tài liệu ghi chép của Trung Quốc hay Ấn Độ đã nhún nhường xác định một nhiệm vụ của châu Âu trong việc hướng văn hóa truyền thống tới những nền văn minh cao hơn. Các nhà cầm quyền châu Âu cùng với những nhóm nhỏ nhân viên đã vẽ lại biên giới của các quốc gia cổ đại mà quên rằng đây có thể là một sự phát triển bất thường, không mong muốn hoặc không chính danh.

Thế kỷ 15, vào buổi bình minh của những gì giờ đây được gọi là thời hiện đại, một phương Tây tự tin, bất kham, và lãnh thổ bị chia cắt đã giương buồm trinh sát toàn cầu, mở mang, khai thác, và “khai hóa” những vùng đất nó tới. Người phương Tây gây ấn tượng với các dân tộc họ gặp bởi các quan điểm về tôn giáo, khoa học, thương mại, quản trị, và ngoại giao được định hình từ kinh nghiệm lịch sử của mình, thứ mà họ coi là đỉnh cao của thành tựu loài người.

Phương Tây đã bành trướng với những đặc điểm nổi bật quen thuộc của chủ nghĩa thực dân – sự tham lam, chủ nghĩa Sô-vanh văn hóa và ham muốn vinh quang. Nhưng cũng đúng khi nói rằng các yếu tố tiến bộ hơn của phương Tây đã cố gắng dẫn dắt một hướng đạo toàn cầu bằng phương pháp trí tuệ để khuyến khích chủ nghĩa hoài nghi, cùng nhiều thông lệ chính trị và ngoại giao mà cuối cùng bao hàm nền dân chủ. Nó gần như đảm bảo rằng sau một thời gian dài chịu nô dịch, các dân tộc thuộc địa cuối cùng sẽ đòi hỏi – và đạt được – quyền tự quyết. Ngay cả trong giai đoạn cướp phá tàn bạo nhất của mình, các thế lực bành trướng, đặc biệt ở Anh, đã đưa ra một tầm nhìn mà ở một góc độ nào đó, các dân tộc bị chinh phục sẽ bắt đầu tham gia vào những thành quả của một hệ thống toàn cầu chung. Cuối cùng, cùng với phản ứng mạnh mẽ chống lại việc thi hành bẩn thỉu chế độ nô lệ, phương Tây đã tạo ra thứ mà không một nền văn minh sử dụng nô lệ nào có: một phong trào xóa bỏ chế độ nô lệ trên toàn cầu dựa trên niềm tin của nhân loại nói chung và phẩm giá vốn có của cá nhân. Từ bỏ sự dựa dẫm trước đó vào thương mại đáng khinh, Anh đã đi đầu trong việc thực thi một chuẩn mực mới về phẩm giá con người, xóa bỏ chế độ nô lệ trong đế chế của mình, và nghiêm cấm các tàu buôn bán nô lệ trên các đại dương. Sự kết hợp đặc biệt của hành vi hống hách, sức mạnh công nghệ, chủ nghĩa nhân văn lý tưởng, và chất men trí tuệ mang tính cách mạng đã tỏ ra là một trong những nhân tố định hình thế giới hiện đại.

Ngoại trừ Nhật Bản, châu Á là một nạn nhân chứ không phải một người chơi trong trật tự quốc tế do chủ nghĩa thực dân áp đặt. Không giống như Nhật Bản, Thái Lan duy trì được độc lập của mình nhưng lại tỏ ra quá yếu để có thể tham gia vào sự cân bằng quyền lực như một hệ thống của trật tự khu vực. Kích thước của Trung Quốc đã ngăn chặn việc thực dân hóa toàn bộ quốc gia này, nhưng nước này lại bị mất quyền kiểm soát các lĩnh vực quan trọng trong các công việc nội bộ của mình. Cho đến khi Thế chiến II kết thúc, hầu hết các nước châu Á thực hiện các chính sách của mình như là một sự lệ thuộc các cường quốc châu Âu, hoặc là sự lệ thuộc Mỹ như trong trường hợp của Philippines. Các điều kiện cho phong cách ngoại giao theo kiểu Hòa ước Westphalia chỉ bắt đầu xuất hiện với sự trao trả độc lập cho các nước thuộc địa sau khi trật tự châu Âu bị phá vỡ bởi hai cuộc thế chiến.

Quá trình giải phóng khỏi trật tự khu vực hiện hành diễn ra bạo lực và đẫm máu: cuộc nội chiến Trung Quốc (1927-1949), chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), cuộc đối đầu Trung Quốc-Liên Xô (khoảng 1955-1980), các cuộc nổi dậy của du kích cách mạng trên khắp khu vực Đông Nam Á, chiến tranh Việt Nam (1961-1975)[106], bốn cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ với Pakistan (1947, 1965, 1971, và 1999), chiến tranh Trung Quốc-Ấn Độ (1962), cuộc chiến Trung Quốc-Việt Nam (1979), và sự cướp phá của quân Khmer Đỏ diệt chủng (1975-1979).

Sau nhiều thập kỷ chiến tranh và bất ổn cách mạng, châu Á đã có những chuyển mình đáng kể. Sự trỗi dậy được thể hiện từ năm 1970 của “Những con hổ châu Á” bao gồm Hong Kong, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan, và Thái Lan mở ra sự thịnh vượng và năng động kinh tế. Nhật Bản đã lựa chọn các thể chế dân chủ và xây dựng một nền kinh tế sánh ngang, và trong một số trường hợp vượt lên trên các nước phương Tây. Năm 1979, Trung Quốc đổi hướng, và dưới thời Đặng Tiểu Bình đã tuyên bố một chính sách đối ngoại phi ý thức hệ và một chính sách cải cách kinh tế, được tiếp nối và đẩy nhanh bởi những người kế nhiệm ông, có tác động biến đổi sâu sắc đối với Trung Quốc và thế giới.

Khi những thay đổi này diễn ra, chính sách đối ngoại dựa trên lợi ích quốc gia có tiền đề là nguyên tắc của Hòa ước Westphalia dường như đã chiếm ưu thế ở châu Á. Không giống như ở Trung Đông, nơi mà gần như tất cả các quốc gia đang bị đe dọa bởi các thách thức quân sự về tính chính danh của mình, ở châu Á quốc gia được coi là đơn vị cơ bản của chính trị quốc tế và trong nước. Các quốc gia khác nhau xuất hiện từ thời kỳ thuộc địa nói chung đã khẳng định chủ quyền lẫn nhau và cam kết không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; những nước này tuân theo những chuẩn mực của các tổ chức quốc tế và xây dựng các tổ chức kinh tế và xã hội khu vực hoặc liên vùng. Trong dòng chảy ấy, tháng Một năm 2013, trong một đánh giá quan trọng về chính sách, một quan chức quân sự hàng đầu Trung Quốc, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc Tề Kiến Quốc đã viết rằng, một trong những thách thức chủ yếu của thời đại hiện nay là duy trì “các nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế hiện đại đã được thiết lập vững chắc vào năm 1648 bởi ‘Hòa ước Westphalia,’ đặc biệt là các nguyên tắc về chủ quyền và bình đẳng.”

Châu Á đã nổi lên như là một trong những di sản có ý nghĩa nhất của hệ thống theo Hòa ước Westphalia: có truyền thống lịch sử và thường đối kháng nhau trong lịch sử, các dân tộc đang tự tổ chức thành các quốc gia có chủ quyền và những tổ chức khu vực bao gồm các quốc gia. Ở châu Á, đi xa hơn cả châu Âu, không kể tới Trung Đông, những nguyên tắc của mô hình theo Hòa ước Westphalia về trật tự quốc tế đã có được sự diễn đạt đương đại của mình, bao gồm các học thuyết bị chất vấn nhiều ở phương Tây rằng các nguyên tắc đó quá tập trung vào lợi ích quốc gia hoặc có bất cập trong việc bảo vệ các quyền con người. Chủ quyền, trong nhiều trường hợp chỉ mới vừa giành được từ ách thống trị thực dân, được coi như có một đặc tính tuyệt đối. Mục tiêu của chính sách quốc gia không phải là để vượt lên trên lợi ích quốc gia – như trong các khái niệm đang thịnh hành ở châu Âu hay Mỹ – mà là để tin tưởng, hăng hái theo đuổi lợi ích đó. Các chính phủ đều bác bỏ những lời chỉ trích của nước ngoài về những công việc nội bộ của mình như là dấu hiệu của sự giám hộ thực dân mà họ vừa mới vượt qua. Vì vậy, ngay cả khi những hành động nội bộ của các quốc gia láng giềng được coi là thái quá, như đã từng xảy ra ở Myanmar, chúng vẫn được coi là dịp để can thiệp bằng ngoại giao thầm lặng, chứ không bằng áp lực công khai và có rất ít sự can thiệp ép buộc.

Đồng thời, yếu tố đe dọa tiềm ẩn luôn hiện diện. Trung Quốc công khai khẳng định, còn tất cả những người chơi chủ chốt khác ngầm định, về việc sử dụng lực lượng quân sự trong việc theo đuổi các lợi ích quốc gia cốt lõi. Ngân sách quân sự đang gia tăng. Tình trạng đối địch giữa các quốc gia, như ở Biển Đông và vùng biển Đông Bắc Á, nói chung đã được tiến hành bằng các phương pháp ngoại giao châu Âu thế kỷ 19; việc sử dụng vũ lực không bị loại trừ, dù đã được hạn chế (nếu có phần nào) theo năm tháng.

Trật tự tôn ti cấp bậc, chứ không phải sự bình đẳng về chủ quyền, là nguyên tắc tổ chức của các hệ thống quốc tế trong lịch sử châu Á. Quyền lực được thể hiện bởi sự tôn kính đối với người trị vì và cấu trúc quyền hành công nhận cương vị chúa tể đó, chứ không nằm ở việc phân định biên giới cụ thể trên bản đồ. Các đế quốc mở rộng thương mại và mệnh lệnh chính trị của mình, yêu cầu sự liên kết của các đơn vị chính trị nhỏ hơn. Đối với các dân tộc nằm ở nơi giao nhau của hai hay nhiều trật tự đế quốc, con đường dẫn đến độc lập thường là chấp nhận ghi danh như một nước phụ thuộc trên danh nghĩa đối với hai hay nhiều đế quốc (một nghệ thuật vẫn còn được ghi nhớ và thực hành ngày nay ở một số khu vực).

Thuộc các hệ thống ngoại giao trong lịch sử của châu Á, dù dựa trên mô hình của Trung Quốc hay Ấn Độ, chế độ quân chủ được coi là một biểu hiện của thần thánh hay ít nhất là một dạng phụ quyền; những biểu hiện hữu hình bằng cống phẩm được cho là bổn phận của các nước phụ thuộc đối với các nước lớn. Về mặt lý thuyết, điều này xóa bỏ sự mơ hồ về bản chất của các mối quan hệ quyền lực trong khu vực, dẫn đến một loạt sự liên kết cứng nhắc. Tuy nhiên, trên thực tế những nguyên tắc này được áp dụng với sự sáng tạo và linh hoạt đáng kể. Ở Đông Bắc Á, Vương quốc Lưu Cầu (Ryukyu)[107] đã có một khoảng thời gian triều cống cho cả Nhật Bản và Trung Quốc. Trên những ngọn đồi phía bắc Miến Điện, các bộ lạc đã đảm bảo một hình thức tự chủ thực thụ bằng cách cam kết trung thành đồng thời với cả triều đình Miến Điện và Hoàng đế Trung Quốc (và nói chung không chịu áp lực phải tuân theo mệnh lệnh của bất kỳ đế quốc nào). Trong nhiều thế kỷ, Nepal đã khéo léo cân bằng quan hệ ngoại giao với các triều đại cầm quyền ở cả Trung Quốc và Ấn Độ, dâng các chiếu thư và quà tặng mà được Trung Quốc hiểu là cống phẩm, nhưng chỉ được xem như là bằng chứng của sự trao đổi bình đẳng ở Nepal, do đó duy trì quan hệ đặc biệt với Trung Quốc được coi như là sự bảo đảm về độc lập cho Nepal trong quan hệ với Ấn Độ. Trong thế kỷ 19, được các đế quốc phương Tây bành trướng coi như một mục tiêu chiến lược, Thái Lan hoàn toàn tránh khỏi bị thực dân hóa thông qua một chiến lược thậm chí còn phức tạp hơn bằng việc khẳng định mối quan hệ thân mật với tất cả các cường quốc nước ngoài cùng một lúc, chào đón các cố vấn nước ngoài từ nhiều nước phương Tây đối địch nhau vào trong triều đình của mình, ngay cả khi các nước này cử phái đoàn triều cống tới Trung Quốc, đồng thời lưu giữ các giáo sĩ Hindu gốc Ấn trong hoàng gia. (Đáng chú ý hơn, sự mềm mỏng đầy trí tuệ và sự nhẫn nại về cảm xúc mà chiến lược cân bằng này đòi hỏi là: bản thân Vua Thái phải được coi như một nhân vật thần thánh). Bất kỳ khái niệm nào về trật tự khu vực đều được coi là hạn chế quá mức sự linh hoạt mà công việc ngoại giao đòi hỏi.

