Xin hãy quên em – Chương 06-2

Luisa nhìn tôi ngẩn ngơ không hiểu. Tôi vồ lấy quyển từ điển tiếng Tây Ban Nha vừa mới mua gần đây và được đánh dấu trang cẩn thận. Hành tây: Ajo. Em phát âm thế nào? “Không... ajo.” Tôi gật đầu và chỉ ngón tay trỏ vào nó với vẻ hài lòng.
“À. Acccchhho. Sí,” nó gật đầu lia lịa. “Chỉ cho ớt thôi.”
“Không - không cho ớt,” tôi la lớn và chạy lên cầu thang. “Nó không thích ớt.”
“Thích ớt cơ!” Tôi nghe tiếng Milly lanh lảnh.
Tôi bận một cái sơmi lụa, quần tây và khoác áo ấm rồi vội vội vàng vàng chải tóc tai. Tôi vớ lấy chiếc cặp và nhét đống bản vẽ mà tôi vừa hoàn thành vào. Sau đó tôi hôn tạm biệt Milly và nhảy vào ôtô.
Đường đông kinh khủng khiến tôi mất gần một giờ để đến đó. Tôi tới nơi lúc hai giờ kém năm, chiếc bán tải của Jamie đậu sẵn ở bên ngoài tòa nhà số 63 - giống như tất cả tòa nhà khác ở khu Boltons, tòa nhà này có kích cỡ của một siêu thị, sơn màu trắng và có mặt tiền được đắp nổi.
“Chào bà chủ!” cậu ta nói với giọng uể oải khi tôi đậu xe cạnh nhà thờ.
“Tôi không phải là bà chủ của anh,” tôi đính chính khi cậu ta nhảy ra khỏi chiếc xe của mình. “Thậm chí, nếu chính xác, tôi còn chưa phải là đối tác của anh mặc dù chúng ta đã làm việc với nhau nhiều. Tôi là...”
“Nhà Văn hóa Kiêu kỳ,” Jamie gợi ý trong khi tôi đang khóa cửa xe. “Lúc chúng ta mới gặp nhau, tôi cứ nghĩ chị là người nông nổi nhưng dần dần tôi nghĩ về chị khác đi và giờ đây thì chị rất dễ chịu.”
“Cám ơn anh. Nhưng như tôi nói, tôi không phải là bà chủ của anh, và anh là... Tôi thật chẳng biết gọi anh là gì nữa.”
“Tôi là gã làm cho trái đất quay theo ý chị.”
“Thật! Dù sao thì trông anh cũng khá bảnh.” Tôi liếc nhìn cái áo khoác màu xanh nước biển mà cậu ta đang mặc.
“Đây là chiếc áo mặc chơi crikê tốt nhất của tôi. Thea thích tôi mặc nó. Cô ấy muốn tôi mua cái áo này. Hiện giờ thì công việc của cô ấy không được tốt lắm - Tôi rất ít gặp cô ấy.”
“Lại đi xa nữa à?” Tôi hỏi và đẩy cánh cửa bước vào.
“Đúng thế,” anh ta trợn tròn mắt. “Cô ấy đi Rome, New York, Monaco - đầy nơi - mai cô ấy lại đi Cape Town để tham gia một giải đấu tennis.” Tội nghiệp Jamie, tôi nghĩ thầm. Hèn gì họ chẳng có lấy một đứa con. “Thôi kệ chị ạ, còn cô công chúa nhỏ Milly thế nào rồi?” Cậu ta nói tiếp khi chúng tôi bước lên bậc cửa.
“Nó vẫn ngoan - ngoại trừ sáng nay nó làm rơi một chiếc giày ở cửa hàng Mark& Sparks - và khi tôi không hy vọng tìm thấy nó nữa thì một người đàn ông đẹp trai mang nó lại cho tôi.”
“Ra thế...” Jamie nhướng lông mày trái lên. “Chị lại bị lạc trong sương mù lần nữa, phải không?” Cậu ấy vẫn thường trêu chọc tôi về điều đó. “Vậy tên anh ta là Hoàng tử Đẹp trai?”
