Uống rượu với Tản Đà - Phần 4. Ðời đáng chán hay không đáng chán?

Ðời đáng chán hay không đáng chán?

Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm…

Ai là bạn tri âm của con người tài hoa ấy? Nàng Chu Kiều Oanh trong Giấc mộng con hay kỹ nữ Vân Anh trong Thề non nước?

Không!

Bạn tri âm của thi sĩ Tản Ðà chính là nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu.

Ðời đáng chán biết thôi là đủ

Sự chán đời xin nhủ lại tri âm

Nên chăng? Nghĩ lại kẻo nhầm.

“Nên chăng?” Thi sĩ trả lời: Nên!; nhà nho trả lời: Không! Nhà nho đã thắng. Thắng rất dễ dàng vì thi sĩ, ngoài một vài phút quá chán chường, cũng phản đối tư tưởng chán đời. Thi sĩ là một người épicurien.

Có điều khác là thi sĩ yêu đời để chơi và hưởng thụ khoái lạc; còn nhà nho yêu đời để phụng sự đạo thánh hiền. Trong mỗi nho sĩ đều có một hoài bão kinh bang tế thế. Trong đầu óc nho sĩ Nguyễn Khắc Hiếu thì cái cái mộng Y Doãn, Chu Công lại càng quả quyết lắm.

“Khoảng năm mười một mười hai tuổi, học ông anh ở nhà, có câu đối ra rằng: Nhiếp hồ đại quốc chi gian

đối: Ngật như cự nhân chi chí.” [14]

Cậu học trò mười một, mười hai tuổi mà khẩu khí đã hùng thế, tất phải dùng cuộc đời vào việc đẩy xe Khổng Khâu đi hành đạo. Chẳng may đã không được mặc áo xanh, lại để mất người hồng phấn, cậu học trò nho ấy đành xếp mộng Y, Chu một nơi, trốn vào ấp Cổ Ðằng làm anh chàng yếm thế.

Chợt đến “sang đầu năm Duy Tân thứ mười, ông anh tạ thế, đến tháng năm năm ấy một người cháu ruột lại từ trần; cái cảnh bi thương trong gia đình hợp với cái cảnh ngộ bần hàn của thân thế, khiến cho kẻ chán đời chẳng được thời lại phải tuỳ thời tuỳ thế mà sinh nhai lối dọc đường ngang”[15].

Ðời thực tại đánh tan cái váng chán đời trong tâm hồn nho sĩ và để lộ hẳn ra cái bản chất thực nghiệm di truyền của cậu ấm nhà họ Nguyễn. Sinh nhai lối dọc đường ngang, thi sĩ phải mang thơ văn làm hàng buôn bán.

“Hai phen diễn kịch ở Hà Nội, Hải Phòng, cùng là các thứ sách, truyện Khối tình con, Giấc mộng con, Khối tình chính, phụ, Ðài gương kinh truyện, Lên sáu, Lên tám đều là những công việc làm ăn trong khoảng mấy năm nay vậy.”

Hoàn cảnh gia đình đã khôi phục tinh thần thực nghiệm trong tâm trí chàng thư sinh nghèo nàn ấy. Phải lăn mình vào cuộc sống để thoả mãn những nhu cầu vật chất của gia đình, chàng không còn thời giờ mà thở than, buồn rầu, mơ mộng nữa. Muốn tranh sống phải thiết thực. Lãng mạn là thất bại. Luật chiến đấu này đã kích thích chàng rất mạnh. Bao nhiêu tính chất thực nghiệm của di truyền, phút chốc chồm dậy đòi quyền giám đốc bấy lâu nay bị Nàng Thơ chiếm đoạt.

Người thanh niên nho sĩ của chúng ta vội đi tìm những món ăn tinh thần mới để đủ sức tự ứng dụng vào hoàn cảnh mới. Chàng tìm đến nhà kinh tế học Anh Cát Lợi Stuart Mill, một tín đồ hăng hái của chủ nghĩa thực dụng (utilitarisme).