Trong bối cảnh của những di sản tinh tế và đa dạng, một loạt các quốc gia có chủ quyền trong hệ thống theo Hòa ước Westphalia trên bản đồ của châu Á thể hiện một bức tranh rất đơn giản về thực tế tại khu vực. Không thể nắm bắt được sự đa dạng về nguyện vọng trong công việc của các nhà lãnh đạo hay sự kết hợp giữa sự chú ý tỉ mỉ đến tôn ti cấp bậc và nghi thức với thủ thuật khéo léo đặc trưng phần lớn cho ngoại giao châu Á. Đây là chiếc khung cơ bản của đời sống quốc tế ở châu Á. Nhưng ở đây, vị thế quốc gia độc lập cũng đi kèm với một loạt các di sản văn hóa đa dạng và gần gũi hơn, có lẽ hơn bất kỳ khu vực nào khác. Điều này được nhấn mạnh bởi những trải nghiệm của hai trong số các quốc gia lớn của châu Á là Nhật Bản và Ấn Độ.

NHẬT BẢN

Trong tất cả các chủ thể chính trị và văn hóa lịch sử ở châu Á, Nhật Bản phản ứng sớm nhất và dứt khoát nhất trước cuộc tấn công của phương Tây trên toàn thế giới. Nằm trên một quần đảo với nơi gần nhất cách lục địa châu Á vài trăm dặm, Nhật Bản đã gây dựng những truyền thống và văn hóa đặc biệt trong sự biệt lập. Có một sự đồng nhất gần như hoàn toàn về mặt sắc tộc và ngôn ngữ, cùng với một ý thức hệ chính thống khẳng định tổ tiên thần linh của người Nhật Bản, quốc gia này đã biến niềm tin về bản sắc độc đáo của mình thành một kiểu cam kết gần như tôn giáo. Cảm giác khác biệt này đã đem đến cho Nhật Bản sự linh hoạt tuyệt vời trong việc điều chỉnh chính sách của mình để phù hợp với quan niệm về sự cần thiết có tính chiến lược quốc gia. Trong khoảng thời gian hơn một thế kỷ từ sau năm 1868, Nhật Bản đã chuyển từ trạng thái hoàn toàn biệt lập sang việc mở rộng vay mượn các mô hình từ những quốc gia rõ ràng là hiện đại nhất ở phương Tây (mô hình quân đội của Đức, các thể chế nghị viện và hải quân của Anh); từ nỗ lực táo bạo trong việc xây dựng đế quốc cho tới chủ nghĩa hòa bình, và từ đó tái xuất hiện với vị thế của một cường quốc lớn kiểu mới; từ chế độ phong kiến tới các hình thức khác nhau của chủ nghĩa chuyên chế phương Tây, và từ đó theo đuổi dân chủ; lần lượt nằm trong rồi ra khỏi trật tự thế giới (đầu tiên là của phương Tây, sau đó là châu Á và giờ đây là toàn cầu). Trong suốt quá trình đó, Nhật Bản tin rằng sứ mệnh quốc gia của mình không thể bị phai nhạt khi điều chỉnh theo các cách thức và các thể chế của những xã hội khác; sứ mệnh ấy sẽ chỉ được thúc đẩy bằng cách thích ứng thành công.

Trong nhiều thế kỷ, Nhật Bản tồn tại ở ven rìa của thế giới Trung Quốc, vay mượn rất nhiều từ tôn giáo và văn hóa Trung Quốc. Nhưng không giống như hầu hết các xã hội trong vòng ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, nó đã chuyển đổi các hình thức vay mượn thành các mô hình Nhật Bản và không bao giờ đem lồng chúng vào một nghĩa vụ tôn ti cấp bậc đối với Trung Quốc. Có những thời điểm, vị thế kiên cường của Nhật Bản là nguồn cơn của sự khiếp đảm đối với triều đình Trung Quốc. Các dân tộc châu Á khác chấp nhận các tiền đề và nghi thức trong hệ thống triều cống này – một sự phụ thuộc mang tính biểu tượng đối với Hoàng đế Trung Quốc, theo đó nghi lễ của Trung Quốc được áp đặt lên thiên hạ – giao thương dưới danh nghĩa “cống nạp” để tiếp cận thị trường Trung Quốc. Họ tôn trọng (ít nhất là trong việc trao đổi với triều đình Trung Quốc) khái niệm Nho giáo về trật tự quốc tế như là tôn ti trật tự trong gia tộc mà Trung Quốc là tộc trưởng. Về mặt địa lý, Nhật Bản đủ gần để có thể hiểu sát nhất từ này và thường ngầm chấp nhận đối với trật tự thế giới kiểu Trung Quốc như một thực tế khu vực. Trong việc tìm kiếm thương mại, giao lưu văn hóa, các phái đoàn Nhật Bản tuân thủ nghi thức xã giao gần giống với những hình thức đã được thiết lập từ trước, khiến các quan lại Trung Quốc có thể hiểu như là bằng chứng về khát vọng của Nhật Bản muốn trở thành thành viên trong một trật tự tôn ti cấp bậc chung. Tuy nhiên, trong một khu vực đã rất quen thuộc với sự thay đổi vị thế được hàm ý trong những quyết định nhỏ nhặt về nghi thức – chẳng hạn như từ duy nhất được dùng để chỉ người trị vì, cách thức một lá thư trang trọng được chuyển đi, hoặc phong cách viết ngày tháng theo lịch trên một tài liệu chính thức – Nhật Bản luôn từ chối đảm nhận vai trò chính thức trong hệ thống triều cống mà Trung Quốc là trung tâm. Quốc gia này lơ lửng ở ngoài rìa của một trật tự thế giới tôn ti cấp bậc của Trung Quốc, lúc thì nhấn mạnh sự bình đẳng và lúc thì lại nhấn mạnh tới thế ưu việt riêng của mình.

Theo quan điểm riêng của nước này về trật tự thế giới thì đứng ở vị trí cao nhất trong xã hội Nhật Bản là Hoàng đế Nhật Bản - Thiên Hoàng, giống như Hoàng đế Trung Quốc, nhân vật này được coi là thiên tử, cầu nối giữa con người và thánh thần. Được thể hiện lặp đi lặp lại trên các công hàm ngoại giao của Nhật Bản gửi đến triều đình Trung Quốc, chức vị này là thách thức trực tiếp đối với vũ trụ quan về trật tự thế giới của Trung Quốc, trong đó đặt Hoàng đế Trung Quốc ở đỉnh cao duy nhất trong tôn ti cấp bậc của loài người. Bên cạnh vị thế này (nơi mà sự vay mượn siêu việt vượt lên trên và ra xa ngoài những gì có thể đã được tuyên bố bởi bất kỳ Hoàng đế La Mã Thần thánh nào ở châu Âu), triết học chính trị truyền thống của Nhật Bản thừa nhận một sự khác biệt nữa, đó là coi các Thiên Hoàng là những vị thần hậu duệ của Nữ thần Mặt trời, người đã sinh ra vị Thiên Hoàng đầu tiên và trao cho những người kế vị của Hoàng đế đó quyền cai trị vĩnh cửu. Theo cuốn Hồ sơ về sự kế thừa chính danh của những quốc vương thần thánh vào thế kỷ 14, thì Nhật Bản là đất nước thần thánh. Tổ tiên trên thiên đình là những người đầu tiên đặt nền móng cho đất nước này, và Nữ thần Mặt trời đã để dòng dõi của Người trị vì nơi này mãi mãi. Đây là sự thật chỉ đúng với đất nước chúng ta, và không thể tìm thấy một điều tương tự ở những miền đất khác. Đó là lý do vì sao Nhật Bản được gọi là đất nước thần thánh.

Vị trí của Nhật Bản trên những hòn đảo ngoài khơi hoàn toàn cho phép nước này có nhiều lựa chọn rộng mở trong việc liệu có tham gia vào các vấn đề quốc tế hay không. Trong nhiều thế kỷ, Nhật Bản không tham gia vào các vấn đề của châu Á, nó gây dựng truyền thống quân sự của mình qua các cuộc nội chiến và tùy nghi chấp nhận thương mại và văn hóa nước ngoài theo ý mình. Cuối thế kỷ 16, một cách đường đột và đầy tham vọng, Nhật Bản nỗ lực viết lại vai trò của mình khiến các nước láng giềng ban đầu cho là không thể chấp nhận được. Hệ quả là xảy ra một trong những xung đột quân sự lớn của châu Á, mà các di sản trong khu vực của nó vẫn còn là đề tài suy ngẫm và tranh cãi sâu sắc, và những bài học của nó, nếu được chú ý đến, có thể đã thay đổi cách hành xử của Mỹ trong Chiến tranh Triều Tiên ở thế kỷ 20.

Năm 1590, sau khi đánh bại các đối thủ, thống nhất Nhật Bản và chấm dứt hơn một thế kỷ nội chiến, Lãnh chúa Toyotomi Hideyoshi[108] tuyên bố về một tầm nhìn vĩ đại: ông sẽ xây dựng một đội quân lớn nhất thế giới, tiến quân vào Bán đảo Triều Tiên, chinh phục Trung Quốc, và chinh phục cả thế giới. Ông gửi một bức thư cho Vua Triều Tiên tuyên bố ý định của mình là “tiến vào đất nước Đại Minh và bắt người dân ở đó phải tuân thủ theo tập quán và cách cư xử của chúng tôi,” và mời gọi sự giúp đỡ của vị vua này. Sau khi vị vua này ngần ngại và cảnh báo ông không nên theo đuổi nỗ lực đó (viện dẫn “mối quan hệ không thể tách rời giữa Trung Quốc và vương quốc của chúng tôi” và cả nguyên tắc Nho giáo “xâm lược một quốc gia khác là một hành động mà những người có văn hóa và có trí tuệ nên cảm thấy xấu hổ”), Hideyoshi đã phát động một cuộc xâm lược với 160.000 quân và khoảng 700 chiến thuyền. Lực lượng quy mô lớn, ồ ạt này làm choáng ngợp sự phòng thủ ban đầu và nhanh chóng tiến quân lên Bán đảo. Tốc độ của nó chậm lại khi Đô đốc Lý Thuấn Thần[109] của Triều Tiên tổ chức kháng cự bằng hải quân đầy quyết tâm, liên tục tấn công đường tiếp tế của Hideyoshi và làm chệch hướng các đạo quân xâm lược trong các trận đánh dọc bờ biển. Khi lực lượng Nhật Bản tới Bình Nhưỡng, gần nút thắt hẹp phía bắc của Bán đảo (và hiện là thủ đô Bắc Triều Tiên), Trung Quốc dùng vũ lực can thiệp, không muốn để nước triều cống của mình tràn ngập quân thù. Một đội quân viễn chinh Trung Quốc ước khoảng 40.000 đến 100.000 quân thiện chiến vượt sông Áp Lục[110] và đẩy lui lực lượng Nhật Bản tới tận Seoul. Sau năm năm đàm phán không đi tới kết quả và cuộc chiến đấu chịu nhiều tổn thất, Hideyoshi chết, lực lượng xâm lược rút lui và hiện trạng ban đầu được khôi phục. Những người cho rằng lịch sử không bao giờ lặp lại nên suy ngẫm về sự tương đồng giữa cuộc kháng chiến của Trung Quốc chống lại kế hoạch của Hideyoshi với cuộc chiến mà nước Mỹ phải đối đầu trong Chiến tranh Triều Tiên gần 400 năm sau đó.

Sau thất bại của cuộc phiêu lưu này, Nhật Bản đổi hướng, chuyển sang trạng thái ngày càng biệt lập. Dưới chính sách “bế quan tỏa cảng” kéo dài hơn hai thế kỷ, Nhật Bản gần như không tham gia vào bất kỳ trật tự thế giới nào. Quan hệ toàn diện cấp nhà nước với điều kiện bình đẳng ngoại giao chặt chẽ chỉ tồn tại với Triều Tiên. Thương nhân Trung Quốc được phép hoạt động ở một số địa điểm được chỉ định, mặc dù không có quan hệ Nhật Bản-Trung Quốc chính thức nào tồn tại vì không có cách nào có thể làm thỏa mãn lòng tự ái của cả hai bên. Ngoại thương với các nước châu Âu bị giới hạn ở một số thành phố cụ thể ven biển; tới năm 1673, tất cả bị trục xuất, ngoại trừ những người Hà Lan và họ bị giới hạn ở một hòn đảo nhân tạo đơn độc ngoài khơi cảng Nagasaki. Năm 1825, những nghi ngờ đối với các cường quốc hàng hải phương Tây đã trở nên quá lớn đến nỗi chính quyền quân sự cầm quyền của Nhật Bản ban hành một “sắc lệnh trục xuất người nước ngoài bằng bất kỳ giá nào” – tuyên bố rằng bất kỳ tàu nước ngoài nào đến gần bờ biển Nhật Bản đều sẽ bị xua đuổi vô điều kiện, nếu cần thiết sẽ dùng tới vũ lực.