“Không...” Tôi đỏ bừng mặt. Tôi ấn tay vào cái chuông to làm bằng đồng. “Tôi cũng chẳng biết tên anh ấy là gì nữa.”
“Thế anh ấy có mời chị đi ăn trưa không?”
“Đáng buồn là không - nhưng mà buồn cười là anh ta ta mời tôi uống cappuccino cùng.”
“Có gì đáng buồn cười đâu? Chị trông cũng xinh mà.”
“Cám ơn. Còn anh là một chàng Bruce điển trai.”
“Dù sao thì tôi hy vọng chị đã nhận lời anh ta,” Jamie chỉnh lại cái cà vạt và nói.
“Tất nhiên là tôi từ chối,” tôi tỏ ra cương quyết.
“Sao lại từ chối? Anh ta cầm theo một chiếc rìu à?”
“Chắc là không.”
“Anh ta gớm ghiếc lắm à?”
“Trái lại.”
“Thế thì theo ý tôi chị phải đồng ý mới đúng.”
“Tiêu chuẩn của tôi khắt khe hơn một chút,” tôi nói nhưng trong lòng thầm nghĩ đáng lẽ mình nên nhận lời - Tôi thấy người đàn ông đó rất lôi cuốn; nhưng rồi tôi dằn lòng mình lại để tập trung vào hiện tại. Tôi lấy lại cân bằng sau khi hít thở sâu một vài lần.
“Tôi mong là chúng ta nhận được đơn hàng này,” tôi nói nhỏ với Jamie.
“Vậy chúng ta nên gọi nó là gì?” Jamie thì thầm lại với tôi. “Kiến trúc Đương đại?” “Tốt tươi và Hoang dã?” hay là “Nét Tao nhã Vô tận?”
“Nét Tao nhã Vô tận,” tôi lặp lại. “Đó là một cái tên hay cho dự án này- anh tắt điện thoại đi nhé,” tôi bảo Jamie đồng thời tắt di động của mình. “Không phải chúng ta thiếu việc để làm.”
“Tôi đồng ý.”
Tôi chợt nhận ra công việc kinh doanh của tôi tiến triển thật mau lẹ. Chúng tôi đạt được điều đó với sự linh hoạt tối đa. Không có đơn hàng nào quá lớn hoặc quá nhỏ. Chúng tôi làm tất cả những việc từ trang trí chậu hoa cửa sổ, bắc thêm giàn hoa, lát lại sân vườn cho đến xây dựng một khu vườn hoàn toàn mới. Niềm vui với công việc khiến tôi không có thời gian để buồn nữa, thậm chí có những đêm tôi khổ sở với Milly thì sáng hôm sau vẫn thức dậy đầy nhuệ khí cho một ngày làm việc mới.
Đột nhiên cánh cửa sơn màu đỏ nhạt phía trước ngôi nhà được kéo ra. Bà Gill Edwards xuất hiện, dáng người gầy và đanh, từ đầu đến chân bận đồ ngủ của Gucci, đứng đằng sau bà ta, bên trong cái sảnh rộng là Martin, chồng bà ta, to như một con gấu, mặc một cái quần dài không ly và sơ mi kẻ sọc xanh. Tôi đã nghe nói về vợ chồng nhà Edwards khi tôi làm trong thành phố - họ nổi tiếng khó tính. Người vợ là một nhà môi giới chứng khoán của Cazenove còn ông chồng, năm mươi tư tuổi, già hơn bà vợ một chút là phó chủ tịch của Goldman Sachs.
“Cô Anna.” Bà ta cười và nói. “Vào đi.”
“Đây là Jamie Clark ở công ty xây dựng Olympian. Anh ấy thực hiện việc xây dựng những khu vườn tôi thiết kế. Vì vậy tôi nghĩ là hôm nay anh ấy phải tham gia, thế có được không ạ?” Tôi nói.
“Chắc chắn là được.” Bà ta bắt tay Jamie. “Chào cậu...”
