Trật Tự Thế Giới - Chương 06
Chương 6
HƯỚNG TỚI MỘT TRẬT TỰ Á CHÂU: ĐỐI ĐẦU HAY ĐỐI TÁC?
Đặc điểm chung nhất của các quốc gia châu Á là họ coi mình như đại diện cho các nước “mới nổi” hoặc “hậu thuộc địa.” Tất cả các quốc gia này đều tìm cách vượt qua tàn dư của ách cai trị dưới thời thuộc địa bằng cách khẳng định một bản sắc dân tộc lớn mạnh. Họ cùng chung một niềm tin rằng trật tự thế giới hiện đang tái cân bằng sau khi bị phương Tây cố tình can thiệp trong nhiều thế kỷ qua, song mỗi quốc gia lại có được những bài học khác nhau từ hành trình lịch sử của mình. Khi các lãnh đạo cấp cao tìm cách khơi dậy những lợi ích cốt lõi, nhiều người trong số họ hướng đến một truyền thống văn hóa khác và lý tưởng hóa một thời đại vàng son khác.
Trong các hệ thống của châu Âu ở thế kỷ 18 và 19, việc duy trì trạng thái cân bằng – hay ngụ ý là giữ nguyên trạng – được coi là một hiệu quả tích cực. Ở châu Á, hầu hết mọi quốc gia bị thúc đẩy bởi động lực nội tại của chính họ. Tự coi mình là nước đang “vươn lên,” mỗi quốc gia châu Á đều vận hành với niềm tin rằng thế giới vẫn chưa nhìn nhận đầy đủ vai trò mà họ xứng đáng đảm nhận. Ngay cả khi không quốc gia nào đặt dấu hỏi về chủ quyền hay vị thế của nước khác, và tất cả đều khẳng định quyết tâm hướng tới chính sách ngoại giao “tổng khác không,” việc theo đuổi đồng thời nhiều chương trình xây dựng ưu thế quốc gia dẫn đến sự biến động trong chừng mực nào đó đối với trật tự khu vực. Cùng với sự phát triển của công nghệ hiện đại, các cường quốc lớn ở châu Á đã tự trang bị cho mình kho khí giới quân sự có sức mạnh hủy diệt lớn hơn rất nhiều so với quốc gia châu Âu hùng mạnh nhất thế kỷ 19 từng sở hữu, làm phức tạp thêm những rủi ro của việc tính toán sai lầm.
Do đó, cách tổ chức châu Á luôn là thách thức cố hữu đối với trật tự thế giới. Việc các nước lớn nhận thức và theo đuổi những lợi ích quốc gia của họ thay vì sự cân bằng quyền lực như một hệ thống đã định hình các cơ chế trật tự đã và đang phát triển. Và thách thức của họ sẽ là liệu có thể xây dựng một mối quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương nhằm tạo nên một khuôn khổ hòa bình cho sự tương hỗ các lợi ích lâu dài giữa các quốc gia hay không.
TRUNG QUỐC VÀ TRẬT TỰ QUỐC TẾ Ở CHÂU Á
Trong số tất cả các khái niệm về trật tự thế giới ở châu Á, Trung Quốc vận hành khái niệm lâu đời nhất, rõ ràng nhất, và khác biệt nhất so với những ý tưởng của hệ thống theo Hòa ước Westphalia. Trung Quốc cũng đã trải qua hành trình lịch sử phức tạp nhất, từ thời văn minh cổ đại qua các đế quốc phong kiến, tới cách mạng cộng sản, đến vị thế là một cường quốc hiện đại – một hành trình có tác động sâu rộng với nhân loại.
Kể từ khi thống nhất và trở thành một chủ thể chính trị duy nhất vào năm 221 TCN cho đến đầu thế kỷ 20, vị trí của Trung Quốc ở trung tâm trật tự thế giới đã ăn sâu trong suy nghĩ của tầng lớp tinh hoa ở quốc gia này đến mức không một từ tiếng Trung nào có thể diễn tả được. Chỉ đến khi nhìn lại, các học giả mới định nghĩa được hệ thống triều cống “dĩ Hoa vi trung” (lấy Trung Quốc làm trung tâm) này. Trong khái niệm truyền thống đó, Trung Quốc coi chính mình ở một khía cạnh nào đó là chính quyền tối cao duy nhất trên toàn thế giới. Hoàng đế Trung Quốc được coi là thiên tử và là nhân vật kết nối người với trời. Ông ta không chỉ cai quản mỗi “Trung Quốc” – nghĩa là các vùng lãnh thổ ngay dưới sự trị vì của mình, mà là cả “Thiên hạ,” trong đó Trung Quốc là phần trung tâm văn minh: “Vương quốc trung tâm” truyền cảm hứng và nâng đỡ cho toàn nhân loại.
Theo quan điểm này, trật tự thế giới phản ánh một tôn ti trật tự toàn cầu, chứ không phải một trạng thái cân bằng của các quốc gia có chủ quyền cạnh tranh lẫn nhau. Mỗi xã hội được coi là một dạng thức nào đó của quan hệ triều cống với Trung Quốc, một phần dựa trên nét tương đồng văn hóa với Trung Quốc; nhưng không xã hội nào có thể bình đẳng với nó. Quốc vương các nước khác không phải là người có quyền lực ngang hàng mà là những “môn đệ” ngoan ngoãn trong nghệ thuật cai trị, phấn đấu hướng tới nền văn minh. Ngoại giao không phải là một quá trình thương lượng giữa các lợi ích có chủ quyền mà là hàng loạt nghi lễ được sắp đặt cẩn thận, trong đó các xã hội bên ngoài được trao cơ hội nhận lãnh vị trí định sẵn của mình trong hệ thống tôn ti trật tự toàn cầu. Theo quan điểm này, ở Trung Quốc xưa, “chính sách ngoại giao” như chúng ta gọi hiện nay thuộc lĩnh vực của Bộ Lễ, chịu trách nhiệm xác định các sắc thái của quan hệ triều cống, và Lý Phiên Viện chịu trách nhiệm quản lý mối quan hệ với các bộ lạc du mục. Phải đến tận giữa thế kỷ 19, một bộ liên quan đến nước ngoài của Trung Quốc mới được thành lập, do khi đó cần phải có một cơ quan để đối phó với những kẻ xâm lược đến từ phương Tây. Thậm chí sau đó, các quan lại triều đình vẫn coi nhiệm vụ của mình là thực hiện truyền thống quản lý những kẻ man di chứ không phải trọng thị ngoại giao kiểu Hòa ước Westphalia. Bộ mới này mang tên “Cơ quan quản lý sự vụ mọi quốc gia,” ngụ ý rằng Trung Quốc hoàn toàn không tham gia vào hoạt động ngoại giao xuyên quốc gia.
Mục tiêu của hệ thống triều cống là duy trì sự tôn kính, chứ không phải thu về lợi ích kinh tế hay thống trị các nước khác về mặt quân sự. Vạn Lý Trường Thành – thành tựu kiến trúc hùng vĩ nhất của Trung Quốc, với độ dài khoảng 8.850 km, được Tần Thủy Hoàng – vị Hoàng đế đánh bại tất cả các đối thủ về mặt quân sự, chấm dứt thời kỳ Chiến Quốc và nhất thống Trung Quốc – khởi công xây dựng. Đó là một minh chứng hùng hồn cho chiến thắng quân sự, nhưng cũng thể hiện giới hạn vốn có của quốc gia này, ám chỉ quyền lực to lớn gắn liền với một ý thức dễ bị tổn thương. Qua hàng ngàn năm, Trung Quốc thường tìm cách lừa gạt và dụ dỗ kẻ thù thay vì cố đánh bại họ bằng vũ lực. Vì vậy, một thượng thư trong triều đại nhà Hán (206 TCN-220 SCN) đã minh họa “ngũ bả” mà ông kiến nghị nhằm đối phó với bộ lạc Hung Nô ở biên giới Tây bắc Trung Quốc, dù theo phân tích thông thường Trung Quốc là siêu cường quân sự duy nhất lúc đó:
Ban cho chúng... nhung lụa và xe ngựa đẹp để làm mờ mắt chúng; cho chúng cao lương mỹ vị để mua chuộc miệng chúng; cho chúng đàn ca và mĩ nữ để quyến rũ đôi tai chúng; cho chúng dinh cơ to đẹp, vựa lúa, và gia nhân để mua chuộc dạ dày chúng... và đối với những kẻ quy hàng, hoàng đế [nên] thết đãi yến tiệc, đích thân tiếp rượu và thức ăn để mua chuộc tâm trí chúng. Đây là những gì có thể được gọi là ngũ bả.