Tuy nhiên, tất cả những điều này chỉ là khúc dạo đầu cho một sự thay đổi mạnh mẽ, ở đó Nhật Bản cuối cùng tự đưa mình vào trật tự toàn cầu – chủ yếu là của phương Tây trong hai thế kỷ – và trở thành một cường quốc hiện đại tuân theo các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia. Năm 1853, chất xúc tác mang tính quyết định xuất hiện khi Nhật Bản phải đối mặt với bốn tàu hải quân Mỹ được cử đi từ Norfolk, Virginia, trong một chuyến thám hiểm cố tình coi thường các sắc lệnh biệt lập của Nhật Bản bằng cách xâm nhập vào Vịnh Tokyo. Sĩ quan chỉ huy của họ, Đô đốc Matthew Perry, đem theo một bức thư của Tổng thống Millard Fillmore tới Thiên Hoàng Nhật Bản, và cứ nhất quyết phải đưa được tận tay cho đại diện hoàng gia ở thủ đô Nhật Bản (một hành vi vi phạm luật lệ của Nhật Bản và các nghi thức ngoại giao đã được gìn giữ trong suốt hai thế kỷ). Cũng giống như Trung Quốc, ít coi trọng ngoại thương, Nhật Bản chắc chắn không thể đặc biệt yên tâm với lá thư của Tổng thống, trong đó thông báo tới Hoàng đế (người mà Fillmore gọi là “Người bạn tốt và vĩ đại!” của ông) rằng người dân Mỹ “nghĩ rằng nếu Hoàng thượng có thể thay đổi luật pháp cổ xưa để cho phép thương mại tự do giữa hai nước thì điều đó sẽ vô cùng có lợi cho cả hai.” Fillmore che đậy bức tối hậu thư này dưới vỏ bọc một lời đề nghị thực dụng cổ điển của Mỹ, rằng những sắc lệnh biệt lập được coi như là bất biến từ trước tới nay có thể được nới lỏng trên cơ sở thử nghiệm:

Nếu Hoàng thượng không hài lòng rằng sẽ không hoàn toàn an toàn nếu bãi bỏ các luật lệ cổ xưa cấm ngoại thương, chúng có thể được tạm đình chỉ trong năm hay mười năm để thử nghiệm. Nếu việc thử nghiệm không chứng minh được lợi ích như kỳ vọng, những luật lệ cổ xưa có thể được phục hồi. Mỹ thường giới hạn các hiệp ước với nước ngoài trong vòng một vài năm và sau đó quyết định có gia hạn chúng hay không nếu mang lại kết quả hợp lý.

Người Nhật Bản nhận bức thông điệp này và thấy đây như là một sự thách thức đối với quan niệm của họ về trật tự chính trị và quốc tế. Tuy nhiên, họ phản ứng bằng sự điềm tĩnh dè dặt của một xã hội đã trải qua và hiểu được tính nhất thời của các nỗ lực của con người qua nhiều thế kỷ trong khi vẫn giữ được bản chất thiết yếu của mình. Tìm hiểu hỏa lực vượt trội hơn nhiều của Perry (đại bác và súng của Nhật Bản đã hầu như không có bước tiến nào trong hai thế kỷ, trong khi các tàu của Perry được trang bị hỏa lực pháo binh hải quân hiện đại có khả năng bắn đạn pháo, như ông đã thể hiện dọc bờ biển Nhật Bản), các nhà lãnh đạo của Nhật Bản đã kết luận rằng việc đối đầu trực tiếp với “những con tàu đen” sẽ là vô ích. Họ dựa vào sự gắn kết xã hội để thích ứng với cú sốc này và duy trì sự độc lập của mình nhờ sự gắn kết đó. Họ thảo một bức thư sắc sảo trả lời lịch sự, rằng mặc dù những thay đổi mà Mỹ mong muốn “bị tổ tiên hoàng tộc chúng tôi cực lực cấm đoán,” tuy nhiên, “nếu tiếp tục duy trì pháp luật cổ xưa này sẽ là không hiểu tinh thần thời đại.” Thừa nhận “chúng tôi giờ đây bị chi phối bởi sự cần thiết có tính cấp bách,” các đại diện của Nhật Bản đảm bảo với Perry rằng họ chuẩn bị để đáp ứng gần như tất cả các yêu sách của Mỹ, bao gồm cả việc xây dựng một hải cảng mới có khả năng chứa các tàu của Mỹ.

Từ thách thức này của phương Tây, Nhật Bản đã rút ra một kết luận trái ngược với Trung Quốc sau sự xuất hiện của một phái viên Anh vào năm 1793 (sẽ được thảo luận ở chương sau). Trung Quốc tái khẳng định lập trường truyền thống đánh đuổi xâm lược bằng sự thờ ơ lạnh lùng cùng với việc bồi đắp những đức tính đặc biệt của mình, tự tin rằng với quy mô rộng lớn về mặt dân số và lãnh thổ của mình và sự tinh tế của nền văn hóa, cuối cùng Trung Quốc sẽ chiến thắng. Với sự quan tâm rất kỳ công đến từng chi tiết và sự phân tích tinh tế về sự cân bằng lực lượng vật chất và tinh thần, Nhật Bản bắt đầu tham gia vào trật tự quốc tế dựa trên các khái niệm của phương Tây về chủ quyền, tự do thương mại, luật quốc tế, công nghệ, và sức mạnh quân sự – nhưng với mục đích loại bỏ sự thống trị của ngoại bang. Sau khi một phe nhóm mới lên nắm quyền vào năm 1868 hứa hẹn sẽ “tôn thờ Hoàng đế, tống khứ những “tên mọi da trắng” bằng cách làm chủ các khái niệm và công nghệ của chính những “tên mọi da trắng” đó và tham gia vào trật tự thế giới theo Hòa ước Westphalia như một thành viên bình đẳng. Sự lên ngôi của Tân Thiên Hoàng Minh Trị được đánh dấu bởi Hiến chương Tuyên thệ có chữ ký của giới quý tộc, hứa hẹn một chương trình cải cách sâu rộng, trong đó bao gồm quy định rằng tất cả các tầng lớp xã hội cần được khuyến khích tham gia cải cách. Chương trình này cam kết trong các cuộc nghị bàn tranh luận tại tất cả các tỉnh về một tiến trình hợp lý và thực hiện đầy đủ nguyện vọng của người dân. Nó dựa trên sự đồng thuận quốc gia, một trong những điểm mạnh chủ yếu – hay có lẽ là đặc điểm đặc biệt nhất – của xã hội Nhật Bản:

1. Theo lời tuyên thệ này, chúng tôi thiết lập mục tiêu xây dựng sự thịnh vượng của quốc gia trên mọi mặt; tạo lập hiến pháp và pháp luật.

2. Các cuộc nghị bàn tranh luận sẽ được thiết lập rộng rãi và tất cả các vấn đề sẽ được quyết định thông qua thảo luận công khai.

3. Tất cả các tầng lớp, dù cao hay thấp, đều đồng tâm hiệp lực trong việc nỗ lực thực hiện các công việc quản lý của nhà nước.

4. Những người dân thường, kể cả công chức dân sự và quân sự, tất cả sẽ được phép theo đuổi mong muốn của mình để không có sự bất mãn nào.

5. Những hủ tục của quá khứ sẽ được loại bỏ và tất cả sẽ chỉ được dựa trên những luật lệ của Tự nhiên.

6. Những hủ tục của quá khứ sẽ được loại bỏ và tất cả sẽ chỉ được dựa trên những luật lệ của Tự nhiên.

Từ đó, Nhật Bản bắt tay vào việc xây dựng hệ thống đường sắt, công nghiệp hiện đại, một nền kinh tế định hướng xuất khẩu, và một quân đội hiện đại. Giữa tất cả những cải cách này, sự độc đáo của văn hóa và xã hội Nhật Bản sẽ là yếu tố giữ gìn bản sắc Nhật Bản.

Các kết quả của sự thay đổi to lớn này tất yếu sẽ đưa Nhật Bản nhảy vọt lên hàng ngũ các cường quốc thế giới trong vòng vài thập kỷ. Năm 1886, sau một cuộc chạm trán giữa các thủy thủ Trung Quốc và cảnh sát Nagasaki, một tàu chiến Trung Quốc hiện đại do người Đức đóng đã tiến về phía Nhật Bản, đòi hỏi phải giải quyết vụ việc. Tới thập kỷ tiếp theo, việc xây dựng và đào tạo hải quân chuyên sâu đã đưa Nhật Bản lên thế thượng phong. Năm 1894, khi tranh chấp về ảnh hưởng tương đối của Nhật Bản và Trung Quốc ở Triều Tiên lên đến đỉnh điểm thành một cuộc chiến tranh, Nhật Bản đã hoàn toàn chiếm ưu thế. Các điều khoản hòa bình bao gồm việc chấm dứt quyền bá chủ của Trung Quốc đối với Triều Tiên (mở đường cho những cuộc đối đầu mới giữa Nhật Bản và Nga) và sự chuyển nhượng Đài Loan thành một thuộc địa do Nhật Bản cai trị.

Nhật Bản thực hiện các cải cách của mình mạnh mẽ tới mức các cường quốc phương Tây sớm bị buộc phải từ bỏ mô hình “đặc quyền ngoại giao” – “quyền” của những nước này trong việc xét xử công dân của mình ở Nhật Bản bằng luật riêng của họ chứ không phải luật bản địa – mà họ đã lần đầu tiên áp dụng ở Trung Quốc. Trong một hiệp ước thương mại mang tính cột mốc, Anh – cường quốc phương Tây chiếm ưu thế – cam kết các công dân của mình ở Nhật Bản sẽ tuân theo sự xét xử của Nhật Bản. Năm 1902, hiệp ước này đã biến thành một liên minh quân sự, sự liên kết chiến lược chính thức đầu tiên giữa một cường quốc châu Á với một cường quốc phương Tây. Anh tìm kiếm sự liên minh để cân bằng áp lực của Nga đối với Ấn Độ. Mục tiêu của Nhật Bản là đánh bại ước vọng của Nga nhằm thống trị Triều Tiên và Mãn Châu và thiết lập sự tự do hành động của chính mình trong các kế hoạch sau này ở đây. Ba năm sau, Nhật Bản khiến thế giới sửng sốt khi đánh bại Đế quốc Nga trong một cuộc chiến, thất bại đầu tiên của một nước phương Tây trước một quốc gia châu Á trong thời hiện đại. Trong Thế chiến I, Nhật Bản tham gia cùng các cường quốc phe Đồng minh, đánh chiếm các căn cứ của Đức ở Trung Quốc và Nam Thái Bình Dương.

Nhật Bản đã nổi lên như một cường quốc lớn phi phương Tây đầu tiên lúc bấy giờ, được các quốc gia từ trước đến nay vốn đã định hình nên trật tự quốc tế công nhận như một quốc gia bình đẳng về quân sự, kinh tế, và ngoại giao. Có một sự khác biệt quan trọng: từ phía Nhật Bản, các liên minh với các nước phương Tây không dựa trên những mục tiêu chiến lược chung mà nhằm đánh bật các đồng minh châu Âu của mình ra khỏi châu Á. Sau khi châu Âu kiệt sức trong Thế chiến I, các nhà lãnh đạo Nhật Bản kết luận rằng thế giới đang bị bao vây bởi những xung đột, khủng hoảng tài chính, và chủ nghĩa biệt lập của Mỹ cho phép sự bành trướng đế quốc nhằm áp đặt một bá quyền lên châu Á. Năm 1931, Đế quốc Nhật Bản tách Mãn Châu khỏi Trung Quốc và thiết lập vùng này như một quốc gia vệ tinh của mình dưới sự cai quản của Hoàng đế Trung Quốc lưu vong. Năm 1937, Nhật Bản tuyên chiến với Trung Quốc nhằm chinh phục thêm lãnh thổ của nước này. Dưới danh nghĩa “Trật tự Mới ở châu Á” và sau đó là “Khu vực Thịnh vượng chung Đông Á,” Nhật Bản đã nỗ lực tổ chức khu vực ảnh hưởng riêng của mình – ngược với các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia, một “khối các quốc gia châu Á do Nhật Bản đứng đầu và vắng bóng các cường quốc phương Tây” – được sắp xếp theo tôn ti cấp bậc để “qua đó tất cả các quốc gia có thể tìm thấy đúng chỗ của mình trên thế giới.” Trong trật tự mới này, chủ quyền của các quốc gia châu Á khác sẽ bị nuốt chửng, đặt dưới sự giám hộ của Nhật Bản.

Các thành viên của trật tự quốc tế đã được thiết lập từ trước không ngăn cản được vì đã quá kiệt sức với Thế chiến I và quá bận tâm với cuộc khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng ở châu Âu. Duy nhất một nước phương Tây vẫn ngáng đường kế hoạch này là Mỹ, đất nước đã dùng vũ lực buộc Nhật Bản phải mở cửa gần một thế kỷ trước. Cứ như thể lịch sử là một câu chuyện dài, những quả bom đầu tiên của cuộc chiến tranh giữa hai nước này rơi trên lãnh thổ của Mỹ vào năm 1941, khi Nhật Bản phát động một cuộc tấn công bất ngờ vào Trân Châu Cảng[111]. Huy động quân sự của Mỹ ở Thái Bình Dương cuối cùng lên đến đỉnh điểm bằng việc sử dụng hai quả bom hạt nhân (lần duy nhất những quả bom này sử dụng vì mục đích quân sự cho tới nay), khiến Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện.

Nhật Bản thích ứng với thất bại này bằng các phương pháp tương tự như phản ứng của nước này với Hạm đội trưởng Perry: sự kiên cường được duy trì bởi tinh thần dân tộc bất khuất dựa trên nền văn hóa truyền thống đặc biệt. Nhằm khôi phục quốc gia Nhật Bản, các nhà lãnh đạo thời hậu chiến của Nhật Bản (hầu hết đã tham gia chính quyền trong các năm 1930 và 1940) miêu tả việc đầu hàng như một sự thích ứng với các ưu tiên của Mỹ; thực sự, Nhật Bản sử dụng thẩm quyền từ chế độ chiếm đóng của Mỹ để hiện đại hóa hoàn toàn và hồi phục nhanh hơn so với việc nếu chỉ dựa trên nỗ lực thuần túy của chính quốc gia mình. Nước này từ bỏ việc dùng chiến tranh như là một công cụ của chính sách quốc gia, khẳng định các nguyên tắc dân chủ lập hiến, và trở lại với hệ thống quốc tế các quốc gia có chủ quyền như một đồng minh của Mỹ – mặc dù ít nổi bật và chủ yếu quan tâm rõ rệt tới sự phục hồi kinh tế hơn là tham gia vào chiến lược lớn. Trong gần bảy thập kỷ, định hướng mới này đã chứng tỏ là một chiếc neo quan trọng trong sự ổn định của châu Á và hòa bình thịnh vượng trên toàn cầu.