“Trong các thứ sách dịch, có một quyển đáng nhớ hơn hết là quyển Quyền giới luận. Quyển sách này nguyên là của người nước Anh là Stuart Mill làm ra, người Tàu là Nghiêm Phục đứng dịch. Xem sách thời tự thấy có ích cho mình về tinh thần tiến thủ.”

Ở Tản Ðà, nhà nho thực nghiệm đã thắng thi sĩ lãng mạn. Sự chán đời trở thành vô nghĩa lý.

Dần dần, trong công việc làm ăn của nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu phôi thai một hoài bão vốn đã có hạt giống từ lâu, - cái mộng làm Chu Công, Y Doãn. Nho sĩ muốn giúp ích cho xã hội. Tinh thần thực nghiệm nhuộm màu hiền triết.

Thiên Tào tra sổ xét vừa xong

Ðệ sổ lên trình Thượng Ðế trông:

“Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu

Ðầy xuống hạ giới về tội ngông”

Trời rằng: “Không phải là Trời đầy

Trời định sai con một việc này

Là việc thiên lương của nhân loại

Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

Nho sĩ đeo lên vai một sứ mệnh. Nhìn quanh ngó quẩn thấy thiên hạ bộn bề, mặt đất thênh thang không bờ bến, chàng lo ngại cho công việc thi hành sứ mệnh của mình. Chàng vội thu hẹp phạm vi hoạt động vào một cõi. Nhân loại thu hẹp trong biên giới quốc gia. Lòng yêu đời biến thành lòng yêu nước.

“Vào chơi đất Trung Kỳ… rộng mắt nhân dân, sơn hải mà nặng lòng chủng tộc giang sơn. Trèo lên đỉnh núi Hoành Sơn mà trông quanh ngoài bể trong non có hơn như phục dưới đèo xanh đọc một thiên luận thuyết tự tôn vậy. ”

Kết quả của những tư tưởng, tâm trạng ấy là một ly dị triệt để giữa nhà nho và thi sĩ trong linh hồn Tản Ðà. Từ đấy về sau, mười mấy năm trời, lúc ta nghe người thanh niên bồng bột ấy diễn thuyết ở hội Trí Tri, lúc ta gặp chàng đứng làm chủ bút tap chí Hữu thanh, lúc ta thấy chàng chủ trương An Nam tạp chí, lúc ta đọc văn chàng trên tờ Ðông Pháp thời báo ở Sài Gòn… Trên vũ đài bút mực, chàng gắng công hoạt động với tất cả tài năng nghị lực của mình. Và chàng sung sướng thấy nguyện vọng được một đôi phần thực hiện.

Tôi viết “một đôi phần”. Tôi nghĩ đến mấy bản dịch thuật Ðại học, Kinh Thi, Ðài gương truyện. Thực ra, trong công cuộc xuất bản sách và báo, nhà nho Nguyễn Khắc Hiếu chỉ gặp toàn thất bại. Từ Bắc vào Nam, rồi lại từ Nam ra Bắc, mấy phen lận đận với nghề cầm bút, nho sĩ tự thấy nhiều điều kiện tinh thần để thành công. Trong thế kỷ có những quy tắc gang thép này, muốn thắng, phải nhanh nhẹn, căn cơ, gian hùng, độc ác, tàn nhẫn. Tóm lại phải có đủ đức tính của một người hoạt động, đủ mưu mô mềm cứng của một kẻ kinh doanh. Nho sĩ của chúng ta thiếu tất cả những điều kiện đó nên thất bại. Chàng có phải là một nhà kinh doanh đâu! Chàng chỉ là một khách tài hoa lạc vào địa hạt thương trường. Chàng cũng chẳng phải là một người hoạt động. Chàng chỉ là một kẻ giang hồ hăm hở ghé bến Y, Chu ít lâu rồi lại xuống tàu, nhổ neo sống nốt kiếp bình bồng.