Nghi thức ngoại giao của Trung Quốc, khấu đầu – phủ phục dưới đất để thừa nhận vị thế bề trên của hoàng đế – hiển nhiên là một hành động tự hạ mình và là chướng ngại vật trong quan hệ của Trung Quốc với các quốc gia phương Tây hiện đại. Nhưng nghi thức khấu đầu này là sự tự nguyện mang tính biểu tượng: nó đại diện sự tôn kính trước một dân tộc được ngưỡng mộ nhiều hơn là sợ hãi. Những vật triều cống được gửi tới Trung Quốc trong những dịp như vậy thường được hoàng đế đáp lại bằng những món quà có giá trị lớn hơn.
Theo truyền thống, Trung Quốc tìm cách vượt trội về mặt tâm lý thông qua những thành tựu và các giá trị đạo đức – xen lẫn với chinh phạt quân sự để dạy cho những kẻ man di ngoan cố một “bài học” và để có được sự tôn kính. Cả hai mục tiêu chiến lược trên cùng cách tiếp cận tâm lý căn bản này đối với xung đột vũ trang đều được thể hiện rõ nét trong hai cuộc chiến tranh gần đây của Trung Quốc với Ấn Độ vào năm 1962 và Việt Nam vào năm 1979, cũng như trong cách mà quốc gia này khẳng định “lợi ích cốt lõi” của mình trước các nước láng giềng.
Tuy nhiên, theo thuật ngữ phương Tây, Trung Quốc không phải là một xã hội truyền giáo. Quốc gia này tìm cách thu phục lòng tôn kính, chứ không phải thay đổi quốc gia khác; ranh giới mong manh đó không bao giờ có thể vượt qua. Sứ mệnh của quốc gia này là thành tựu của nó mà các nước khác phải hiểu và thừa nhận. Một quốc gia khác có thể trở thành bạn, thậm chí là bằng hữu lâu năm, nhưng sẽ không bao giờ được coi là ngang hàng với Trung Quốc. Trớ trêu thay, những người nước ngoài có thể đạt được điều gần giống với vị thế đó lại là những kẻ chinh phạt. Một trong những chiến công đáng ngạc nhiên nhất của chủ nghĩa đế quốc văn hóa trong lịch sử, hai dân tộc từng chinh phục Trung Quốc – Mông Cổ vào thế kỷ 13 và Mãn Châu vào thế kỷ 17 – được cảm hóa để tiếp nhận những yếu tố cốt lõi của văn hóa Trung Quốc nhằm tạo thuận lợi cho việc cai trị một dân tộc to lớn và kiên định trong việc khẳng định tính ưu việt của văn hóa dân tộc mình. Hai kẻ chinh phục này bị xã hội Trung Quốc đồng hóa đáng kể, đến mức phần lớn lãnh thổ quê hương của họ bị coi là từng thuộc về Trung Quốc. Trung Quốc đã không tìm cách áp đặt hệ thống chính trị của mình đối với các quốc gia khác; đúng hơn, chính những nước này tự động học theo hệ thống chính trị đó. Trong chừng mực nào đó, Trung Quốc đã mở rộng không phải nhờ vào chinh phạt mà bằng biện pháp “mưa dầm thấm lâu.”
Ở kỷ nguyên hiện đại, các đại diện phương Tây với tư tưởng văn hóa ưu việt của riêng mình lên kế hoạch thu nạp Trung Quốc vào hệ thống thế giới châu Âu – hệ thống đang trở thành cấu trúc cơ bản của trật tự thế giới. Họ gây áp lực buộc Trung Quốc xây dựng các mối quan hệ với những nước còn lại trên thế giới thông qua hoạt động trao đổi đại sứ và thương mại tự do, đồng thời nâng cao trình độ của người dân thông qua một nền kinh tế hiện đại hóa và một xã hội cởi mở với Ki-tô giáo.
Điều mà phương Tây coi là quá trình khai sáng và cam kết lại bị Trung Quốc coi như một cuộc tấn công. Ban đầu Trung Quốc nỗ lực tránh đỡ cuộc tấn công này, và sau đó dứt khoát hoàn toàn chống lại nó. Khi sứ giả Anh đầu tiên George Macartney đến Trung Quốc vào cuối thế kỷ 18, mang theo một vài sản phẩm đầu tiên của cuộc cách mạng công nghiệp và một lá thư từ Vua George III đề nghị thương mại tự do và thành lập đại sứ quán thường trực lẫn nhau tại Bắc Kinh và London, chiếc thuyền của Trung Quốc chở George Macartney từ Quảng Châu đến Bắc Kinh được chăng biểu ngữ ghi rõ ông là “Đại sứ Anh mang cống vật tới Hoàng đế Trung Quốc.” Ông đã bị đuổi ra cùng với một bức thư gửi tới Vua Anh giải thích rằng không đại sứ nào được phép cư trú ở Bắc Kinh vì “Châu Âu gồm nhiều quốc gia khác ngoài đất nước của ngươi: nếu mỗi và tất cả các quốc gia đó đều yêu cầu có đại diện tại triều đình của ta, làm sao ta có thể chiều lòng họ? Điều này hoàn toàn không thể thực hiện được.” Hoàng đế thấy không cần phải buôn bán ngoài những gì đang được trao đổi ở số lượng có giới hạn, bị quản lý chặt chẽ, vì Anh không có những hàng hóa Trung Quốc cần:
Trị vì thiên hạ rộng lớn, trẫm chỉ có một mục tiêu, đó là duy trì một chế độ hoàn hảo và thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ quốc gia; trẫm không để tâm tới những đồ vật lạ và tốn kém. Nếu trẫm có ra lệnh nhận các cống vật mà ngươi – Vua O. – gửi tới, thì đó cũng là vì nể tình ngươi đã cất công gửi chúng đến từ phương xa... Như đại sứ của ngươi có thể tận mắt thấy, đất nước của trẫm có tất cả mọi thứ.
Sau khi đánh bại Napoleon, thương mại trên đà mở rộng, Anh cố đàm phán một lần nữa bằng cách cử sứ giả thứ hai đến Trung Quốc, mang theo đề xuất tương tự. Sự phô trương sức mạnh hải quân của Anh trong cuộc chiến tranh Napoleon hầu như không tác động gì đến mong muốn của Trung Quốc trong việc thiết lập các quan hệ bang giao. Khi sứ giả William Amherst khước từ nghi lễ khấu đầu, viện lý do quan phục không thuận tiện, phái đoàn của ông đã bị đuổi ra, và bất kỳ nỗ lực nào khác nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc đều bị ngăn cản. Hoàng đế gửi một chiếu thư tới Hoàng tử Regent của Anh, giải thích rằng với địa vị “chúa tể thiên hạ,” Trung Quốc chẳng hề hấn gì khi buộc phải “dạy bảo” mỗi sứ giả xứ man di về nghi lễ đúng đắn. Những sử ký sau đó ghi lại chính thức rằng “vương quốc xa xôi bên kia đại dương thể hiện lòng trung thành và khao khát khai hóa,” nhưng (theo một ấn phẩm truyền giáo của phương Tây hồi thế kỷ 19 đã chuyển ngữ chiếu thư trên như sau):
Từ nay về sau, không một đoàn sứ giả nào phải vượt chặng đường xa xôi như vậy nữa, vì điều đó sẽ chỉ phí công vô ích mà thôi. Nếu các ngươi không thể có lòng phục tùng, các ngươi có thể khỏi cần cử phái đoàn nào tới triều đình vào một số thời điểm nhất định; đó là cách đúng để đối đãi với văn minh. Phụng thiên thừa mệnh Hoàng đế chiếu viết.