Vị thế hậu chiến của Nhật Bản thường được miêu tả như là một chủ nghĩa hòa bình mới, trên thực tế điều này phức tạp hơn nhiều. Quan trọng hơn cả, nó phản ánh sự chấp thuận về ưu thế của Mỹ và sự đánh giá về bối cảnh chiến lược cũng như tính cấp thiết của sự tồn tại và thành công trong dài hạn của Nhật Bản. Giới quản lý thời hậu chiến của Nhật Bản chấp nhận bản hiến pháp do chính quyền Mỹ chiếm đóng soạn thảo, với việc nghiêm cấm các hành động quân sự như một điều cần thiết trong hoàn cảnh cấp bách của họ. Họ tuyên bố định hướng tự do dân chủ như là sản phẩm của riêng mình; họ khẳng định các nguyên tắc dân chủ và cộng đồng quốc tế giống như những gì các nước tư bản phương Tây theo đuổi.

Đồng thời, các nhà lãnh đạo Nhật Bản cũng khiến cho vai trò phi quân sự độc đáo của đất nước mình thích ứng với những mục tiêu chiến lược dài hạn của Nhật Bản. Họ biến đổi hoàn toàn những khía cạnh hòa bình của trật tự hậu chiến từ một lệnh cấm các hành động quân sự sang sự cấp thiết tập trung vào các yếu tố quan trọng khác của chiến lược quốc gia, bao gồm cả việc tái thiết kinh tế. Quân đội Mỹ được mời tiếp tục triển khai ở Nhật Bản với số lượng đáng kể, và cam kết phòng thủ này được củng cố thành một hiệp ước an ninh chung, ngăn chặn những thế lực đối kháng tiềm tàng (bao gồm một Liên Xô đang bành trướng sự hiện diện ở Thái Bình Dương) khỏi việc coi Nhật Bản như một mục tiêu của hành động chiến lược. Cùng với việc thiết lập khuôn khổ cho mối quan hệ này, các nhà lãnh đạo Nhật Bản trong Chiến tranh Lạnh đã phát triển khả năng quân sự độc lập để tiến hành củng cố các năng lực của đất nước.

Hiệu quả của giai đoạn đầu tiên trong quá trình phát triển sau chiến tranh của Nhật Bản nằm ở việc đưa định hướng chiến lược của mình ra khỏi các xung đột trong Chiến tranh Lạnh, giải phóng mình để tập trung vào một chương trình đổi mới phát triển kinh tế. Về phương diện pháp lý, Nhật Bản tự đặt mình trong nhóm các nền dân chủ phát triển nhưng từ chối tham gia những cuộc đấu tranh về ý thức hệ của thời đại, bằng cách viện dẫn định hướng hòa bình và cam kết của nước này với cộng đồng thế giới. Kết quả của chiến lược tinh tế này là một giai đoạn tăng trưởng kinh tế thần kỳ sánh ngang với thời kỳ sau cuộc Cách mạng Minh Trị[112] năm 1868. Chỉ trong vòng hai thập kỷ sau khi bị chiến tranh tàn phá, Nhật Bản đã xây dựng lại và vươn lên thành một cường quốc kinh tế lớn trên thế giới. Chẳng bao lâu sau, sự thần kỳ này của Nhật Bản bị coi như một thách thức tiềm tàng đối với sự vượt trội về kinh tế của Mỹ, dù nền kinh tế Nhật Bản bắt đầu chững lại trong thập niên cuối cùng của thế kỷ 20.

Sự gắn kết xã hội và ý thức cam kết với đất nước tạo điều kiện cho sự biến đổi lớn lao này diễn ra, đáp ứng với những thách thức thời đại. Nó khiến người Nhật Bản có khả năng đối phó với thảm họa động đất, sóng thần, và cuộc khủng hoảng hạt nhân năm 2011 ở vùng Đông bắc – mà theo ước tính của Ngân hàng Thế giới là thảm họa thiên nhiên gây thiệt hại lớn nhất trong lịch sử – với biểu hiện đáng kinh ngạc về việc tương trợ lẫn nhau và tinh thần đoàn kết dân tộc. Những thách thức tài chính và nhân khẩu học đã trở thành chủ đề của đánh giá nghiên cứu nội bộ, và của những biện pháp táo bạo không kém trên một vài khía cạnh. Trong mỗi nỗ lực, Nhật Bản luôn phát huy các nguồn lực của mình với niềm tin truyền thống rằng bản chất và văn hóa dân tộc của mình có thể được duy trì qua hầu như bất kỳ sự điều chỉnh nào.

Những thay đổi kịch tính trong sự cân bằng quyền lực chắc chắn sẽ được giới cầm quyền Nhật Bản biến thành sự thích ứng mới đối với chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Dưới thời Thủ tướng Shinzo Abe, dự lãnh đạo quốc gia đã mang lại cho Tokyo phạm vi hành động mới dựa trên những đánh giá của mình. Tháng Mười hai năm 2013, sách trắng của chính phủ Nhật Bản kết luận “do môi trường an ninh của Nhật Bản ngày càng trở nên nghiêm trọng… việc thực hiện các nỗ lực một cách chủ động hơn, phù hợp với nguyên tắc hợp tác quốc tế là tuyệt đối cần thiết đối với Nhật Bản,” bao gồm tăng cường lực “răn đe” của Nhật Bản và “đánh bại” các mối đe dọa nếu cần thiết. Xét thấy bối cảnh châu Á đang thay đổi, Nhật Bản ngày càng nêu rõ mong muốn trở thành một “quốc gia bình thường” với một quân đội không bị hiến pháp cấm tham chiến và một chính sách liên minh tích cực. Vấn đề đối với trật tự khu vực châu Á là sẽ định nghĩa sự “bình thường” này như thế nào.

Giống các khoảnh khắc quan trọng khác trong lịch sử của mình, việc Nhật Bản đang hướng tới xác định lại vai trò rộng lớn hơn của nước này trong trật tự quốc tế chắc chắn sẽ có những hậu quả sâu rộng cả trong và ngoài khu vực. Tìm kiếm một vai trò mới, quốc gia này sẽ một lần nữa đánh giá lại, cẩn thận, không cảm tính, và không phô trương, về sự cân bằng của các lực lượng vật chất và tinh thần, trong bối cảnh sự trỗi dậy của Trung Quốc, sự phát triển của Hàn Quốc và tác động của ba quốc gia này đối với an ninh của Nhật Bản. Quốc gia này sẽ kiểm tra tính hữu dụng và hồ sơ của việc liên minh với Mỹ cũng như sự thành công đáng kể của liên minh trong việc phục vụ các lợi ích chung rộng rãi; và cũng sẽ xét đến sự rút quân của Mỹ khỏi ba cuộc xung đột quân sự. Nhật Bản sẽ tiến hành phân tích này với ba tùy chọn rộng mở: tiếp tục nhấn mạnh việc liên minh với Mỹ, thích ứng với sự trỗi dậy của Trung Quốc, và sự phụ thuộc vào chính sách đối ngoại ngày càng mang tính dân tộc. Trong đó, tùy chọn nào sẽ chiếm ưu thế, hay lựa chọn kết hợp các tùy chọn đó, phụ thuộc vào những tính toán của Nhật Bản về sự cân bằng quyền lực toàn cầu – chứ không phải những đảm bảo chính thức của Mỹ – và cách mà nước này ý thức về các xu hướng cơ bản. Nếu Nhật Bản nhận thấy một cấu trúc quyền lực mới đang diễn ra ở khu vực hoặc trên thế giới, quốc gia này sẽ lấy những đánh giá thực tế làm căn cứ cho an ninh của mình, chứ không dựa trên những liên kết truyền thống. Do đó, kết quả phụ thuộc vào sự đánh giá của giới cầm quyền Nhật Bản về mức độ tin cậy trong chính sách của Mỹ ở châu Á, và việc họ đánh giá sự cân bằng tổng thể giữa các lực lượng ra sao. Định hướng dài hạn trong chính sách đối ngoại của Mỹ, cùng với sự phân tích của Nhật Bản, sẽ còn là vấn đề cần thảo luận nhiều.

ẤN ĐỘ

Ở Nhật Bản, động lực xâm lược của phương Tây đã thay đổi tiến trình của một quốc gia lịch sử; còn ở Ấn Độ, nó đã định hình lại một nền văn minh lớn để trở thành một quốc gia hiện đại. Ấn Độ từ lâu đã phát triển các phẩm chất của mình tại giao điểm của các trật tự thế giới, hình thành và được hình thành từ những nhịp điệu ấy. Quốc gia này được xác định bởi quang phổ giao thoa của các truyền thống văn hóa nhiều hơn là bởi các biên giới chính trị. Không một nhà sáng lập huyền thoại nào được ghi nhận là đã ban hành truyền thống Hindu, tín ngưỡng chủ yếu của người Ấn Độ và suối nguồn của nhiều tôn giáo khác. Sự phát triển của lịch sử bắt nguồn lờ mờ và không đầy đủ từ sự kết hợp của các bài thánh ca truyền thống, truyền thuyết và những nghi thức xuất phát từ các nền văn hóa dọc theo Sông Ấn[113] và Sông Hằng[114], các cao nguyên và vùng núi phía bắc và phía tây. Tuy nhiên, trong truyền thống Hindu, những hình thức cụ thể này là các biểu hiện đa dạng của các nguyên tắc cơ bản xuất hiện trước bất kỳ một văn bản viết nào. Trong sự đa dạng và chống lại việc đưa ra các định nghĩa – bao gồm các vị thần và truyền thống triết học riêng biệt, những điều tương tự như vậy có lẽ đã được xác định như các tôn giáo tách biệt ở châu Âu – đạo Hindu được cho là gần đạt tới và chứng tỏ tính duy nhất tối thượng của sự sáng tạo phong phú, phản ánh “lịch sử lâu dài và đa dạng của con người trong cuộc tìm kiếm hiện thực… vừa bao trùm tất cả vừa vô hạn.”

Trong thời kỳ thống nhất – từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 2 TCN và từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 7 – Ấn Độ đã tạo ra những dòng văn hóa có ảnh hưởng rộng lớn: Phật giáo được truyền bá từ Ấn Độ đến Myanmar, Sri Lanka, Trung Quốc, và Indonesia, nghệ thuật và thuật trị quốc của Ấn Độ đã ảnh hưởng tới Thái Lan, Đông Dương, và xa hơn nữa. Khi bị chia cắt thành các vương quốc đối địch – điều thường xuyên xảy ra – Ấn Độ trở thành miếng mồi ngon cho quân xâm lược, các thương nhân, và những người tìm kiếm tâm linh (một số thực hiện nhiều mục tiêu cùng một lúc, như người Bồ Đào Nha tới đây năm 1498 “để tìm kiếm giáo đồ Ki-tô và gia vị”), phải chịu đựng sự cướp phá và cuối cùng hấp thụ nền văn hóa của họ và pha trộn với nền văn hóa của chính mình.

Trước thời hiện đại, Trung Quốc áp đặt ma trận tập quán và văn hóa của riêng mình lên những kẻ xâm lược rất thành công, đến nỗi không thể phân biệt họ với chính người Trung Quốc. Ngược lại, Ấn Độ vượt trên những người ngoại quốc bằng cách hết sức bình thản đối phó với tham vọng của những người này chứ không phải bằng cách buộc họ thích nghi với tôn giáo hay văn hóa Ấn Độ; hợp nhất những thành tựu và học thuyết đa dạng của phương Tây vào cơ cấu đời sống Ấn Độ mà chưa từng tuyên bố bị bất kỳ kẻ nào làm cho khiếp sợ. Những kẻ xâm lược có thể dựng lên những tượng đài phi thường về tầm quan trọng của chúng, như thể để tự trấn an về sự vĩ đại của chính mình khi phải đối mặt với rất nhiều sự xa lánh, nhưng dân tộc Ấn Độ đối phó bằng một nền văn hóa cốt lõi kiên cường và không thẩm thấu ảnh hưởng ngoại lai. Những tôn giáo nền tảng của Ấn Độ không được truyền cảm hứng từ những viễn ảnh tiên tri về sự đáp ứng của đấng cứu thế; đúng hơn, chúng mang lại bằng chứng về sự tồn tại mong manh của con người. Chúng không mang đến một sự cứu rỗi cá nhân mà là sự an ủi về một định mệnh không thể thoát khỏi.

Trật tự thế giới trong vũ trụ quan Hindu bị chi phối bởi những chu trình bất biến với quy mô rộng lớn gần như không thể hình dung – kéo dài hàng triệu năm. Các vương quốc sẽ sụp đổ và vũ trụ sẽ bị hủy diệt, nhưng nó sẽ được tái tạo và các vương quốc mới sẽ lại trỗi dậy. Mỗi khi có một làn sóng xâm lược (người Ba Tư vào thế kỷ 6 TCN; Alexander và những người Hy Lạp-Bactria của ông ta vào thế kỷ 4 TCN; người Ả-rập vào thế kỷ 8; người Thổ và người Afghan vào thế kỷ 11 và 12; người Mông Cổ vào thế kỷ 13 và 14; người Mughal vào thế kỷ 16 và nhiều dân tộc châu Âu một thời gian ngắn sau đó), tất cả đều khớp với ma trận phi thời gian này. Nỗ lực của những kẻ xâm lược có thể phá vỡ ma trận, nhưng so với viễn cảnh vô hạn, chúng không đáng kể. Chỉ những người đã chịu đựng và vượt qua những biến động thời gian này mới hiểu được bản chất thực sự của trải nghiệm con người.