Nhận lấy sứ mệnh làm sáng thiên lương, nho sĩ Tản Ðà đã làm một việc trên sức mình. Ðó chỉ là ảo mộng của nhà nho. Gặp những lực lượng tàn phá của đời thực tại, ảo mộng ấy vỡ tan như bóng xà phòng trước gió. Sự tan vỡ này ném nho sĩ Tản Ðà từ bên kinh doanh, hoạt động sang trả lại thi ca. Nhưng lần này, thi sĩ réo rắt tiếng cầm với một cung điệu khác. Cung điệu ngông cuồng của một người bất đắc chí. Trong cái ngông này hàm súc một buồn não thê thảm - cái buồn của những chiều tàn.

Công danh sự nghiệp mặc đời

Bên thời be rượu bên thời bài thơ

Ngông và mộng ở Tản Ðà có hai thứ ngông: cái ngông của nhà nho và cái ngông của thi sĩ. Một cái dùng làm phương châm sinh hoạt, một cái dùng làm đề hứng thơ ca. Một cái ứng dụng vào đời, một cái ứng dụng vào mộng. Hai cái giảng nghĩa lẫn nhau, liên kết với nhau, in vào thơ Tản Ðà một sắc thái đặc biệt.

Trước hết Tản Ðà tiên sinh là một nhà nho. Nhà nho di truyền, vì giáo dục, vì hoàn cảnh gia đình. Nhưng tiên sinh là một nhà nho bất đắc chí, thất bại trong cuộc sống. “Mỗi phen ra đời lại một phen thất bại; mỗi một phen thất bại, đầu tóc lại bạc thêm” [16]. Tiên sinh thất bại vì thiếu tất cả điều kiện để thành công. Hơn nữa, tiên sinh có tất cả điều kiện để làm hỏng việc. Tiên sinh đem tài hoa vào doanh nghiệp. Nhưng bởi quá giàu tự ái, tiên sinh vẫn tin rằng mình có tài, chỉ vì không gặp hoàn cảnh thuận tiện nên thất bại. Cái tin ấy là đầu mối của cái ngông. Người ngông, ít nhất, phải tự thấy mình cao hơn đời, giỏi hơn đời. Ngông chỉ là một biến thể của kiêu ngạo. Ngông để mà khinh. Cái ngông này ta đã thấy ở các nhà nho bất đắc chí như Cao Bá Quát, Tú Xương…

Tản Ðà tiên sinh cũng thuộc về loại nho sĩ ấy. Ở con mắt tiên sinh tất cả đều tầm thường. Tiền tài danh vọng đều vô giá trị. Những cái gì người đời ưa chuộng, tiên sinh khinh. Tiên sinh có phải là người đời đâu. Tiên sinh là một trích tiên! Suốt đời, tiên sinh chỉ khao khát có hai điều: gặp tri kỷ và gặp giai nhân.

Tri kỷ không gặp, tiên sinh đành nói chuyện với bóng, với ảnh, với… trời.

Ngồi đây ta nói sự đời

Ta ngồi ta nói, Bóng ngồi bóng nghe

Cõi đời từ cất tiếng ve

Ðã bên ngọn lửa lập loè có nhau

Tương tri từ ấy về sau

Ðôi ta một bước cùng nhau chẳng dời

Bóng nghe bóng cũng gật đầu

Người đâu cũng giống đa tình

Ngỡ là ai lại là mình với ta

Mình với ta tuy hai mà một

Ta với mình sao một mà hai?

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt!

Văn trần được thế chắc có ít

Nhời văn chuốt đẹp như sao băng

Khí văn hùng mạnh như mây chuyển

Êm như gió thoảng tinh như sương

Ðầm như mưa sa lạnh như tuyết

Chẳng hay văn sĩ tên họ gì

Người ở phương nao ta chưa biết?”

Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa

Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn

Quê ở Á Châu về địa cầu

Sông Ðà núi Tản nước Việt Nam”

Giai nhân không gặp, tiên sinh tạo ra một cô tình nhân không quen biết, một kỹ nữ tài hoa (Vân Anh)

Câu tri kỷ cùng ai tri kỷ

Chuyện chung tình ai kể chung tình

Bụi hồng vắng vẻ mắt xanh

Mình ơi ta nhớ mà mình quên ta

Rồi một lúc ngẫu hứng, tiên sinh kết tinh tri kỷ và giai nhân vào một người đẹp rất thông minh: nàng Chu Kiều Oanh. Từ đấy về sau tiên sinh chỉ giao thiệp bằng tinh thần với con người mộng tưởng ấy. Ngoài nàng ra, ai cũng nhỏ bé, ai cũng tục tĩu. Mà nàng là ai? Nàng chỉ là tiên sinh vậy. Tinh thần duy ngã độc tôn, ở Tản Ðà, phát triển đến cực độ. Tiên sinh chỉ nhìn thấy mình, chỉ nói đến mình, chỉ ca tụng có mình.

Toàn thể văn nghiệp tiên sinh là một tiểu sử trung thành và đầy đủ.

Vì lẽ đó nên Tản Ðà tiên sinh ngông mà nhận thức được cái ngông của mình. Ngông một cách sáng suốt và thích chí. Lúc theo quan huyện Tam Dương bỏ Vĩnh Yên về Hải Phòng, tiên sinh viết: “Lạ thay! Một kẻ bần nho không có thước đất nào trước sau đem hơn hai nghìn đồng bạc vừa ăn tiêu vừa sang sửa tô điểm khu đồi ở Ðịnh Trung, một khi bỏ đó như không, ở mạn rừng lại trôi về mạn bể. Nhân sinh phù thế, bịt mồm ai, ai dễ nhịn cười chăng? ”

Hình như tiên sinh lấy làm khoái lắm khi thấy thiên hạ cười mình là ngông cuồng, rồ dại. Viết đến đây tôi lại nhớ đến Baudelaire. Bình sinh, thi sĩ chỉ làm toàn những việc, nói toàn những câu ra ngoài lẽ thường. Và mỗi lần như thế, thi sĩ lại hỏi một người có mặt: “ông ngạc nhiên lắm có phải không?” Câu hỏi này mô tả đầy đủ cái sung sướng kỳ quặc của thi sĩ. Làm người khác ngạc nhiên vì mình chẳng phải là mục đích của thi sĩ đó sao?

Với ít suồng sã và trơ tráo hơn, Tản Ðà tiên sinh cũng có tâm lý ấy của thi sĩ Baudelaire. Tâm lý một người ngông có ý thức. Mỗi lần thất bại, tiên sinh lại ngông thêm một ít. Cái ngông này chính là nguyên nhân của cái thất bại sau. Và đời tiên sinh cứ như thế… Rút cục, ngông thành một triết lý của kẻ chiến bại tự trọng. Hơn nữa, nó thành một bản ngã thứ hai của Nguyễn Khắc Hiếu tiên sinh. Nó là dấu hiệu của tài hoa.

Cái ngông của thi sĩ chỉ là cái ngông của nhà nho, nhìn ở một cạnh khác. Thi sĩ ngông để giải thoát.

Một lần nói chuyện với tiên sinh, tôi có hỏi: “Thưa cụ, trong các bài thơ cụ đã làm, cụ có thể cho biết cụ thích bài nào nhất?” Không suy nghĩ, tiên sinh trả lời ngay: “Tôi thích nhất bài ca làm trong tập Giấc mộng con thứ hai để Tây Thi hát”.

Rồi tiên sinh ngâm, sảng khoái:

Non xanh xanh

Nước xanh xanh

Nước non như vẽ bức tranh tình

Non nước tan tành

Giọt lệ tràn năm canh!

Ðêm năm canh

Lụy năm canh

Nỗi niềm non nước

Ðố ai quên cho đành?

Quên sao đành?

Nhớ sao đành?

Trần hoàn xa cách

Bồng Lai non nước xanh xanh!