Dù những lời phủ dụ như vậy có vẻ kiêu ngạo theo chuẩn mực ngày nay – và cực kỳ xúc phạm đối với một đất nước vừa mới duy trì trạng thái cân bằng ở châu Âu và có thể tự coi là cường quốc tiên tiến nhất về hải quân, kinh tế, và công nghiệp của châu Âu – nhưng thực tế Hoàng đế Trung Quốc đơn giản chỉ thể hiện đúng với cái nhìn của ông ta về vị thế của mình trong thiên hạ, một quan niệm đã tồn tại hàng ngàn năm được nhiều dân tộc láng giềng phải thuận theo.
Cảm thấy bị sỉ nhục, các cường quốc phương Tây cuối cùng đã đưa vấn đề thương mại tự do tới bước ngoặt quan trọng là bán cả sản phẩm gây hại nhất, nhất quyết yêu cầu việc nhập khẩu không giới hạn – từ mọi loại hoa quả phương Tây – cho tới thuốc phiện. Cuối triều nhà Thanh, Trung Quốc đã bỏ bê việc đầu tư cho quân sự, một phần vì đất nước này từ lâu đã không bị đe dọa xâm lược, nhưng chủ yếu do quân đội giữ vị trí khá thấp trong hệ thống tôn ti cấp bậc xã hội Nho giáo của Trung Quốc, được thể hiện trong câu nói: “Sắt tốt không dùng làm đinh. Người tốt không làm lính.” Ngay cả khi bị lực lượng phương Tây tấn công, năm 1893, nhà Thanh vẫn dùng phần lớn tiền từ các quỹ quân sự để khôi phục chiếc thuyền cẩm thạch lộng lẫy của hoàng tộc ở Di Hòa Viên[129].
Năm 1842, đối mặt với áp lực quân sự, Trung Quốc ký các hiệp ước chấp thuận các yêu cầu của phương Tây. Nhưng nước này vẫn không từ bỏ ý niệm quốc gia mình là độc nhất và đã chiến đấu phòng thủ ngoan cường. Sau khi giành được chiến thắng quyết định trong cuộc chiến 1856-1858 (chống lại hành động sung công phi lý một con tàu quốc tịch Anh ở Quảng Châu), Anh nhất quyết yêu cầu một hiệp ước đòi quyền lợi mà nước này từ lâu đã tìm kiếm, đó là cử một đại sứ thường trú ở Bắc Kinh. Một năm sau đó, khi đến Trung Quốc nhậm chức cùng với một đoàn tùy tùng hùng hậu, vị sứ giả Anh gặp cảnh các tuyến đường sông chính dẫn đến thủ đô đều bị dây xích và hàng rào nhọn chặn đứng. Khi ông ra lệnh cho thủy quân lục chiến Anh dọn dẹp các chướng ngại vật, binh lính Trung Quốc đã nổ súng; 519 lính Anh thiệt mạng và 456 người khác bị thương trong trận chiến nổ ra sau đó. Anh sau đó đã phái một lực lượng quân sự dưới sự chỉ huy của Bá tước Elgin tấn công thẳng tới Bắc Kinh và thiêu rụi Di Hòa Viên, triều đình nhà Thanh bỏ chạy. Hành động can thiệp quân sự tàn bạo này đã buộc triều đình đương trị vì miễn cưỡng chấp thuận một “tòa công sứ” để các đại diện ngoại giao ở đó. Trung Quốc miễn cưỡng và phẫn uất khi phải chịu khuất phục trước khái niệm ngoại giao đối ứng trong hệ thống các quốc gia có chủ quyền theo Hòa ước Westphalia.
Tâm điểm của những tranh chấp này là một câu hỏi lớn hơn: liệu bản thân Trung Quốc là một trật tự thế giới, hay nước này chỉ đơn thuần là một quốc gia, giống như các quốc gia khác, là một phần trong hệ thống quốc tế rộng lớn hơn? Trung Quốc vẫn níu giữ quan niệm truyền thống của mình. Cho tới năm 1863, sau hai thất bại quân sự trước các cường quốc “man di” và một cuộc nổi dậy quy mô lớn ở trong nước (cuộc khởi nghĩa Thái bình Thiên quốc[130]) chỉ bị dập tắt khi huy động thêm quân đội nước ngoài, Hoàng đế Trung Quốc gửi một lá thư tới Abraham Lincoln, trấn an ông về thiện ý của Trung Quốc: “Với lòng tôn kính của mình, trẫm nhận từ Trời sứ mệnh trị vì thiên hạ, trẫm coi cả đế quốc trung tâm thế giới [Trung Quốc] và các quốc gia bên ngoài như một gia đình, không có bất kỳ sự phân biệt nào.”
Năm 1872, nhà Hán học xuất chúng người Scotland – James Legge diễn đạt rõ ràng vấn đề trên và với đặc điểm của thời đại mình, niềm tin vào tính ưu việt rõ ràng của khái niệm trật tự thế giới ở phương Tây:
Trong 40 năm qua, vị thế [của Trung Quốc] trong tương quan với các quốc gia tiên tiến hơn trên thế giới đã hoàn toàn thay đổi. Nước này đã tham gia vào các hiệp ước dựa trên những điều khoản bình đẳng; nhưng tôi không nghĩ rằng các quan lại và người dân quốc gia này đã nhìn thẳng vào sự thật đó, để có thể nhận ra thực tế rằng Trung Quốc chỉ là một trong nhiều quốc gia độc lập trên thế giới, và rằng “thiên hạ,” nơi hoàng đế nước này trị vì, không phải là toàn bộ thiên hạ, mà chỉ là một khu vực xác định trên bề mặt Trái Đất và có thể được chỉ ra trên bản đồ.
Với công nghệ và thương mại thúc đẩy các hệ thống đối lập tiến lại gần nhau, những chuẩn mực trật tự thế giới nào sẽ thắng thế?
Ở châu Âu, hệ thống theo Hòa ước Westphalia là kết quả hiển nhiên sau khi rất nhiều quốc gia giành được độc lập thực tế sau cuộc Chiến tranh Ba mươi năm. Châu Á bước vào kỷ nguyên hiện đại mà không hề có bộ máy tổ chức quốc gia và quốc tế riêng biệt. Trên lục địa này có một vài trung tâm văn minh được bao quanh bởi các vương quốc nhỏ hơn, cùng với các cơ chế tương tác tinh tế và thường xuyên thay đổi giữa chúng.
Sự màu mỡ của các vùng đồng bằng Trung Quốc và một nền văn hóa kiên cường hiếm có, cùng với sự nhạy cảm về chính trị đã cho phép Trung Quốc luôn thống nhất trong hơn hai thiên niên kỷ và gây ra ảnh hưởng đáng kể về văn hóa, kinh tế, và chính trị, ngay cả khi nước này suy yếu về mặt quân sự chiếu theo tiêu chuẩn thông thường. Lợi thế của quốc gia này là sự thịnh vượng của nền kinh tế, sản xuất ra những hàng hóa mà tất cả các nước láng giềng đều mong muốn. Được định hình bởi những yếu tố này, quan niệm của Trung Quốc về trật tự thế giới khác biệt rõ rệt với quan niệm của châu Âu dựa trên nhiều quốc gia bình đẳng.