Tác phẩm Hindu kinh điển Chí Tôn ca[115] đã tạo lập nền tảng cho những thử thách tinh thần đó trên khía cạnh mối quan hệ giữa đạo đức và quyền lực. Tác phẩm này, một trích đoạn trong Mahabharata (sử thi cổ đại bằng tiếng Phạn, đôi khi có ảnh hưởng giống như Kinh Thánh hay những sử thi Homer), được thể hiện dưới hình thức cuộc đối thoại giữa người chiến binh – Hoàng tử Arjuna với người đánh xe của mình, một hiện thân của Chúa tể Krishna. Arjuna, “chìm trong sầu muộn” vào đêm trước cuộc chiến, về những nỗi kinh hoàng mà chàng sẽ gây ra, tự hỏi điều gì có thể biện minh cho những hậu quả khủng khiếp của chiến tranh. Đây là câu hỏi vô nghĩa, Krishna đáp. Vì cuộc sống là vĩnh hằng và tuần hoàn, và bản chất của vũ trụ là không thể bị phá hủy, “kẻ sáng suốt không đau khổ vì sự sống hay cái chết. Chưa bao giờ, Hoàng tử, thần và các vị vua có mặt ở đây không tồn tại và cũng sẽ không bao giờ chúng ta ngừng tồn tại.” Sự cứu rỗi sẽ đến thông qua việc thực hiện trọn vẹn một nhiệm vụ đã được định sẵn, cùng với sự thừa nhận rằng những biểu hiện bên ngoài của nó là hư ảo vì “sự vô thường không có thực; cái có thực nằm trong sự vĩnh hằng.” Arjuna, một chiến binh, phải đối mặt với một cuộc chiến mà chàng không mong muốn. Chàng phải bình thản chấp nhận hoàn cảnh và thực hiện vai trò của mình một cách tự hào, phải cố gắng chiến đấu và chiến thắng và “không nên đau buồn.”

Khi lời thỉnh cầu thực hiện nhiệm vụ của Chúa tể Krishna thắng thế và Arjuna tự cho là mình không còn hoài nghi, những biến động của cuộc chiến tranh – được mô tả chi tiết trong phần còn lại của sử thi – cộng hưởng thêm với sự băn khoăn của chàng trước đó. Tác phẩm trung tâm của tư tưởng Hindu này thể hiện sự cổ vũ chiến tranh cũng như tầm quan trọng của việc vượt qua chiến tranh chứ không hẳn là né tránh nó. Đạo đức không bị bác bỏ, nhưng trong bất kỳ tình huống nào, những cân nhắc trước mắt sẽ chiếm ưu thế, trong khi sự vĩnh hằng đem lại viễn cảnh hàn gắn. Điều mà một số độc giả tán dương như là lời kêu gọi can đảm trong chiến đấu, thì Gandhi sẽ ca ngợi nó như là “từ điển tâm linh” của ông.

Ngược với bối cảnh của những chân lý vĩnh hằng của một tôn giáo thuyết giảng về sự mông lung của bất kỳ nỗ lực trần thế nào, người trị vì thế tục trên thực tế dành một bến đỗ rộng lớn cho những nhu cầu thiết thực. Hình mẫu tiên phong cho trường phái này là Thượng thư Kautilya[116] thế kỷ 4 TCN, được biết đến với sự nghiệp gây dựng Vương triều Maurya[117] của Ấn Độ, người đã đánh đuổi những kẻ kế vị của Alexander Đại đế ra khỏi miền Bắc Ấn Độ, và lần đầu tiên thống nhất Tiểu lục địa này dưới một sự trị vì duy nhất.

Kautilya viết về một Ấn Độ với cấu trúc tương tự như châu Âu trước khi có Hòa ước Westphalia. Ông miêu tả một tập hợp các quốc gia luôn ẩn chứa sự xung đột tiềm tàng lâu dài. Giống như Machiavelli, tác phẩm của ông là sự phân tích về thế giới theo cách ông nhìn nhận; nó đưa ra lời chỉ dẫn về hành động trên thực tế, chứ không phải trên danh nghĩa. Và giống với quan điểm của Richelieu, người sống cách thời đại này gần 2000 năm sau đó, nền tảng luân lý của tác phẩm là: nhà nước là một tổ chức mong manh, và các chính khách không có quyền mang tính đạo đức để gây nguy hại tới sự tồn vong của nhà nước dựa trên giới hạn luân thường đạo lý.

Theo truyền thuyết, ở một thời điểm trong hoặc sau khi hoàn thành những nỗ lực của mình, Kautilya đã ghi lại trong cuốn sách hướng dẫn toàn diện về thuật trị quốc, Arthashastra, những thông lệ chính sách chiến lược và đối ngoại mà ông đã quan sát thấy. Với sự bình thản, trong sáng, tác phẩm này trình bày một tầm nhìn về cách thức thiết lập và bảo vệ nhà nước trong khi dung hòa, lật đổ, và chinh phục các nước láng giềng (khi đã có điều kiện thuận lợi). Tác phẩm Arthashastra chứa đựng một thế giới về thuật trị quốc thực tế, chứ không phải sự tranh luận triết học. Đối với Kautilya, quyền lực là hiện thực chủ đạo. Nó đa chiều và các yếu tố của nó phụ thuộc lẫn nhau. Trong một tình huống nhất định, tất cả các yếu tố đều liên quan, có thể tính toán được, và dễ dàng được thao túng nhằm hướng tới các mục tiêu chiến lược của nhà lãnh đạo. Địa lý, tài chính, sức mạnh quân sự, ngoại giao, tình báo, luật pháp, nông nghiệp, truyền thống văn hóa, tinh thần, và quan điểm phổ biến, những tin đồn và huyền thoại, những xấu xa và điểm yếu của con người cần được định hình như một thực thể bởi một vị vua khôn ngoan để củng cố và mở rộng vương quốc của mình – rất giống với một nhạc trưởng thời hiện đại sắp đặt các nhạc cụ để tạo thành một giai điệu mạch lạc. Đó là một sự kết hợp giữa Machiavelli và Clausewitz[118].

Nhiều thiên niên kỷ trước khi các nhà tư tưởng châu Âu chuyển những thực tế cụ thể thành lý thuyết về sự cân bằng quyền lực, tác phẩm Arthashastra đã trình bày một hệ thống tương tự, thậm chí có phần chi tiết hơn, gọi là “vòng tròn các quốc gia.” Theo phân tích của Kautilya, các chính thể tiếp giáp nhau, tồn tại trong trạng thái tiềm ẩn sự thù địch. Dù có tuyên bố về tình hữu nghị như thế nào chăng nữa, cuối cùng khi quyền lực gia tăng đáng kể, bất kỳ người trị vì nào cũng sẽ thấy rằng việc lật đổ vương quốc lân bang là điều có lợi. Đây là động lực tự vệ vốn có mà với nó thì đạo đức không có nhiều ý nghĩa. Giống như Friederick Đại đế 2000 năm sau, Kautilya kết luận rằng logic cạnh tranh tàn nhẫn không cho phép sự chệch hướng: “Những kẻ chinh phục sẽ [luôn] cố gắng gia tăng sức mạnh của chính mình và hạnh phúc cho riêng mình.” Vấn đề đã rất rõ ràng: “Nếu… kẻ chinh phục vượt trội hơn, chiến dịch sẽ được thực hiện; và ngược lại.”

Các nhà lý thuyết châu Âu tuyên bố sự cân bằng quyền lực như một mục tiêu của chính sách đối ngoại và vạch ra một trật tự thế giới dựa trên trạng thái cân bằng của các quốc gia. Trong tác phẩm Arthashastra, mục tiêu của chiến lược là chinh phục tất cả các quốc gia khác và vượt qua trạng thái cân bằng đang hiện hữu đó trên đường tới chiến thắng. Theo khía cạnh đó, Kautilya giống với Napoleon và Tần Thủy Hoàng[119] (vị Hoàng đế đã thống nhất Trung Quốc) nhiều hơn là Machiavelli.

Theo quan điểm của Kautilya, các quốc gia có trách nhiệm phải theo đuổi lợi ích riêng, thậm chí còn quan trọng hơn cả vinh quang. Người trị vì khôn ngoan sẽ tìm kiếm đồng minh ở các nước lân bang của những lân bang của mình. Mục đích là hình thành một hệ thống liên minh mà kẻ chinh phục ở vị trí trung tâm: “Kẻ Chinh phục phải nghĩ về vòng tròn các quốc gia như một bánh xe – mà mình ở trục và các đồng minh ở vành, được nối với trung tâm bằng những chiếc nan hoa dù bị xa cách bởi những lãnh thổ xen giữa. Dù có mạnh đến đâu, kẻ thù cũng sẽ trở nên dễ bị tổn thương khi bị siết chặt giữa kẻ chinh phục và những đồng minh của ông ta.” Tuy nhiên, không liên minh nào được coi là vĩnh viễn. Thậm chí ngay bên trong chính hệ thống liên minh của mình, nhà vua phải “tìm cách gia tăng sức mạnh của chính mình,” vận động để tăng cường vị thế quốc gia và ngăn chặn các nước lân bang hợp tác chống lại mình.

Giống như chiến lược gia Tôn Tử của Trung Quốc, Kautilya tin rằng đường hướng ít trực tiếp nhất thường là khôn ngoan nhất: kích động chia rẽ giữa các nước lân bang hay các đồng minh tiềm năng, nhằm “khiến một vị vua lân bang gây chiến với một vị vua lân bang khác và do đó ngăn cản những nước lân bang hợp tác với nhau và tiếp tục tràn qua lãnh thổ của kẻ thù của mình.” Nỗ lực chiến lược này không bao giờ có hồi kết. Khi chiến lược thắng lợi, lãnh thổ của nhà vua được mở rộng, và các đường biên giới được vẽ lại, vòng tròn các quốc gia cũng cần phải được hiệu chỉnh lại. Những toan tính quyền lực mới sẽ phải được thực hiện; một số đồng minh giờ đây sẽ trở thành kẻ thù và ngược lại.

Những gì thời đại chúng ta gán mác là hoạt động tình báo bí mật được miêu tả như một công cụ quan trọng trong tác phẩm Arthashastra. Hoạt động trong “mọi quốc gia trong vòng tròn đó” (kể cả bạn lẫn thù) và thu thập tin tức từ các “đạo sĩ thần thánh, tu sĩ lang thang, phu xe, kẻ hát rong, người làm trò tung hứng, kẻ hành khất [và] thầy bói,” các mật thám này sẽ lan truyền tin đồn, kích động sự bất hòa nội bộ và giữa các nhà nước với nhau, lật đổ quân đội của kẻ thù và “tiêu diệt” đối thủ của nhà vua vào thời điểm thuận lợi.

Để chắc chắn, Kautilya nhấn mạnh mục tiêu của sự tàn nhẫn là xây dựng một đế chế chung, hài hòa, và giương cao đạo pháp (dharma) – trật tự luân lý vĩnh cửu với những nguyên tắc được các vị thần truyền lại. Nhưng lời kêu gọi hướng tới đạo đức và tôn giáo được biết đến rộng rãi dưới danh nghĩa những mục tiêu hoạt động thiết thực hơn là nguyên tắc theo đúng nghĩa – như là những yếu tố của chiến lược và chiến thuật của kẻ chinh phục, chứ không phải sự cấp thiết về một khái niệm trật tự thống nhất. Tác phẩm Arthashastra đưa ra lời khuyên rằng sự kiềm chế và nhân đạo trong hầu hết các tình huống sẽ hữu ích về mặt chiến lược: một vị vua đối xử tàn tệ với thần dân của mình sẽ đánh mất sự ủng hộ của họ và đứng trước nguy cơ có nổi loạn hoặc xâm lược; một kẻ chinh phục xúc phạm không cần thiết những phong tục hoặc tình cảm đạo đức của một dân tộc bị áp bức một cách không cần thiết sẽ phải hứng chịu nguy cơ bị phản kháng dữ dội.

Tác phẩm Arthashastra với những đề mục đầy đủ và không hề e ngại về các yếu tố cần thiết của thành công đã đưa lý thuyết gia chính trị lỗi lạc của thế kỷ 20 Max Webber đến kết luận rằng Arthashastra là ví dụ điển hình của “chủ nghĩa Machiavelli cấp tiến đích thực... so với nó, tác phẩm Quân vương của Machiavelli là không đáng kể.” Không như Machiavelli, Kautilya không hề luyến tiếc những đức hạnh của một thời đại tốt đẹp hơn. Tiêu chí đức hạnh duy nhất mà ông có thể chấp nhận là liệu phân tích của ông về con đường đến chiến thắng có chính xác hay không. Liệu ông có miêu tả đúng cách thức chính sách đang được tiến hành trên thực tế hay không? Theo lời khuyên của Kautilya, nếu có xảy ra, trạng thái cân bằng sẽ là kết quả tạm thời của sự tương tác giữa những động cơ vị kỷ; chứ không phải là mục tiêu chiến lược của chính sách đối ngoại như trong các khái niệm của châu Âu sau Hòa ước Westphalia. Arthashastra là một cẩm nang chinh phục, chứ không hề nhằm xây dựng một trật tự quốc tế.