Ngâm xong, tiên sinh giải thích: “Ông tính, Chiêu Quân đánh tỳ bà, Dương Quý Phi say rượu đứng dậy múa. Tây Thi cất giọng hát mà mình ngồi nghe thì còn gì khoái hơn nữa! Bấy giờ mình cứ tưởng mình chính là Ðường Minh Hoàng trong cung điện đang cùng mỹ nhân thưởng thức điệu Nghê Thường.” Tiên sinh cười lớn, kết luận: “Nghĩ lúc ấy thật cũng sướng cho cái đời văn sĩ của mình!”

Câu chuyện này đủ chứng thực rằng, Tản Ðà thi sĩ chỉ mượn những mộng văn chương để sống cái ngông vô biên ấy của mình và dùng cái ngông vô biên ấy để thoả mãn một nhu cầu giải thoát. Mấy lần mộng, mấy lần lên trời, gửi thư lên cung trăng hỏi chị Hằng làm vợ… Tất cả những hành vi văn chương ấy chỉ là những mộng để tiên sinh vượt khỏi thực tế. Ở thực tế, mình nhỏ thì phải tạo ra mộng đẻ thành nhớn. Thế thôi!

Cho nên, mộng Tản Ðà mặc áo thơ mà thiếu chất thơ. Nó là sản vật của trí tưởng tượng hơn là bản thể của tâm hồn. Trong thai nghén của mộng vẫn có cái ngông của nhà nho thất thế.

*

Tôi nói nhà nho và tôi dụng tâm nhắc đi nhắc lại danh từ ấy. Vì tôi nhận thấy rằng Tản Ðà tiên sinh là nho sĩ hơn là thi sĩ, là nho sĩ tài hoa hơn là nho sĩ chính thống. Tiên sinh ngông hay mộng cũng vẫn giữ cốt cách nho gia.

Một lần, vào khoảng 1926, Nguyễn Thái Học, nguyên lãnh tụ đảng Việt Nam Quốc Dân, nhờ một người bạn giới thiệu làm quen với tiên sinh. Hồi đó, nhà nho của chúng ta đang nằm ở Vinh, sau lúc An Nam tạp chí đình bản. Nguyễn Thái Học vào thăm tiên sinh mục đích yêu cầu tiên sinh cho tái bản An Nam tạp chí, bao nhiêu tiền, bài vở, ông và các bạn đảm lĩnh hết. Tiên sinh cũng ưng thuận vui vẻ lắm. Câu chuyện bàn trong tiệc rượu. Lúc chủ và khách ngà ngà say, Nguyễn Thái Học mới ngỏ ý muốn tiên sinh viết sự nhượng quyền biên tập An Nam tạp chí thành giấy tờ dứt khoát. Ðó chỉ là tính cẩn thận trong công việc. Không ngờ vì thế mà tiên sinh hết sức bất bình, bảo Nguyễn Thái Học: “Thế tức là ông không biết tôi. Ông không hiểu thì hợp tác thế nào được ”. Rồi tiên sinh bỏ rượu, ăn cơm, vào nhà trong nằm nghỉ.

Hẳn có người ngạc nhiên về thái độ của tiên sinh đối với khách. Nhưng nếu ta hiểu tiên sinh hơn nữa, ta sẽ thấy rằng hành vi ấy tất nhiên phải có. Ðối với một nhà nho, sự thủ tín là một đức tính không thể thiếu được. Bắt làm giao kèo tức là không tin ở lòng bền vững của nhau. Một nhà nho không nổi giận sao được! Nhưng nếu tiên sinh là nhà nho thuần tuý thì tiên sinh phải giấu cái giận đi rồi tìm cớ mà từ chối sự hợp tác. Như vậy mới phải phép xử thế của người quân tử. Ðằng này bỏ khách không tiếp để lộ cái nộ khí của mình, tiên sinh đã tỏ ra một nhà nho phóng lãng không chịu đóng khung thất tình vào những lễ nghi thông dụng. Tiên sinh là một kẻ tài hoa lạc bước vào sân Trình cửa Khổng.

Ðời và thơ Tản Ðà đặc sắc và có ý nghĩa ở những lạc bước tiền định ấy.