Những biến cố của xung đột giữa Trung Quốc với các nước phát triển phương Tây và Nhật Bản là ảnh hưởng to lớn của những cường quốc ôm mộng bành trướng, đối với một nền văn minh mà ban đầu coi vị thế quốc gia độc lập hiện đại như một sự hạ thấp phẩm giá. Việc Trung Quốc “vươn lên” thành cường quốc hàng đầu trong thế kỷ 21 không hề mới mà chỉ là sự tái lập những khuôn mẫu lịch sử cũ. Điều khác biệt là Trung Quốc đã trở lại, vừa kế thừa một nền văn minh cổ xưa và vừa là một cường quốc đương đại theo mô hình Hòa ước Westphalia. Nước này kết hợp các di sản của “thiên hạ” với hiện đại hóa kỹ thuật trị quốc, và nhiệm vụ của nó trong thế kỷ 21 đầy biến động bất thường này là làm sao hài hòa được cả hai thái cực đó.
TRUNG QUỐC VÀ TRẬT TỰ THẾ GIỚI
Năm 1911, triều đại phong kiến Trung Quốc sụp đổ, nền móng của một nước cộng hòa Trung Quốc dưới thời Tôn Dật Tiên năm 1912 đã để lại cho Trung Quốc một chính quyền trung ương yếu kém và mở ra một thập kỷ loạn sứ quân. Năm 1928, dưới thời Tưởng Giới Thạch, một chính quyền trung ương lớn mạnh hơn đã ra đời và cố gắng tìm cách để Trung Quốc giành được một vị trí trong khái niệm Hòa ước Westphalia về trật tự thế giới và trong hệ thống kinh tế toàn cầu. Nỗ lực để trở thành một Trung Quốc vừa hiện đại vừa truyền thống, quốc gia này cố gắng phù hợp với một hệ thống quốc tế vốn nhiều biến động. Tuy nhiên, từ nửa thế kỷ trước, Nhật Bản đã tiến hành hiện đại hóa, và tại thời điểm đó đã bắt đầu thực hiện giấc mơ bá chủ châu Á. Sau khi chiếm được Mãn Châu vào năm 1931, Nhật Bản tiếp tục xâm lược phần lớn miền Trung và miền Đông Trung Quốc vào năm 1937. Chính phủ Quốc dân Đảng đã không thể củng cố vị thế của mình và phe cộng sản có không gian để tiến hành nổi dậy. Mặc dù là một trong những nước Đồng minh chiến thắng sau Thế chiến II vào năm 1945, Trung Quốc bị chia cắt bởi nội chiến và nổi dậy, thách thức tất cả các mối quan hệ và các di sản của quốc gia này.
Ngày 1 tháng Mười năm 1949, ở Bắc Kinh, Mao Trạch Đông, lãnh đạo Đảng Cộng sản chiến thắng, tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với câu nói “Người dân Trung Quốc đã đứng lên.” Mao xây dựng khẩu hiệu này khi Trung Quốc đang thanh lọc và củng cố chính mình qua học thuyết “cách mạng không ngừng” và tiến hành xóa bỏ những khái niệm lâu đời về trật tự trong nước và quốc tế. Toàn bộ các thể chế hiện tại bị công kích: nền dân chủ phương Tây, lãnh đạo Xô-viết của thế giới cộng sản, và di sản quá khứ của Trung Quốc. Nghệ thuật và các công trình tưởng niệm, các ngày lễ và truyền thống, ngôn ngữ và y phục, đều bị ngăn cấm dưới nhiều hình thức do chúng bị coi là đã khiến cho Trung Quốc bị động, không kịp chuẩn bị khi đối mặt với sự xâm nhập từ nước ngoài. Trong khái niệm của Mao về trật tự – cái mà ông ta gọi là “sự hòa hợp vĩ đại,” vang vọng triết lý Trung Quốc xưa – một Trung Quốc mới sẽ xuất hiện từ sự tàn phá nền văn hóa Khổng giáo truyền thống vốn coi trọng sự hòa hợp. Ông ta tuyên bố mỗi làn sóng nỗ lực cách mạng sẽ là tiền thân cho làn sóng tiếp theo. Mao cho rằng tiến trình cách mạng phải được liên tục thúc đẩy, nếu không các chiến sĩ cách mạng sẽ trở nên tự mãn và lười biếng. “Mất cân bằng là nguyên tắc chung, khách quan,” Mao viết:
Vòng quay từ trạng thái mất cân bằng sang trạng thái cân bằng và sau đó tiếp tục mất cân bằng là vô tận. Tuy nhiên, mỗi chu kỳ lại đưa chúng ta lên một cấp độ phát triển cao hơn. Trạng thái mất cân bằng là thường xuyên và tuyệt đối, còn trạng thái cân bằng chỉ là tạm thời và tương đối.
Cuối cùng, biến động này nhằm tạo ra một Trung Quốc truyền thống: một hình thái chủ nghĩa cộng sản đậm chất Trung Quốc, tạo ra sự khác biệt bởi hình thức quản lý đặc biệt thống trị bằng những thành tựu của nó, cùng với chính quyền cách mạng và duy nhất của Trung Quốc giờ đây một lần nữa thống lĩnh “Thiên hạ.”
Mao xử lý các vấn đề quốc tế dựa trên bản chất độc đáo của Trung Quốc. Dù theo chuẩn mực thế giới, Trung Quốc còn là nước yếu, Mao vẫn nhấn mạnh vai trò trung tâm của nước này thông qua tính ưu việt về tâm lý và ý thức hệ, thể hiện qua việc quốc gia này thách thức thay vì hòa giải một thế giới coi trọng ưu thế sức mạnh quân sự. Năm 1957, khi phát biểu ở Moscow trước hội nghị quốc tế các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản, Mao đã khiến các đại biểu anh em bị sốc, khi nói nếu chiến tranh hạt nhân có xảy ra đi nữa thì một đất nước đông dân với bề dày văn hóa như Trung Quốc vẫn sẽ là người chiến thắng cuối cùng, và thương vong hàng trăm triệu người cũng sẽ không làm Trung Quốc từ bỏ sự nghiệp cách mạng của mình. Đây có thể là cách đánh lừa để làm nản lòng các quốc gia với ưu thế vũ khí hạt nhân vượt trội, nhưng Mao cũng muốn cả thế giới tin rằng ông ta bình thản đón nhận chiến tranh hạt nhân. Tháng Bảy năm 1971, trong chuyến thăm bí mật của tôi tới Bắc Kinh, Chu Ân Lai đã tóm tắt quan niệm về trật tự thế giới của Mao bằng cách viện dẫn tuyên ngôn của vị Chủ tịch nước này về các hoàng đế Trung Quốc với sự xuyên tạc mỉa mai: “Thiên hạ đại loạn, tình thế tuyệt vời.” Từ một thế giới hỗn loạn, nước Cộng hòa nhân dân này được tôi luyện qua nhiều năm đấu tranh cuối cùng sẽ nổi lên giành chiến thắng không chỉ ở Trung Quốc mà còn ở khắp “Thiên hạ.” Trật tự thế giới cộng sản sẽ kết hợp với quan điểm truyền thống của triều đình phong kiến.