Cho dù có theo những phương pháp của tác phẩm Arthashastra hay không, Ấn Độ đã có quy mô lãnh thổ rộng lớn nhất vào thế kỷ 3 TCN, khi Hoàng đế Asoka[120] tôn kính của nước này trị vì một lãnh thổ bao gồm tất cả những vùng đất hiện nay của Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan, và một phần của Afghanistan và Iran. Sau đó, vào khoảng thời gian khi Trung Quốc được thống nhất bởi vị Hoàng đế đầu tiên – Tần Thủy Hoàng vào năm 221 TCN, Ấn Độ bị chia cắt thành các vương quốc đối địch nhau. Được thống nhất lại nhiều thế kỷ sau đó, Ấn Độ một lần nữa lại bị chia tách vào thế kỷ 7, khi Hồi giáo bắt đầu thách thức các đế quốc châu Âu và châu Á.

Trong gần một thiên niên kỷ, với đất đai màu mỡ, những thành phố giàu có, những thành tựu trí tuệ và công nghệ rực rỡ, Ấn Độ trở thành mục tiêu cho các cuộc chinh phạt và chuyển giao. Hàng loạt những kẻ chinh phục và thám hiểm – người Thổ, người Afghan, người Parthia, và người Mông Cổ – qua các thế kỷ đã tiến từ miền Trung và Tây nam Á vào các đồng bằng Ấn Độ, thiết lập một khu vực các công quốc nhỏ, manh mún. Do đó, Tiểu lục địa này “được ghép với Đại Trung Đông,” với các ràng buộc về tôn giáo, sắc tộc, và những nhạy cảm chiến lược kéo dài cho đến ngày nay. Trong hầu hết giai đoạn này, những kẻ chinh phục thù địch lẫn nhau đến nỗi không thể cho phép bất kỳ ai kiểm soát toàn bộ khu vực hay dập tắt sức mạnh của các triều đại Ấn Độ ở phía Nam. Sau đó vào thế kỷ 16, kẻ tài giỏi nhất trong số những kẻ xâm lược, Đế quốc Mông Cổ từ phía tây bắc đã thành công trong việc thống nhất Tiểu lục địa dưới sự cai trị duy nhất. Đế quốc Mông Cổ là hiện thân của những ảnh hưởng đa dạng của Ấn Độ: đức tin Hồi giáo, dân tộc Thổ và Mông Cổ, tinh hoa văn hóa Ba Tư, các triều đại Mughal cai trị đa số người Ấn Độ bị phân tán bởi bản sắc vùng miền.

Trong vòng xoáy của ngôn ngữ, văn hóa, và tín ngưỡng này, sự xuất hiện của làn sóng các nhà thám hiểm ngoại quốc trong thế kỷ 16 ban đầu dường như không phải là một sự kiện quan trọng. Bắt đầu có lợi nhuận từ việc gia tăng thương mại với Đế quốc Mông Cổ giàu mạnh, các công ty tư nhân của Anh, Pháp, Hà Lan, và Bồ Đào Nha cạnh tranh với nhau để thiết lập chỗ đứng của mình ở các tiểu vương quốc thân thiện. Lãnh thổ của Anh ở Ấn Độ là rộng lớn nhất, nếu như ban đầu không có một kế hoạch cố định (khiến Giáo sư (do Hoàng gia Anh bổ nhiệm) về Lịch sử hiện đại tại Cambridge nói, “Chúng ta dường như, và thực tế đúng vậy, đã chinh phục và cư trú ở một nửa thế giới trong một cơn đãng trí”). Khi căn cứ quyền lực và thương mại của Anh được thiết lập ở khu vực phía đông Bengal, nó bị các đối thủ châu Âu và châu Á vây quanh. Với mỗi cuộc chiến tranh ở châu Âu và châu Mỹ, người Anh ở Ấn Độ lại đụng độ với các thuộc địa và đồng minh của các đối thủ; sau mỗi chiến thắng, họ chiếm được tài sản ở Ấn Độ từ kẻ địch. Khi những thuộc địa của Anh mở rộng – về mặt kỹ thuật do Công ty Đông Ấn nắm giữ, chứ không phải bản thân nhà nước Anh – Anh cảm thấy bị đe dọa bởi Nga nhăm nhe ở phương bắc, bởi Myanmar hung hăng và bị chia rẽ, và bởi những kẻ cai trị Mông Cổ đầy tham vọng và ngày càng độc lập, vì vậy nó biện minh (trong mắt người Anh) cho việc tiếp tục thôn tính.

Rốt cuộc, Anh đã hình dung về một thực thể Ấn Độ với sự thống nhất dựa trên an ninh của một vùng lãnh thổ rộng lớn trên lục địa, bao gồm các quốc gia đương đại như Pakistan, Ấn Độ, Bangladesh, và Myanmar. Điều gì đó giống như lợi ích quốc gia của Ấn Độ đã được xác định, gắn với một thực thể địa lý được điều hành như một nhà nước trên thực tế, thậm chí trong trường hợp (giả định) quốc gia Ấn Độ không tồn tại. Chính sách đó xây dựng nền tảng an ninh của Ấn Độ dựa trên thế ưu việt của hải quân Anh ở Ấn Độ Dương; cũng như dựa vào các thể chế hữu nghị, hoặc ít nhất là không đe dọa, xa xôi như Singapore và Aden[121]; và một thể chế không thù địch tại Đèo Khyber[122] và Dãy Himalaya. Ở phía Bắc, Anh chặn đứng các cuộc tiến công của Sa hoàng Nga nhờ những nỗ lực phức tạp của trinh sát, do thám, và kẻ thế mạng bản địa được các đội quân nhỏ trong lực lượng Anh yểm trợ, sự đối đầu được biết đến như là “Ván cờ Lớn”[123] về địa chiến lược khu vực Himalaya. Nó cũng đẩy biên giới của Ấn Độ tiếp giáp với Trung Quốc ở phía bắc về phía Tây Tạng – một vấn đề xuất hiện một lần nữa trong cuộc chiến tranh của Trung Quốc với Ấn Độ năm 1962. Những chính sách tương tự đã được lấy làm yếu tố then chốt cho chính sách đối ngoại của Ấn Độ thời kỳ hậu độc lập. Chúng đồng nghĩa với một trật tự khu vực cho Nam Á, trong đó Ấn Độ đóng vai trò trụ cột và là đối trọng với nỗ lực của bất kỳ quốc gia nào, bất kể cấu trúc nội địa của nó, cố gắng tập trung quyền lực tới mức gây đe dọa ở các vùng lãnh thổ lân cận.

Khi London đáp trả cuộc nổi loạn năm 1857 của những người lính Hồi giáo và Hindu giáo trong quân đội của Công ty Đông Ấn bằng cách tuyên bố sự cai trị trực tiếp của Anh, Anh không coi đây là hành động thiết lập sự cai trị của mình đối với một quốc gia nước ngoài. Thay vào đó, nước này coi mình như một người giám sát trung lập và là người nâng tầm văn minh đối với nhiều quốc gia và dân tộc. Mãi tới năm 1888, một nhà cầm quyền hàng đầu của Anh mới tuyên bố.

Không có và chưa bao giờ tồn tại một Ấn Độ hay thậm chí bất kỳ đất nước Ấn Độ nào, theo bất kỳ quan điểm nào của châu Âu, có được bất kỳ sự thống nhất nào xét về mặt vật lý, chính trị, xã hội, hay tôn giáo… Với nhiều lý do và khả năng, các bạn có thể mong chờ một thời điểm khi một quốc gia duy nhất sẽ thay thế vị trí của các quốc gia khác nhau ở châu Âu.

Sau cuộc nổi loạn, với việc quyết định quản lý Ấn Độ như một bộ phận duy nhất của hoàng gia, Anh đã rất cố gắng biến một Ấn Độ như vậy trở thành hiện thực. Các vùng khác nhau được liên kết bằng các tuyến đường sắt và một ngôn ngữ chung, tiếng Anh. Những vinh quang của nền văn minh Ấn Độ cổ xưa được nghiên cứu và biên chép lại, những người Ấn Độ ưu tú được đào tạo về tư tưởng và các thiết chế của Anh. Trong quá trình đó, Anh đánh thức lại ở Ấn Độ ý thức rằng nước này là một thực thể duy nhất dưới sự cai trị của ngoại bang, và khơi dậy cảm giác rằng để đánh bại ảnh hưởng ngoại bang thì nó phải tự biến mình thành một quốc gia. Do đó, những tác động của Anh đối với Ấn Độ tương tự như cách Napoleon tác động lên Đức, nghĩa là trước đó nhiều quốc gia chỉ được coi như một thực thể địa lý chứ không phải một quốc gia.

Cách thức Ấn Độ giành được độc lập và tạo lập vai trò của mình trên thế giới phản ánh những di sản đa dạng này. Ấn Độ đã tồn tại qua nhiều thế kỷ bằng cách kết hợp giữa việc bảo tồn văn hóa với kỹ năng tâm lý phi thường trong việc đối phó với những kẻ chiếm đóng. Phản kháng bất bạo lực của Mohandas Gandhi đối với sự cai trị của Anh có thể diễn ra trước tiên là do sự nâng cao tinh thần của Mahatma, nhưng nó cũng tỏ ra là cách hiệu quả nhất để chống lại quyền lực đế quốc vì nó hướng tới các giá trị tự do cốt lõi của một xã hội Anh tự do. Giống như những người Mỹ hai thế kỷ trước, người Ấn Độ chứng minh sự độc lập của mình, chống lại những kẻ cai trị thực dân bằng cách viện dẫn các khái niệm về tự do mà họ đã nghiên cứu trong các trường học của Anh (bao gồm tại Trường Kinh tế London, nơi các nhà lãnh đạo tương lai của Ấn Độ tiếp thu nhiều ý tưởng gần giống với xã hội chủ nghĩa).

Ấn Độ hiện đại quan niệm nền độc lập của mình như là thắng lợi không chỉ của một quốc gia mà còn là của các nguyên tắc đạo đức phổ quát. Và cũng giống như các Tổ phụ Lập quốc của Mỹ, các nhà lãnh đạo đầu tiên của Ấn Độ coi các lợi ích quốc gia ngang với sự chính trực đạo đức. Nhưng các nhà lãnh đạo Ấn Độ đã hành động trên các nguyên tắc của Hòa ước Westphalia trong vấn đề mở rộng các thể chế trong nước, và không mấy quan tâm tới việc thúc đẩy dân chủ và thực hành nhân quyền trên thế giới.

Là Thủ tướng của một nhà nước mới giành được độc lập, Jawaharlal Nehru[124] cho rằng nền tảng chính sách đối ngoại của Ấn Độ là lợi ích quốc gia của Ấn Độ, chứ không phải bản thân sự hữu nghị quốc tế hay việc gây dựng các hệ thống phù hợp trong nước. Năm 1947, trong một bài phát biểu không lâu sau khi giành được độc lập, ông giải thích,

Dù chính sách nào được đưa ra đi nữa, nghệ thuật tiến hành các hoạt động đối ngoại của một quốc gia nằm ở chỗ tìm ra những gì có lợi nhất cho đất nước. Chúng ta có thể nói chân thành về thiện chí quốc tế. Nhưng phân tích đến tận cùng, một chính phủ hoạt động vì lợi ích của đất nước mà nó điều hành và không một chính phủ nào dám làm điều gì rõ ràng gây bất lợi cho quốc gia của mình trong ngắn hạn hay dài hạn.

Kautilya (và Machiavelli) cũng không thể diễn đạt tốt hơn thế.

Nehru và các vị thủ tướng tiếp theo, bao gồm cả con gái của ông, một Indira Gandhi[125] kiên cường, tiếp tục củng cố vị thế của Ấn Độ như là một phần trong trạng thái cân bằng toàn cầu bằng cách nâng chính sách đối ngoại của mình thành một biểu hiện của thẩm quyền đạo đức vượt trội của Ấn Độ. Ấn Độ chứng minh lợi ích quốc gia riêng của mình như một sự nghiệp được khai sáng độc đáo, rất giống những gì Mỹ đã làm cách đó gần 200 năm. Nehru và sau đó là Indira Gandhi, Thủ tướng Ấn Độ trong các giai đoạn 1966-1977 và 1980-1984, đã thành công trong việc xây dựng quốc gia non trẻ của họ thành một trong những yếu tố chủ chốt của trật tự quốc tế sau Thế chiến II.

Nội dung của sự không liên kết và chính sách do “nước tạo thế cân bằng” đưa ra trong một hệ thống cân-bằng-quyền-lực là khác nhau. Ấn Độ không sẵn sàng di chuyển về phía yếu hơn giống như những gì “nước tạo thế cân bằng” sẽ làm. Nước này không quan tâm đến việc vận hành một hệ thống quốc tế. Điều thôi thúc chủ yếu của nó là mong muốn không chính thức nằm trong bất kỳ phe phái nào, và thành công của Ấn Độ được tính bằng việc không bị lôi kéo vào những cuộc xung đột không ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của mình.