“Những bản thiết kế này trông rất tuyệt,” bà Gill nói một vài phút sau khi săm soi kỹ những bản vẽ của tôi trong một cái phòng vẽ lớn sơn màu vàng. Tôi đưa cho bà xem ảnh đồ họa vi tính về diện mạo của khu vườn với tất cả những góc cạnh khác nhau.
“Còn đây là bảng ghép hình,” tôi đưa nó cho ông chồng.
“Bảng ghép hình?” ông ta nhắc lại lời tôi.
“Nó là tập hợp những bức ảnh về quy hoạch tổng thể dự kiến, hệ thống tưới tiêu và những vật dụng trang trí để ông bà có thể nắm bắt được toàn bộ thiết kế chung - cũng như là cách bố trí cây cối.”
“Chúng tôi không muốn trồng quá nhiều cây,” tiếng bà Gill xen ngang. “Cả hai vợ chồng đều rất bận rộn với công việc - ngoài ra cuối tuần chúng tôi thường đi nghỉ ở vùng quê.”
“Tôi đã lưu ý điều đó rồi.” Tôi nói và tự hỏi tại sao lại có người bỏ ra một núi tiền để mua một ngôi nhà ở Luân Đôn để rồi chuồn khỏi nó mỗi thứ Sáu.
Chúng tôi đi vào bên trong, cảm thấy một chút lành lạnh dưới áng nắng buổi sáng mùa xuân. So với ngôi nhà đồ sộ thì mảnh vườn quá nhỏ bé - chỉ khoảng hai mươi mét. Nó có một thảm cỏ cằn cỗi và vài bồn hoa treo đầy cây bụi mọc um tùm đến nỗi chúng tạo cảm giác bức bí. Bao quanh mảnh vườn là một lớp đá lát vùng York, xen kẽ là những viên sỏi trắng, và ở giữa là một vài chậu cây hình chữ nhật nằm ngổn ngang - những gì còn sót lại của một vườn cây nhỏ với bố cục cầu kỳ. Sân vườn được thiết kế hơi dốc một chút.
“Những người chủ cũ đã ở đây mười lăm năm,” bà Gill kể. “Cô thấy đó, họ chẳng đả động gì đến mảnh vườn. Nhưng như chúng ta đã nói chuyện trước, chúng tôi muốn mảnh vườn này là một phần mở rộng của ngôi nhà, đặc biệt dành cho việc nghỉ ngơi vào mùa hè.”
Tôi phác qua thiết kế cho hai vợ chồng nghe. Sân vườn sẽ không còn dốc nữa và được tôn lên cao một chút. Ở giữa sẽ có một thảm cỏ hình vuông, bao quanh ba mặt là những đụn cây bụi được tỉa tròn với nhiều kích thước khác nhau nhằm làm cho khu vườn có vẻ chỉn chu. Mặt sau của vườn là nơi thu hút sự chú ý nhất với một đài phun nước dài làm bằng đá granít đen, có gắn vòi phun. Khu vực xung quanh thảm cỏ sẽ được lát bằng đá vôi Bồ Đào Nha, cùng với những chậu hoa treo và những chậu cây lớn bằng đá granít đen. Các loại cây sẽ được trồng chủ yếu là những cây lâu năm không cần chăm bón nhiều như oải hương, xương rồng, mẫu đơn, và Ôrô gấu, xen lẫn với một số dây leo và cây bụi khác. Ở bên tay trái là chỗ nghỉ, được che bởi một hàng bốn cây đoan bện vào nhau. Chỗ này còn có một cái lò đốt lớn, xây theo kiểu hiện đại, hai bên đặt hai cái ghế có hộc để chứa chất đốt. Sẽ có một hệ thống phun nước, kết hợp với dàn đèn gắn trên lớp đá vôi để tạo khung cảnh hào nhoáng vào ban đêm.
“Nó có vẻ rất hợp thời,” bà Gill nói, “nhưng vẫn có nét cổ điển. Tôi thích đấy.”
“Chà...” người chồng lên tiếng. “Tôi không thích nó...” Quỷ tha ma bắt ông đi, tôi nghĩ. “Mà là tôi yêu nó!” Tôi thở phào nhẹ nhõm. “Nó có vẻ - tôi không biết nữa - một... một...”