Cũng giống như vị vua sáng lập triều đại hùng mạnh đầu tiên ở Trung Quốc (221-207 TCN), Tần Thủy Hoàng, Mao tìm cách thống nhất Trung Quốc đồng thời cố phá bỏ nền văn hóa cổ xưa mà ông ta trách mắng vì đã khiến Trung Quốc yếu đuối và nhục nhã. Ông ta lãnh đạo Trung Quốc theo phong cách của các hoàng đế xa xưa (dù các hoàng đế này có lẽ không kêu gọi biểu tình quần chúng), và kết hợp nó với hoạt động thực tiễn của Lenin và Stalin. Sự lãnh đạo của Mao là hiện thân sự tiến thoái lưỡng nan của cuộc cách mạng. Cách mạng càng nỗ lực mang lại những thay đổi sâu rộng, ông ta càng vấp phải nhiều phản đối không chỉ từ những người đối lập chính trị và lý tưởng mà còn từ sức ì của những điều quen thuộc. Nhà tiên tri cách mạng này từng bất chấp mạng người nhằm thúc đẩy kế hoạch và áp đặt quan điểm của mình. Mao khởi xướng cuộc cách mạng Đại nhảy vọt thảm họa vào năm 1958 nhằm thúc ép công nghiệp hóa nhanh chóng, và cuộc Cách mạng Văn hóa năm 1966 để thanh trừng một nhóm lãnh đạo nhằm ngăn cản sự thể chế hóa của nhóm lãnh đạo này thông qua một chiến dịch ý thức hệ kéo dài một thập kỷ, đày ải một thế hệ thanh niên có học vấn về nông thôn. Hàng chục triệu người đã ra đi trong tiến trình theo đuổi những mục tiêu của Mao, hầu hết bỏ mạng mà không yêu thương hay thù hận, vốn đã được huy động để rút ngắn trong một đời người điều mà từ trước đến nay được coi là cả một tiến trình lịch sử.
Phe cách mạng chiếm ưu thế khi thành tựu của họ được coi là đương nhiên và cái giá phải trả cho những thành tựu đó là không thể tránh khỏi. Một số lãnh đạo đương thời của Trung Quốc phải chịu đựng rất nhiều khổ cực trong suốt thời kỳ Cách mạng Văn hóa, nhưng giờ đây họ nói những khó khăn này đã cho mình sức mạnh và sự tự khám phá bản thân để tôi luyện cho những nhiệm vụ khó khăn là lãnh đạo giai đoạn mới với những biến động lớn. Và quần chúng Trung Quốc, nhất là những người còn quá trẻ chưa từng trực tiếp nếm mùi gian khổ, dường như thừa nhận sự miêu tả Mao chủ yếu như là nhà cách mạng thống nhất đại diện cho niềm kiêu hãnh Trung Quốc. Khía cạnh nào của di sản này sẽ chiếm ưu thế – thách thức xấc xược mà chủ nghĩa Mao đặt ra cho thế giới, hay ý chí kiên quyết thầm lặng có được khi vượt qua những biến động của Mao – sẽ xác định mối quan hệ của Trung Quốc với trật tự thế giới trong thế kỷ 21.
Trong giai đoạn đầu của cuộc Cách mạng Văn hóa, Trung Quốc chỉ có bốn đại sứ trên thế giới và đương đầu với cả hai siêu cường hạt nhân, Mỹ và Liên Xô. Đến cuối những năm 1960, Mao thừa nhận Cách mạng Văn hóa đã làm kiệt quệ thậm chí cả khả năng chịu đựng từng được tôi luyện hàng ngàn năm của người dân Trung Quốc, và sự cô lập của Trung Quốc có lẽ thu hút sự can thiệp từ bên ngoài mà ông đã cố vượt qua bằng sự thách thức và nghiêm khắc về ý thức hệ. Năm 1969, Liên Xô dường như có ý định tấn công Trung Quốc đến mức Mao sơ tán tất cả các bộ về các tỉnh, chỉ để Thủ tướng Chu Ân Lai ở lại Bắc Kinh. Trước cuộc khủng hoảng này, như thường thấy, Mao phản ứng bằng sự bất ngờ đảo ngược chính sách. Ông ta chấm dứt những khía cạnh vô chính phủ nhất của cuộc Cách mạng Văn hóa bằng việc sử dụng các lực lượng vũ trang để đàn áp Hồng vệ binh, những người từng là đội quân xung kích gây kinh hoàng của ông – đưa họ về nông thôn và cưỡng bức lao động cùng với những nạn nhân trước đây của chính họ đang ở đó (trên thực tế). Và ông ta cố đánh bại Liên Xô bằng cách tiến gần tới đối thủ mà mình vẫn công kích từ trước đến nay: Mỹ.
Mao tính toán việc mở cửa với Mỹ sẽ chấm dứt sự cô lập của Trung Quốc và thúc đẩy những nước khác vốn còn chần chừ cân nhắc trong việc thừa nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. (Thú vị thay, khi tôi đang chuẩn bị chuyến đi đầu tiên của mình tới Trung Quốc, một phân tích của Cục Tình báo Trung ương cho rằng căng thẳng Trung Quốc-Liên Xô lớn đến mức sự thiết lập mối quan hệ hữu nghị Mỹ-Trung Quốc là có thể đạt được, nhưng nhiệt tình ý thức hệ của Mao sẽ ngăn cản mối quan hệ này chừng nào ông ta còn sống).
Các cuộc cách mạng dù sâu rộng đến đâu cũng cần được củng cố và cuối cùng chuyển từ thời khắc vui sướng tới những gì là bền vững theo thời gian. Nhiệm vụ lịch sử đó thuộc về Đặng Tiểu Bình. Dù đã hai lần bị Mao thanh trừng, nhưng ông đã trở thành nhà lãnh đạo có ảnh hưởng hai năm sau khi Mao qua đời vào năm 1976. Ông ta nhanh chóng tiến hành cải cách kinh tế và mở cửa đất nước. Theo đuổi điều mà ông ta gọi là “chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc,” ông ta đã giải phóng năng lực tiềm ẩn của người dân Trung Quốc. Trong vòng chưa đầy một thế hệ, Trung Quốc đã vươn lên trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Để thúc đẩy quá trình chuyển biến ngoạn mục này, Trung Quốc dù không mấy tin vẫn gia nhập các tổ chức quốc tế và thừa nhận các nguyên tắc đã được thiết lập từ trước của trật tự thế giới.
Tuy nhiên, việc Trung Quốc tham gia vào các khía cạnh trong cấu trúc Hòa ước Westphalia đã kéo theo mâu thuẫn nảy sinh từ lịch sử khiến quốc gia này gia nhập hệ thống quốc tế các quốc gia có chủ quyền. Trung Quốc không hề quên trước đây đã từng phải tham gia trật tự thế giới hiện nay theo cách hoàn toàn trái ngược với hình ảnh lịch sử của nước này hay (không kém phần quan trọng) với những nguyên tắc được thừa nhận của hệ thống theo Hòa ước Westphalia. Khi được kêu gọi tuân thủ “luật chơi” và “trách nhiệm” của hệ thống quốc tế này, phản ứng bản năng của nhiều người Trung Quốc – bao gồm cả các nhà lãnh đạo cấp cao – bị ảnh hưởng sâu sắc bởi ý nghĩ rằng Trung Quốc đã không được tham gia vào việc thiết lập các quy tắc của hệ thống đó. Họ bị yêu cầu – và đã thận trọng đồng ý – tuân thủ các nguyên tắc mà họ đã không góp phần tạo nên. Nhưng họ kỳ vọng – và sớm hay muộn cũng sẽ hành động dựa trên kỳ vọng này – rằng trật tự quốc tế này sẽ phát triển theo cách cho phép Trung Quốc dần tham gia trọng yếu vào việc đề ra các nguyên tắc quốc tế sau này, thậm chí đến mức có thể thay đổi một số nguyên tắc đang thịnh hành.