Nổi lên trong một thế giới của các cường quốc đã được thiết lập và Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ độc lập đã tinh tế nâng cao quyền tự do vận động từ một chiến thuật thương lượng thành một nguyên tắc luân lý. Kết hợp chủ nghĩa đạo đức chân chính với sự đánh giá sắc sảo về sự cân bằng giữa các lực lượng và tâm lý của các cường quốc chủ yếu, Nehru tuyên bố Ấn Độ là một cường quốc toàn cầu với định hướng vận động giữa các khối nước lớn. Năm 1947, ông tuyên bố trong một thông điệp gửi tới nền Cộng hòa Mới,

Chúng ta sẽ tránh vướng mắc vào bất kỳ khối hoặc nhóm cường quốc nào vì chỉ có như vậy chúng ta mới có thể phụng sự không chỉ lý tưởng của Ấn Độ mà còn cho hòa bình thế giới. Chính sách này đôi khi làm cho các thành viên của phe nhóm này tưởng rằng chúng ta đang ủng hộ phe kia. Mọi quốc gia đều đặt lợi ích riêng của mình lên hàng đầu khi phát triển chính sách đối ngoại. May mắn thay, các lợi ích của Ấn Độ trùng khớp với chính sách đối ngoại hòa bình và hợp tác với tất cả các quốc gia tiến bộ. Chắc chắn Ấn Độ sẽ tiến gần hơn đến với những quốc gia thân thiện và hợp tác.

Nói cách khác, Ấn Độ là trung lập và vượt lên trên chính trị quyền lực, một phần như một vấn đề thuộc nguyên tắc vì lợi ích của hòa bình thế giới, nhưng cũng một phần trên nền móng của lợi ích quốc gia. Trong suốt giai đoạn những tối hậu thư của Liên Xô về Berlin từ năm 1957 đến 1962, hai đời tổng thống Mỹ, đặc biệt là dưới thời John F. Kennedy, đã tìm kiếm sự ủng hộ của Ấn Độ nhân danh một thành phố bị cô lập tìm cách duy trì sự tự do của mình. Nhưng Ấn Độ đã chọn vị thế mà bất kỳ nỗ lực nào nhằm áp đặt lên nó các quy tắc của một khối nước trong Chiến tranh Lạnh cũng sẽ tước đoạt quyền tự do hành động, và do đó, tước đoạt cả vị thế thương lượng của nước này. Sự trung lập đạo đức trong thời gian ngắn sẽ là phương tiện vươn tới những ảnh hưởng đạo đức trong dài hạn. Giống như Nehru từng nói với các phụ tá của mình,

Thật vô lý và thất sách nếu phái đoàn Ấn Độ né tránh khối Xô-viết chỉ vì sợ làm người Mỹ tức giận. Sẽ đến lúc chúng ta có thể nói rõ ràng và chắc chắn cho người Mỹ hay những dân tộc khác rằng nếu họ tiếp tục có thái độ không thân thiện chúng ta sẽ cần phải tìm kiếm bạn hữu ở nơi khác.

Bản chất của chiến lược này là nó cho phép Ấn Độ thu hút sự ủng hộ từ cả hai phe trong Chiến tranh Lạnh, đảm bảo được viện trợ quân sự và hợp tác ngoại giao từ khối Xô-viết, trong khi vẫn tranh thủ được sự hỗ trợ phát triển của Mỹ và sự ủng hộ về mặt tinh thần của giới trí tuệ quyền uy của Mỹ. Dù có khó chịu với một nước Mỹ trong Chiến tranh Lạnh như thế nào đi nữa, đây là một hướng đi khôn ngoan cho một quốc gia mới phát triển. Với một quân đội non trẻ mới được thành lập khi đó và nền kinh tế kém phát triển, Ấn Độ sẽ có thể là một đồng minh được tôn trọng nhưng không được coi trọng. Là một nhân tố tự do, nước này có thể gây ảnh hưởng rộng rãi hơn nhiều.

Theo đuổi một vai trò như vậy, Ấn Độ bắt đầu xây dựng một khối gồm những quốc gia có cách nghĩ giống mình – trên thực tế, là một sự liên kết của các quốc gia không liên kết. Năm 1955, trước các đại biểu của Hội nghị Á-Phi tại Bandung, Indonesia, Nehru phát biểu,

Có phải chúng ta, các nước châu Á và châu Phi, không thể có bất kỳ vị trí tích cực nào khác ngoại trừ thân cộng hay chống cộng? Có phải đã đến mức rằng, các nhà lãnh đạo tinh thần, người đã mang đến tôn giáo và tất cả mọi thứ cho thế giới này, phải gán mác cho nhóm này hay nhóm khác và trở thành những kẻ ăn theo phe này hay phe khác, thực hiện những mong muốn của người khác và thỉnh thoảng nêu ra một ý kiến? Đó là điều hèn hạ và nhục nhã nhất đối với bất kỳ dân tộc hay quốc gia có lòng tự trọng nào. Tôi không thể chấp nhận suy nghĩ rằng các quốc gia vĩ đại của châu Á và châu Phi thoát khỏi cảnh nô lệ hướng tới tự do chỉ để tự hạ nhục hoặc làm bẽ mặt chính mình theo cách này.

Lý do quan trọng nhất cho việc chối bỏ của Ấn Độ về những gì mà nước này miêu tả là chính trị quyền lực trong Chiến tranh Lạnh là do Ấn Độ không thấy lợi ích quốc gia nào đáng quan tâm trong các vụ tranh chấp đó. Không thể chỉ vì các cuộc tranh chấp dọc theo các đường ranh giới ở châu Âu mà Ấn Độ sẽ thách thức Liên Xô khi cách nước này có vài trăm dặm, điều sẽ khiến nước này có động lực để bắt tay với Pakistan. Hay Ấn Độ cũng sẽ không nhân danh các cuộc tranh cãi ở Trung Đông mà mạo hiểm trở nên thù địch với Hồi giáo. Ấn Độ kiềm chế không phán xét cuộc chiến Bắc-Nam Triều Tiên và việc thống nhất Việt Nam năm 1975. Các nhà lãnh đạo Ấn Độ quyết tâm không tự cô lập khỏi những gì mà họ xác định là xu hướng tiến bộ trong một thế giới đang phát triển hay không mạo hiểm gây thù địch với siêu cường Liên Xô.

Tuy nhiên, Ấn Độ đã dính vào một cuộc chiến tranh với Trung Quốc năm 1962 và bốn cuộc chiến tranh với Pakistan (một trong số đó là cuộc chiến năm 1971 được thực hiện dưới sự bảo trợ của một hiệp ước phòng thủ với Liên Xô vừa ký kết, và kết thúc với việc kẻ đối đầu chính của Ấn Độ bị tách thành hai quốc gia riêng biệt, Pakistan và Bangladesh – cải thiện đáng kể vị trí chiến lược tổng thể của Ấn Độ).

Trong công cuộc tìm kiếm một vai trò lãnh đạo trong các quốc gia không liên kết, Ấn Độ tuân theo một khái niệm về trật tự quốc tế phù hợp với một khái niệm được kế thừa, ở cả cấp độ toàn cầu và khu vực. Những gì mà khái niệm này chính thức tuyên bố mang tính chất của Hòa ước Westphalia cổ điển và đồng điệu với các phân tích lịch sử của châu Âu về cân bằng quyền lực. Nehru xác định cách tiếp cận của Ấn Độ trên “năm nguyên tắc chung sống hòa bình.” Mặc dù mang danh nghĩa của một khái niệm triết học Ấn Độ, Pancha Shila (Năm nguyên tắc cùng tồn tại), theo đó những nguyên tắc này là sự tóm tắt cao cả hơn của mô hình Hòa ước Westphalia về một trật tự đa cực của các quốc gia có chủ quyền:

1. Tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau,

2. Không xâm lược lẫn nhau,

3. Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau,

4. Bình đẳng và cùng có lợi, và

5. Chung sống hòa bình.

Sự ủng hộ của Ấn Độ đối với các nguyên tắc trừu tượng của trật tự thế giới đi kèm với một học thuyết về đảm bảo an ninh của Ấn Độ ở cấp độ khu vực. Giống như khái niệm về vai trò đặc biệt của Mỹ ở Tây Bán cầu được các nhà lãnh đạo đầu tiên của Mỹ xây dựng trong Học thuyết Monroe[126], trên thực tế Ấn Độ đã thiết lập một vị trí đặc biệt trong khu vực Ấn Độ Dương nằm giữa Đông Ấn và khu vực Sừng châu Phi[127]. Giống như Anh đối với châu Âu ở thế kỷ 18 và 19, Ấn Độ cố gắng ngăn chặn sự nổi lên của một thế lực có ảnh hưởng trong khu vực rộng lớn này của địa cầu. Giống như các nhà lãnh đạo đầu tiên của Mỹ không tìm kiếm sự chấp thuận của các nước ở Tây Bán cầu đối với Học thuyết Monroe, trong khu vực lợi ích chiến lược đặc biệt của mình, Ấn Độ thực hiện chính sách trên cơ sở định nghĩa riêng về một trật tự khu vực Nam Á. Và trong khi Mỹ và Ấn Độ thường xung đột về quan điểm tiến hành Chiến tranh Lạnh sau sự sụp đổ của Liên Xô, những quan điểm này phần lớn đã và đang tương đồng xét trong khu vực Ấn Độ Dương và các vùng ngoại vi của khu vực này.

Chiến tranh Lạnh kết thúc, Ấn Độ được giải thoát khỏi nhiều áp lực đối nghịch nhau và một số tư tưởng say mê chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán vào năm 1991 và được hỗ trợ bởi một chương trình của IMF, Ấn Độ bắt tay vào cải cách kinh tế. Ngày nay, các công ty Ấn Độ dẫn đầu một số ngành công nghiệp lớn của thế giới. Hướng đi mới này được phản ánh trong tư thế ngoại giao của Ấn Độ, với các quan hệ đối tác mới trên toàn cầu, đặc biệt trên khắp châu Phi, châu Á, và vai trò của Ấn Độ trong các tổ chức kinh tế và tài chính đa phương được thế giới đánh giá cao. Bên cạnh ảnh hưởng kinh tế và ngoại giao ngày càng tăng, Ấn Độ đã tăng cường đáng kể sức mạnh quân sự của mình, bao gồm cả lực lượng hải quân và kho dự trữ vũ khí hạt nhân. Và trong một vài thập kỷ tới, Ấn Độ sẽ vượt qua Trung Quốc trở thành quốc gia đông dân nhất châu Á.

Ấn Độ có một vai trò phức tạp trong trật tự thế giới do các yếu tố cấu trúc liên quan đến sự thành lập của quốc gia này. Điều phức tạp nhất là mối quan hệ của Ấn Độ với các nước láng giềng gần nhất, đặc biệt là Pakistan, Bangladesh, Afghanistan, và Trung Quốc. Các mối quan hệ nước đôi và sự đối kháng giữa những quốc gia đó phản ánh di sản của một thiên niên kỷ tranh nhau xâm lược và di cư vào Tiểu lục địa này, của những cuộc tấn công của Anh tại biên giới địa hạt của nước này ở Ấn Độ, và của việc chấm dứt nhanh chóng sự cai trị thực dân của Anh ngay sau Thế chiến II. Không một nhà nước kế cận nào chấp nhận hoàn toàn các đường biên giới được phân chia vào năm 1947 của Tiểu lục địa này. Bị bên này hay bên kia coi là tạm thời, các tranh chấp biên giới từ đó đến nay luôn là nguyên nhân của những vụ bạo lực lẻ tẻ, các cuộc đụng độ quân sự, và sự xâm nhập của những kẻ khủng bố.

Các đường biên giới với Pakistan, về cơ bản chia cắt sự tập hợp của Hồi giáo trên Tiểu lục địa này, cắt ngang qua những đường ranh giới sắc tộc. Chúng khai sinh một nhà nước dựa trên Hồi giáo trong hai khu vực không tiếp giáp nhau mà trước kia là Ấn Độ thuộc Anh, bị chia cắt bởi lãnh thổ Ấn Độ trải dài hàng ngàn dặm, tạo nên vũ đài cho nhiều cuộc chiến tranh tiếp theo. Các đường biên giới với Afghanistan và Trung Quốc được tuyên bố dựa trên đường phân chia do những nhà cầm quyền thực dân Anh thế kỷ 19 vẽ nên, sau đó bị các đảng đối lập phủ nhận và còn tranh cãi cho đến ngày nay. Ấn Độ và Pakistan đều đã đầu tư rất nhiều vào kho vũ khí hạt nhân và thế quân sự trong khu vực. Tuy không yểm trợ, Pakistan cũng dung dưỡng chủ nghĩa cực đoan bạo lực, bao gồm chủ nghĩa khủng bố ở Afghanistan và ở cả Ấn Độ.

Một nhân tố đặc biệt phức tạp chính là quan hệ của Ấn Độ với một thế giới Hồi giáo rộng lớn hơn, trong đó nước này là một phần không thể thiếu. Ấn Độ thường được phân loại như là một quốc gia Đông Á hoặc Nam Á. Nhưng nó có những mối liên hệ lịch sử sâu sắc với Trung Đông và cộng đồng Hồi giáo rộng lớn, hơn cả Pakistan và quả thực hơn bất kỳ quốc gia Hồi giáo nào ngoại trừ Indonesia. Vì vậy, cho đến nay, Ấn Độ vẫn có thể ngăn cách với những xu hướng bất ổn chính trị và bạo lực giáo phái khắc nghiệt nhất, một phần do sự đối xử không thành kiến đối với các dân tộc thiểu số trong nước và sự bồi đắp các nguyên tắc nội bộ chung của Ấn Độ – bao gồm cả nền dân chủ và chủ nghĩa dân tộc – vượt lên trên những khác biệt thông thường. Tuy nhiên, kết quả ra sao không thể đoán trước được và việc duy trì nó sẽ đòi hỏi những nỗ lực đồng bộ. Sự quá khích hơn nữa của thế giới Ả-rập hay cuộc nội chiến leo thang ở Pakistan có thể khiến Ấn Độ phải đối mặt với những áp lực nội bộ đáng kể.