Trong khi chờ điều đó xảy ra, Bắc Kinh đã ngày càng chủ động hơn trên trường thế giới. Với sự vươn lên của mình, Trung Quốc nhiều khả năng sẽ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới; quan điểm và sự ủng hộ của quốc gia này luôn được quan tâm trên mọi diễn đàn quốc tế. Trung Quốc đã tham gia vào nhiều khía cạnh uy tín của trật tự phương Tây trong thế kỷ 19 và thế kỷ 20: tổ chức Thế vận hội; phát biểu của chủ tịch nước trước Liên Hợp Quốc; trao đổi các chuyến thăm hữu nghị do lãnh đạo nhà nước và chính phủ dẫn đầu với các nước hàng đầu trên thế giới. Theo bất kỳ tiêu chuẩn nào, Trung Quốc cũng đã giành lại được vị thế ảnh hưởng sâu rộng nhất mà nước này từng được biết đến trong suốt nhiều thế kỷ. Câu hỏi giờ đây là Trung Quốc sẽ tham gia vào quá trình hình thành trật tự thế giới hiện nay như thế nào, đặc biệt là trong quan hệ với Mỹ.
Cả Mỹ và Trung Quốc đều là hai trụ cột không thể thiếu trong trật tự thế giới. Đáng chú ý, cả hai quốc gia này đã từng thể hiện một thái độ lập lờ nước đôi đối với hệ thống quốc tế mà hiện cả hai đang tham gia, khẳng định cam kết của họ với hệ thống này ngay cả khi có những phán đoán dè dặt về nhiều mặt trong cấu trúc của nó. Trung Quốc chưa từng đảm nhận vai trò mà quốc gia này được yêu cầu nắm giữ trong thế kỷ 21, với tư cách là một nước lớn. Mỹ cũng chưa hề có kinh nghiệm tương tác trên cơ sở bền vững với một đất nước có diện tích, phạm vi, và quy mô kinh tế tương đương nhưng lại có một mô hình trật tự trong nước hoàn toàn khác biệt.
Nền tảng văn hóa và chính trị của hai bên đối lập nhau trong nhiều khía cạnh. Cách tiếp cận của Mỹ đối với chính sách là sự thực dụng, trong khi đối với Trung Quốc là dựa trên khái niệm. Mỹ chưa bao giờ có một láng giềng hùng mạnh, đầy đe dọa; Trung Quốc chưa bao giờ không có một kẻ thù hùng mạnh trên biên giới của mình. Người Mỹ cho rằng mọi vấn đề đều có giải pháp; người Trung Quốc nghĩ rằng mỗi giải pháp lại là tấm vé vào chiếc cửa dẫn đến hàng loạt vấn đề mới. Người Mỹ tìm cách giải quyết tình huống trước mắt; người Trung Quốc tập trung vào thay đổi lâu dài. Người Mỹ phác họa một chương trình nghị sự về những vấn đề thực tế “có thể đạt được”; người Trung Quốc đề ra các nguyên tắc chung và phân tích những nguyên tắc đó sẽ dẫn tới đâu. Tư tưởng Trung Quốc được định hình một phần do chủ nghĩa cộng sản nhưng ngày càng tiếp nhận cách nghĩ truyền thống Trung Quốc; cả hai đều xa lạ đối với người Mỹ.
Trong lịch sử mỗi quốc gia, Trung Quốc và Mỹ đều mới chỉ tham gia đầy đủ vào hệ thống quốc tế các quốc gia có chủ quyền trong thời gian gần đây. Trung Quốc tin rằng nước này là duy nhất và chủ yếu bị giới hạn trong thực tế của riêng mình. Mỹ cũng coi mình là duy nhất – nghĩa là, “biệt lệ” – nhưng với một bổn phận đạo đức là thúc đẩy những giá trị của nó trên toàn thế giới vì những lý do vượt xa bên ngoài lợi ích quốc gia. Hai nước lớn với hai nền văn hóa và tiền đề khác nhau đều đang phải trải qua những thay đổi nội tại cơ bản; dù quá trình này biến hai nước trở thành đối thủ hay đối tác thì nó cũng sẽ góp phần quan trọng trong việc định hình triển vọng trật tự thế giới trong thế kỷ 21.
Kể từ khi cách mạng thành công, Trung Quốc đã trải qua năm thế hệ lãnh đạo. Mỗi lãnh đạo trước đó đều đúc kết một tầm nhìn cụ thể của thế hệ mình về những nhu cầu của Trung Quốc. Mao Trạch Đông quyết tâm xóa bỏ các tổ chức đã được thiết lập từ trước, ngay cả những tổ chức do chính ông ta xây dựng trong giai đoạn mới giành thắng lợi, do lo ngại nạn quan liêu sẽ khiến chúng trở nên trì trệ. Đặng Tiểu Bình hiểu rằng Trung Quốc không thể duy trì vai trò lịch sử của mình trừ khi nước này hòa nhập với quốc tế. Phong cách của Đặng tập trung rất rõ ràng: không huênh hoang khiến các nước khác lo ngại, không tuyên bố giữ vai trò lãnh đạo mà mở rộng tầm ảnh hưởng của Trung Quốc thông qua hiện đại hóa xã hội và phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, bắt đầu từ năm 1989, Giang Trạch Dân, người được bổ nhiệm trong thời kỳ diễn ra khủng hoảng Quảng trường Thiên An Môn, khắc phục hậu quả của chính biến này bằng chính sách ngoại giao cá nhân trên trường quốc tế đồng thời mở rộng cơ sở Đảng Cộng sản trong nước. Ông đã đưa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành thành viên đầy đủ trong hệ thống các quốc gia có chủ quyền và thương mại quốc tế. Được Đặng lựa chọn, Hồ Cẩm Đào khéo léo xoa dịu những lo ngại về sức mạnh ngày càng tăng của Trung Quốc và đặt nền tảng cho khái niệm về hình thức quan hệ mới giữa các nước lớn do Tập Cận Bình đề xuất.
Chính quyền Tập Cận Bình đã cố gắng dựa trên những di sản này khi thực hiện một chương trình cải cách sâu rộng ngang với quy mô chương trình của Đặng. Chính quyền này đã đặt kế hoạch cho một hệ thống, trong khi vẫn tránh áp dụng dân chủ nhưng minh bạch hơn, và kết quả được xác định phần nhiều dựa trên các thủ tục pháp lý thay vì khuôn mẫu đã được thiết lập từ lâu của các mối quan hệ cá nhân và dòng họ. Nó cũng tuyên bố thách thức nhiều thiết chế và thông lệ đã được thiết lập từ trước – doanh nghiệp nhà nước, lợi ích nhóm của quan chức địa phương và nạn tham nhũng quy mô lớn – theo một cách thức kết hợp sự viễn kiến với quyết tâm cao, nhưng chắc chắn đi cùng với chuỗi sự kiện này là một giai đoạn thay đổi liên tục và đầy biến động.
Thành phần bộ máy lãnh đạo của Trung Quốc phản ánh tiến trình Trung Quốc tham gia vào – và thậm chí định hình – các vấn đề toàn cầu. Năm 1982, không một thành viên nào của Bộ Chính trị có bằng đại học. Tại thời điểm cuốn sách này được viết, gần như tất cả họ đều đã tốt nghiệp đại học và một số lượng đáng kể lãnh đạo có bằng cấp cao. Một tấm bằng đại học ở Trung Quốc được giảng dạy theo giáo trình phương Tây, chứ không phải tàn dư của hệ thống phong kiến cũ (hay chương trình giảng dạy của Đảng sau này – áp đặt hình thức giáo dục lẫn nhau giữa những người cộng sản). Điều này thể hiện sự đoạn tuyệt rõ ràng với quá khứ của Trung Quốc, khi người dân Trung Quốc tỏ ra mãnh liệt, tự hào nhưng thiển cận trong quan niệm về thế giới bên ngoài. Các nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc chịu ảnh hưởng bởi những hiểu biết của họ về lịch sử Trung Quốc nhưng không hề bị bó buộc trong đó.