Ngày nay, Ấn Độ theo đuổi một chính sách đối ngoại mà trên nhiều phương diện tương tự như các cuộc tìm kiếm của Ấn Độ thuộc Anh trước kia, khi tìm cách coi sự cân bằng quyền lực là cơ sở cho một trật tự khu vực trong một vòng cung (lãnh thổ) kéo dài nửa thế giới, từ Trung Đông đến Singapore và sau đó về phía bắc tới Afghanistan. Các quan hệ của quốc gia này với Trung Quốc, Nhật Bản, và khu vực Đông Nam Á theo khuôn mẫu giống với trạng thái cân bằng ở châu Âu thế kỷ 19. Giống như Trung Quốc, nước này không ngần ngại sử dụng những kẻ “man di” ở phương xa như Mỹ để giúp đạt được mục tiêu trong khu vực, mặc dù cả hai nước này vẫn dùng những thuật ngữ lịch thiệp hơn để miêu tả chính sách của họ. Dưới thời chính quyền George W. Bush, sự phối hợp chiến lược giữa Ấn Độ và Mỹ trên quy mô toàn cầu thỉnh thoảng đã được đem ra thảo luận. Tuy nhiên, sự phối hợp này vẫn chỉ giới hạn ở khu vực Nam Á vì truyền thống không liên kết của Ấn Độ ngăn cản một sự sắp đặt toàn cầu, và vì cả hai nước đều không sẵn sàng chấp nhận đối đầu với Trung Quốc như một nguyên tắc lâu dài của chính sách quốc gia.

Giống như những người Anh ở thế kỷ 19 bị buộc phải gia tăng sự tham gia của mình trên toàn cầu để bảo vệ các tuyến đường chiến lược đến Ấn Độ, trong chiều hướng của thế kỷ 21, Ấn Độ đã cảm thấy bắt buộc phải đóng một vai trò chiến lược ngày một lớn hơn ở châu Á và thế giới Hồi giáo để ngăn chặn sự thống trị đối với khu vực này của các quốc gia hoặc các ý thức hệ mà nó xem là thù địch. Trong việc theo đuổi tiến trình này, Ấn Độ đã có những ràng buộc tự nhiên với các nước trong “Văn hóa quyển tiếng Anh.”[128] Tuy nhiên, quốc gia này có thể sẽ tiếp tục tôn vinh các di sản của Nehru bằng cách duy trì sự tự do hành động trong các mối quan hệ của mình với châu Á và Trung Đông và trong chính sách đối với các nước độc tài quan trọng, những nước là nguồn tiếp cận tới các tài nguyên mà Ấn Độ sẽ cần để duy trì các kế hoạch kinh tế rộng lớn. Chính những ưu tiên này sẽ tạo nên sự cấp thiết cho Ấn Độ phải vượt qua những thái độ thuộc về lịch sử. Với việc định hình lại vị thế của Mỹ ở Trung Đông, các nước trong khu vực sẽ tìm kiếm những đối tác mới để củng cố vị thế và xây dựng một kiểu trật tự khu vực nào đó. Và các phân tích chiến lược của Ấn Độ sẽ không cho phép có một khoảng trống ở Afghanistan hay quyền bá chủ trong khu vực châu Á của một cường quốc khác.

Dưới một chính phủ theo chủ nghĩa dân tộc Hindu giành thắng lợi vang dội sau cuộc bầu cử tháng Năm năm 2014, trên nền tảng cải cách và tăng trưởng kinh tế, có thể hy vọng Ấn Độ sẽ theo đuổi mạnh mẽ hơn các mục tiêu chính sách đối ngoại truyền thống của mình. Với sự ủy nhiệm vững chắc và sự lãnh đạo có sức lôi cuốn quần chúng, chính quyền Narendra Modi có thể đặt mình vào vai trò vạch ra những hướng đi mới đối với các vấn đề lịch sử, như xung đột với Pakistan hay mối quan hệ với Trung Quốc. Với Ấn Độ, Nhật Bản, và Trung Quốc đều do các chính quyền mạnh mẽ và có định hướng chiến lược lãnh đạo, sự thù địch sẽ gia tăng và các giải pháp táo bạo sẽ mở rộng phạm vi.

Trong bất kỳ những diễn biến nào trên đây, Ấn Độ sẽ là điểm tựa của trật tự thế kỷ 21: một yếu tố không thể thiếu, dựa trên vị trí địa lý, nguồn lực, và truyền thống lãnh đạo tinh vi của nước này, trong sự phát triển chiến lược và có tính chất ý thức hệ của các khu vực và các khái niệm về trật tự mà quốc gia này liên quan.

TRẬT TỰ KHU VỰC Á CHÂU LÀ GÌ?

Trong lịch sử, trật tự châu Âu có tính khép kín. Cho đến đầu thế kỷ 20, Anh có khả năng duy trì sự cân bằng nhờ vị trí địa lý và ưu thế hải quân. Đôi khi, các cường quốc châu Âu tranh thủ các nước bên ngoài để tạm thời tăng cường vị thế của họ – ví dụ, Pháp ve vãn Đế quốc Ottoman vào thế kỷ 16, hay liên minh của Anh với Nhật Bản vào đầu thế kỷ 20 – nhưng các cường quốc phi phương Tây, ngoại trừ thỉnh thoảng có một vài quốc gia nổi lên ở khu vực Trung Đông hay Bắc Phi, có rất ít lợi ích ở châu Âu và không có động lực để can thiệp vào các cuộc xung đột châu Âu.

Ngược lại, trật tự châu Á hiện nay lại bao gồm các cường quốc bên ngoài như một đặc trưng không thể thiếu: Mỹ, có vai trò như một cường quốc tại châu Á-Thái Bình Dương đã được khẳng định rõ ràng trong các tuyên bố chung của Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào hồi tháng Một năm 2011, và của Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vào tháng Sáu năm 2013; và Nga, về mặt địa lý, một cường quốc châu Á và là thành viên trong các tổ chức của châu Á như Tổ chức Hợp tác Thượng Hải, ngay cả khi hơn ba phần tư dân số của nước này sinh sống ở phần lãnh thổ thuộc châu Âu.

Nước Mỹ hiện nay đôi khi được mời đóng vai trò của một nước tạo thế cân bằng quyền lực. Trong Hiệp ước Portsmouth năm 1905, nó là trung gian trong cuộc chiến tranh giữa Nga và Nhật Bản; trong Thế chiến II, nước này đánh bại nỗ lực giành quyền bá chủ châu Á của Nhật Bản. Mỹ đóng một vai trò tương tự ở châu Á trong thời Chiến tranh Lạnh khi tìm cách cân bằng với Liên Xô thông qua một mạng lưới các liên minh trải dài từ Pakistan đến Philippines.

Cấu trúc đang phát triển của châu Á sẽ phải tính tới một loạt các quốc gia chưa được xét đến trong các giai đoạn trước đây. Indonesia, án ngữ khu vực Đông Nam Á trong khi khẳng định định hướng Hồi giáo, đóng vai trò ngày càng có ảnh hưởng và do đó đã xoay xở rất tinh tế để cân bằng giữa Trung Quốc, Mỹ, và thế giới Hồi giáo. Với Nhật Bản, Nga và Trung Quốc là các nước láng giềng, Hàn Quốc đã đạt tới nền dân chủ rực rỡ được lót đường bởi nền kinh tế có sức cạnh tranh toàn cầu, bao gồm vị trí dẫn đầu trong nhiều ngành công nghiệp chiến lược như viễn thông và đóng tàu. Nhiều quốc gia châu Á – bao gồm cả Trung Quốc – nhìn nhận các chính sách của Bắc Triều Tiên gây ra sự mất ổn định nhưng lại coi sự sụp đổ của Bắc Triều Tiên là mối nguy hiểm thậm chí còn lớn hơn. Về phần mình, Hàn Quốc sẽ phải đối phó với áp lực trong nước gia tăng đòi hỏi thống nhất đất nước.

Đối mặt với quy mô rộng lớn và phạm vi đa dạng của châu Á, các quốc gia châu Á đã hình thành một loạt các tổ chức đa phương và cơ chế song phương đầy ấn tượng. Trái ngược với Liên minh châu Âu, NATO, và Ủy ban An ninh và Hợp tác châu Âu, các tổ chức này xử lý các vấn đề an ninh và kinh tế trên cơ sở từng-trường-hợp cụ thể, chứ không phải một biểu hiện của các quy tắc chính thức về trật tự khu vực. Một số tổ chức quan trọng bao gồm Mỹ và một số tổ chức khác, bao gồm cả các tổ chức kinh tế, chỉ có các nước thành viên châu Á, trong đó tổ chức phức tạp và quan trọng nhất là ASEAN - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á. Nguyên tắc cốt lõi của các tổ chức này là chào đón những quốc gia có liên quan trực tiếp nhất đến các vấn đề trước mắt.

Nhưng liệu tất cả những điều này có đưa đến một hệ thống trật tự cho châu Á? Trong trạng thái cân bằng của châu Âu, các bên liên quan chính có những lợi ích mà nếu không hoàn toàn trùng khớp thì cũng tương đồng. Một sự cân bằng quyền lực có thể được gây dựng không chỉ trên thực tế – như một điều chắc chắn khi không tồn tại sự bá quyền – mà còn là một hệ thống chính danh tạo điều kiện cho các quyết định và dung hòa các chính sách. Tình huống như vậy không tồn tại ở châu Á, như có thể thấy ở những ưu tiên mà các nước lớn đã chọn lựa cho riêng mình. Trong khi Ấn Độ có lẽ chủ yếu quan tâm tới Trung Quốc như một đối thủ ngang hàng, phần lớn là do cuộc chiến tranh biên giới năm 1962, Trung Quốc lại coi đối thủ ngang hàng của mình là Nhật Bản và Mỹ. Ấn Độ đã dành ít nguồn lực quân sự để đối phó với Trung Quốc hơn là với Pakistan, một đất nước nếu không phải là đối thủ ngang hàng thì cũng luôn là một mối bận tâm chiến lược đối với New Delhi.

Bản chất vô định hình của các tổ chức châu Á một phần có nguyên nhân do địa lý đã định ra đường ranh giới rõ ràng giữa khu vực Đông Á và Nam Á trong suốt lịch sử. Những ảnh hưởng văn hóa, triết học, và tôn giáo đã vượt qua các đường ranh giới địa lý đó, các khái niệm của Hindu giáo và Nho giáo về việc cai trị đã cùng tồn tại ở Đông Nam Á. Nhưng những rào cản núi non và rừng rậm là không thể vượt qua được, đến mức phải tới thế kỷ 20 mới có sự đụng độ quân sự giữa các đế quốc lớn của khu vực Đông Á và Nam Á. Người Mông Cổ và những người kế tục họ tiến vào Tiểu lục địa Ấn Độ qua ngả Trung Á chứ không phải qua những con đường đèo cheo leo trên Dãy Himalaya, và họ đã không thể tới được những vùng đất phía nam Ấn Độ. Các khu vực khác nhau của châu Á đã theo đuổi các chiều hướng khác nhau, xét cả về địa lý và lịch sử.

Các trật tự khu vực được xây dựng trong những giai đoạn này không dựa trên bất kỳ tiền đề nào của Hòa ước Westphalia. Trong khi trật tự châu Âu hàm chứa một trạng thái cân bằng của “các quốc gia có chủ quyền” được xác định về mặt lãnh thổ, công nhận sự bình đẳng pháp lý của nhau, các cường quốc chính trị châu Á truyền thống hoạt động theo các tiêu chí ít rõ ràng hơn. Cho tới khi bước vào kỷ nguyên hiện đại một thời gian khá lâu, một thế giới “nội châu Á” chịu ảnh hưởng của Đế quốc Mông Cổ, Nga, và Hồi giáo cùng tồn tại với một hệ thống triều cống đế quốc Trung Quốc; Trung Quốc đã vươn ra bên ngoài, tới các vương quốc trong khu vực Đông Nam Á, thỏa mãn những tuyên bố về tính phổ quát của Trung Quốc, ngay cả khi các vương quốc này thực hiện một hình thức quản lý đất nước chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi các nguyên tắc của Hindu giáo tiếp nhận từ Ấn Độ, trong đó thừa nhận hình thức thánh thần cho ngôi vương.

Giờ đây những di sản này đang hội tụ, và phải rất lâu nữa mới có một sự đồng thuận giữa các nước về ý nghĩa của cuộc hành trình mà họ đã thực hiện hoặc về những bài học của các cuộc hành trình đó đối với trật tự thế giới thế kỷ 21. Trong điều kiện hiện nay, về cơ bản có hai sự cân bằng quyền lực đang nổi lên: một ở Nam Á, một ở Đông Á. Không một cân bằng nào có được đặc trưng không thể thiếu giống như sự cân bằng quyền lực ở châu Âu: nước tạo thế cân bằng, quốc gia có khả năng thiết lập trạng thái cân bằng bằng cách di chuyển sức nặng của mình về phía yếu hơn. Mỹ (sau khi rút khỏi Afghanistan) đã kiềm chế không coi cân bằng nội bộ hiện nay của Nam Á chủ yếu như là một vấn đề quân sự. Nhưng Mĩ sẽ phải tích cực trong công việc ngoại giao nhằm tái lập một trật tự khu vực, vì nếu không sẽ tạo ra một khoảng trống mà chắc chắn sẽ hút tất cả các nước xung quanh vào một cuộc đối đầu khu vực.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3