VIỄN CẢNH DÀI HẠN
Những căng thẳng tiềm tàng giữa một cường quốc lâu đời và một cường quốc đang lên không hề mới. Chắc chắn, cường quốc đang lên sẽ ảnh hưởng tới một số lĩnh vực từ trước đến nay vẫn được coi là độc quyền của cường quốc lâu đời. Tương tự như vậy, cường quốc đang lên cũng nghi ngại đối thủ của mình có thể tìm cách ngăn chặn sự phát triển của nó trước khi quá muộn. Một nghiên cứu của Trường Đại học Harvard đã chỉ ra: trong 15 trường hợp xung đột giữa một cường quốc đang lên và một cường quốc lâu đời từng nảy sinh trong lịch sử, 10 trường hợp kết thúc bằng chiến tranh.
Do vậy, không có gì ngạc nhiên khi các nhà chiến lược quan trọng ở cả hai bên viện dẫn các khuôn mẫu hành vi và kinh nghiệm lịch sử để dự đoán về tính tất yếu của một cuộc xung đột giữa hai nước này. Về phía Trung Quốc, nhiều hành động của Mỹ được hiểu như là một thiết kế nhằm ngăn chặn sự vươn lên của Trung Quốc, và việc Mỹ thúc đẩy nhân quyền được xem là kế hoạch để phá hoại ngầm cấu trúc chính trị trong nước của Trung Quốc. Một vài nhân vật quan trọng miêu tả cái gọi là chính sách xoay trục của Mỹ như là một nguyên mẫu đầu tiên của cuộc chiến cuối cùng được thiết kế để kìm giữ Trung Quốc mãi ở vị trí thứ hai, một thái độ rất đáng chú ý, vì khi cuốn sách này được viết Mỹ chưa hề có bất kỳ sự tái bố trí quân sự lớn nào.
Về phía Mỹ, mối lo ngại là một Trung Quốc đang lớn mạnh sẽ phá hoại có hệ thống thế ưu việt của Mỹ và sau đó là an ninh của nước này. Những nhóm quan trọng cho rằng cũng tương tự như Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, Trung Quốc quyết tâm đạt được vị thế thống trị cả về quân đội lẫn kinh tế ở mọi khu vực xung quanh, và (do đó) cuối cùng sẽ nắm quyền bá chủ.
Những nghi ngại của cả hai bên được củng cố thêm qua những đợt diễn tập quân sự và các chương trình quốc phòng của nước kia. Ngay cả khi chúng “bình thường” – nghĩa là, bao gồm các biện pháp một nước sẽ tiến hành hợp lý khi bảo vệ lợi ích quốc gia như cách hiểu thông thường – chúng cũng được diễn giải theo khía cạnh các kịch bản xấu nhất. Mỗi bên đều có trách nhiệm phải cẩn thận không để những đợt triển khai quân sự và hành vi đơn phương leo thang thành một cuộc chạy đua vũ trang.
Hai bên cần tiếp thu kinh nghiệm lịch sử trong thập kỷ trước Thế chiến I, khi bầu không khí nghi ngại và đối đầu tiềm ẩn leo thang thành một thảm họa. Các nhà lãnh đạo châu Âu bị mắc kẹt trong kế hoạch quân sự của chính mình và bất lực trong việc tách biệt chiến thuật và chiến lược.
Hai vấn đề khác cũng đang góp phần làm gia tăng căng thẳng trong quan hệ Trung-Mỹ. Trung Quốc bác bỏ đề xuất rằng trật tự quốc tế được thúc đẩy dựa trên việc truyền bá nền dân chủ tự do, và cộng đồng quốc tế có nghĩa vụ thực thi sự truyền bá này và nhất là dựa vào hành động quốc tế để đạt được nhận thức (chung) về nhân quyền. Mỹ có thể có khả năng điều chỉnh việc áp dụng các quan điểm của mình về nhân quyền liên quan đến các ưu tiên chiến lược. Nhưng xét về khía cạnh lịch sử và niềm tin của người dân, Mỹ không bao giờ có thể hoàn toàn từ bỏ những nguyên tắc này. Về phía Trung Quốc, quan điểm thống trị của tầng lớp tinh hoa về vấn đề này được Đặng Tiểu Bình nêu rõ:
Trên thực tế, chủ quyền quốc gia quan trọng hơn nhân quyền, nhưng Nhóm G7 (hoặc G8) thường xuyên xâm phạm chủ quyền của những nước nghèo, yếu thuộc Thế giới thứ Ba. Những thảo luận của họ về nhân quyền, tự do, và dân chủ được đưa ra chỉ để bảo vệ lợi ích của các nước giàu mạnh, những nước tận dụng sức mạnh của mình để trấn áp các nước yếu, theo đuổi quyền bá chủ và thực hiện quyền lực chính trị.
Không thể có một thỏa hiệp chính thức giữa hai quan điểm này; và trách nhiệm chính của các nhà lãnh đạo hai bên là giữ sao cho bất đồng này không biến thành xung đột.
Vấn đề thời sự hơn liên quan đến Bắc Triều Tiên đúng như câu cách ngôn từ thế kỷ 19 của Bismarck: “Chúng ta đang sống trong một thời đại tuyệt vời, ở đó kẻ mạnh trở nên yếu do quá thận trọng và kẻ yếu trở nên mạnh hơn vì sự táo bạo của mình.” Bắc Triều Tiên không bị cai trị bởi một nguyên tắc chính danh được chấp nhận nào, kể cả nguyên tắc cộng sản mà nước này tuyên bố. Thành tựu chủ yếu của quốc gia này là chế tạo một số thiết bị vũ khí hạt nhân. Bắc Triều Tiên không có năng lực quân sự để tiến hành một cuộc chiến tranh với Mỹ. Nhưng sự tồn tại của những vũ khí này có ảnh hưởng chính trị hơn là lợi ích quân sự. Chúng khuyến khích Nhật Bản và Hàn Quốc xây dựng năng lực quân sự hạt nhân. Chúng khiến Bình Nhưỡng vững tâm chấp nhận rủi ro không tương xứng với năng lực của mình, làm gia tăng nguy cơ một cuộc chiến tranh mới trên Bán đảo Triều Tiên.
Với Trung Quốc, Bắc Triều Tiên là hiện thân của những di sản phức tạp. Trong mắt nhiều người Trung Quốc, Chiến tranh Triều Tiên không chỉ là biểu tượng cho quyết tâm chấm dứt “thế kỷ bị sỉ nhục” và “đứng lên” trên vũ đài thế giới của nước này mà còn là một lời cảnh cáo về việc tham gia vào những cuộc chiến mà Trung Quốc không kiểm soát được nguồn gốc của chúng và những tác động của chúng có thể dẫn đến những hậu quả lâu dài nghiêm trọng không lường trước được. Đây là lý do vì sao trong Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Trung Quốc và Mỹ đều chung quan điểm yêu cầu Bắc Triều Tiên từ bỏ – chứ không phải cắt giảm – chương trình hạt nhân.
Đối với chính quyền Bình Nhưỡng, từ bỏ vũ khí hạt nhân có thể dẫn đến sự tan rã chính trị. Nhưng từ bỏ chính là điều mà Mỹ và Trung Quốc đã công khai yêu cầu trong các nghị quyết của Liên Hợp Quốc mà hai quốc gia này thúc đẩy. Hai nước cần phối hợp chính sách để phòng trường hợp bất ngờ khi những mục tiêu đã đề ra của họ được hiện thực hóa. Liệu có thể kết hợp các mối quan tâm và mục tiêu của hai bên trong vấn đề Triều Tiên? Liệu Trung Quốc và Mỹ có thể tìm ra một chiến lược hợp tác vì một Triều Tiên thống nhất, không vũ khí hạt nhân, đồng thời để các bên an toàn hơn và tự do hơn? Đây sẽ là một bước tiến lớn tới “hình thức mới trong quan hệ giữa các cường quốc lớn” thường được nhắc đến nhưng hình thành rất chậm.
Những nhà lãnh đạo mới của Trung Quốc nhận ra khó có thể đoán được phản ứng của người dân Trung Quốc đối với chương trình nghị sự lớn mà họ đề ra; họ đang giương buồm vào vùng nước chưa được vẽ hải đồ. Họ không thể mong muốn tìm kiếm những cuộc phiêu lưu bên ngoài, nhưng họ sẽ chống lại những hành động xâm phạm đến những gì họ coi là lợi ích cốt lõi của mình, có lẽ mạnh mẽ hơn nhiều so với những người tiền nhiệm, chính xác do họ cảm thấy buộc phải giải thích những điều chỉnh không thể tách rời khỏi cải cách bằng một sự nhấn mạnh đầy đủ lý lẽ về lợi ích quốc gia. Bất kỳ trật tự quốc tế nào có cả Mỹ và Trung Quốc đều cần có một sự cân bằng quyền lực, nhưng việc quản lý truyền thống sự cân bằng này cần được giảm nhẹ bằng sự thống nhất về tiêu chuẩn, và phải được củng cố bằng các yếu tố của sự hợp tác.
Các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Mỹ đã công khai nhìn nhận lợi ích chung của hai nước trong tiến trình hướng tới một kết quả mang tính xây dựng. Hai tổng thống Mỹ (Barack Obama và George W. Bush) đã thỏa thuận với hai người đồng nhiệm Trung Quốc (Tập Cận Bình và Hồ Cẩm Đào) để thiết lập một quan hệ đối tác chiến lược ở khu vực Thái Bình Dương, đây là cách để duy trì một sự cân bằng quyền lực đồng thời giảm thiểu đe dọa quân sự vốn có trong sự cân bằng này. Cho đến nay các tuyên bố hầu như vẫn chưa có những bước đi cụ thể tương xứng theo hướng đã thỏa thuận.
Không thể đạt được quan hệ đối tác chỉ bằng tuyên bố. Không thỏa thuận nào có thể đảm bảo chắc chắn vị thế quốc tế cụ thể cho Mỹ. Nếu Mỹ dần bị coi là cường quốc đang suy yếu – do lựa chọn chứ không phải do vận mệnh – thì sau một thời kỳ hỗn loạn và biến động, Trung Quốc và các nước khác sẽ kế tiếp phần lớn vị thế lãnh đạo thế giới mà Mỹ đã nắm giữ trong hầu hết giai đoạn sau Thế chiến II.
Nhiều người Trung Quốc có lẽ coi Mỹ như một siêu cường đã qua thời hoàng kim. Tuy nhiên, trong số các lãnh đạo Trung Quốc cũng có sự thừa nhận rằng Mỹ sẽ vẫn duy trì năng lực lãnh đạo đáng kể trong tương lai gần. Bản chất của việc hình thành một trật tự thế giới mang tính xây dựng là không một quốc gia đơn lẻ nào, dù là Trung Quốc hay Mỹ, ở vị trí giữ vai trò lãnh đạo thế giới như cách Mỹ từng nắm giữ trong thời kỳ ngay sau Chiến tranh Lạnh, khi Mĩ có ưu thế cả về vật chất lẫn tinh thần.
Ở Đông Á, Mỹ không phải nước tạo thế cân bằng mà là một phần trong sự cân bằng đó. Các chương trước đã chỉ ra tính chất bất ổn của sự cân bằng khi chỉ có ít nước tham gia, và việc thay đổi lòng trung thành có thể trở thành nhân tố mang tính quyết định. Một phương cách tiếp cận thuần túy về mặt quân sự đối với sự cân bằng ở Đông Á có thể dẫn đến những mối liên kết, thậm chí căng thẳng hơn so với những mối liên kết dẫn đến Thế chiến I.
Ở Đông Á, một điều gì đó gần như một sự cân bằng quyền lực tồn tại giữa Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, và Mỹ, với các nước tham gia ở vòng ngoài là Nga và Việt Nam. Nhưng nó khác với những cân bằng quyền lực trước đây trong lịch sử ở chỗ một trong những nước tham gia chính là Mỹ lại có trọng tâm (hành động) cách xa trung tâm địa lý Đông Á, và quan trọng nhất là do các nhà lãnh đạo của cả hai bên vẫn công bố hướng đến quan hệ đối tác trong các vấn đề chính trị và kinh tế, dù lực lượng quân sự hai bên vẫn coi nhau là đối thủ trên báo chí lẫn tuyên bố quân sự. Vì vậy, tình hình xoay chuyển, Mỹ thành đồng minh của Nhật Bản và một đối tác được tuyên bố chính thức của Trung Quốc, một tình huống tương tự với tình huống của Bismarck khi ông ta thực hiện một liên minh với Áo và được cân bằng bởi một hiệp ước với Nga. Nghịch lý thay, chính sự không rõ ràng này đã duy trì tính linh hoạt của trạng thái cân bằng ở châu Âu. Và việc từ bỏ sự không rõ ràng đó – dưới danh nghĩa minh bạch – đã khởi nguồn một loạt những cuộc đối đầu ngày càng căng thẳng, mà đỉnh cao là Thế chiến I.
Trong hơn một thế kỷ, kể từ chính sách Mở cửa và vai trò trung gian hòa giải của Theodore Roosevelt trong Chiến tranh Nga-Nhật được mở ra, Mỹ đã áp dụng chính sách nhất quán: ngăn chặn bá quyền ở châu Á. Trong điều kiện hiện nay, một chính sách quen thuộc ở Trung Quốc là giữ cho các lực lượng đối địch càng xa biên giới nước mình càng tốt. Hai nước (Mỹ và Trung Quốc) đang dò đường trong chính sách đó. Việc duy trì hòa bình phụ thuộc vào sự thận trọng trong quá trình theo đuổi các mục tiêu của hai quốc gia này và khả năng đảm bảo cạnh tranh chỉ mang tính chính trị và ngoại giao.
Trong Chiến tranh Lạnh, những lằn ranh phân cách do lực lượng quân sự xác định. Trong giai đoạn hiện nay, những lằn ranh này không nên được xác định chủ yếu qua triển khai quân sự. Nhân tố quân sự không nên được coi là định nghĩa duy nhất hay thậm chí chủ chốt của trạng thái cân bằng. Nghịch lý ở chỗ, các khái niệm quan hệ đối tác cần phải trở thành những yếu tố của sự cân bằng quyền lực hiện đại, đặc biệt là ở châu Á – một phương cách tiếp cận mà nếu được thực hiện như một nguyên tắc tổng quát sẽ không chỉ mới mẻ (chưa từng có tiền lệ) mà còn vô cùng quan trọng. Sự kết hợp giữa chiến lược cân bằng quyền lực và chính sách ngoại giao đối tác sẽ không thể loại bỏ tất cả các khía cạnh đối địch, nhưng có thể giảm thiểu tác động của chúng. Trên hết, sự kết hợp này có thể mang lại cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Mỹ những kinh nghiệm trong mối hợp tác mang tính xây dựng và chuyển tải tới hai nước cách thức xây dựng quan hệ hữu nghị hướng tới một tương lai hòa bình hơn.
Trật tự luôn đòi hỏi một sự cân bằng tinh tế về sự kiềm chế, vũ lực, và tính chính danh. Ở châu Á, trật tự phải là sự kết hợp giữa cân bằng quyền lực và khái niệm đối tác. Một định nghĩa cân bằng thuần túy về mặt quân sự sẽ dẫn tới đối đầu. Phương cách tiếp cận tới quan hệ đối tác thuần túy về mặt tâm lý sẽ làm tăng những nỗi lo sợ về bá quyền. Một nhà lãnh đạo sáng suốt phải cố tìm ra sự cân bằng đó. Vì bên ngoài trạng thái cân bằng đó, tai họa luôn rình rập.