“Nét Tao nhã Vô tận?” Jamie gợi ý.
“Đúng, chính xác như vậy. Một nét tao nhã vô tận.” Tôi ngầm trừng mắt với Jamie.
“Thế nhưng cô có muốn vứt bỏ những cây đang trồng không?”
Tôi lắc đầu. “Tôi sẽ giữ lại tất cả những cây thích hợp với bản thiết kế mới - ví dụ như với cây Đậu chổi Marốc, tôi sẽ chuyển nó đi chỗ khác có nhiều ánh sáng hơn; tôi cũng muốn giữ lại cây Gạo - niềm tự hào của California kia - với điều kiện chúng ta sẽ tỉa tót nó lại và uốn thêm một chút; và tất nhiên là cả cây sung nữa.”
“Cô cứ đào mấy cây tú cầu tự nhiên nhé,” ông Martin lơ đễnh nói.
“Ồ không được!” Vợ ông ta phản đối ngay. “Anh biết rõ là em yêu chúng mà.”
“Và em cũng biết rõ không kém là anh ghê tởm chúng, em yêu ạ. Thế là xong nhé.” Đột nhiên ông ta làm bộ như đang xả súng vào mấy cây tú cầu vậy.
“À,” tôi cất tiếng, hơi ngạc nhiên với hành động của hai vợ chồng nọ, “chúng cũng đã già và lắm bệnh nên tôi sẽ thay bằng những cây mới.”
“Cô đừng bận tâm,” ông Martin cương quyết. “Tôi không thể chịu nổi chúng - chúng như những cái gai trong mắt tôi.” Ông ta ra vẻ như đang buồn nôn.
“Nhưng em thích chúng,” bà Gill nói. “và anh làm ơn đừng diễn tuồng nữa, được không anh yêu?”
“Mấy cái cây tú cầu này...” Mặt ông ta dài thuỗn. “Nhà quê quá”
“Không phải thế,” bà vợ đáp trả. “Ba mẹ em lấy chúng ở Poole đấy.”
“Phải rồi,” người chồng lầm bầm.
“Nói đi thì phải nói lại, anh chẳng thích mấy cây hoa lay ơn xấu mù là gì?”
“Vớ vẩn.”
“Và ở Oxfordshire, chúng ta đã có một dãy toàn lay ơn vàng rồi, em thật chẳng hiểu tại sao em lại không thể trồng mấy cây tú cầu vô hại trong thành phố. Cô có thấy thế không, Anna?”
“À... thì, tôi thích chúng, phải nói là như thế, đặc biệt vào mùa đông những nụ hoa khô trong rất hay - nhưng mà ông bà là chủ nên tôi không có ý kiến gì.”
Ông Martin quay ra phía mấy cây tú cầu và làm bộ như đang khạc nhổ.
“Thôi bây giờ hãy nói sang chuyện khác đỡ tranh cãi hơn - tiền.” Bà vợ nói tiếp, trợn mắt rồi quay sang nhìn tôi với vẻ chờ đợi.
Tôi hít thở sâu trước khi mở lời. “À, đây là một dự án lớn nên phải có ngân sách tương ứng.” Tôi đưa cho bà ta xem bản đề xuất chi phí, bà ta lướt qua một lượt và dừng lại ở hàng cuối cùng.
“Một trăm ngàn?” bà ta nhíu mày lại. “Cho tất cả mọi thứ?”
“Đúng vậy.”
“Thế còn tiền công của cô?”
“Khoảng sáu phần trăm của chỗ đó.”
“Liệu tám mươi ngàn có được không?” bà Gill hỏi.
Tôi đã chuẩn bị tinh thần cho tình huống này. “Không thể được thưa bà,” tôi đáp. “Chỉ vì những viên đá. Với tám mươi ngàn, chúng ta sẽ phải dùng loại đá rẻ hơn, như sa thạch Ấn Độ chẳng hạn. Chúng cũng tốt,” tôi trấn an họ, “nhưng tôi nghĩ đá vôi Bồ Đào Nha là cần thiết bởi vì bên trong nhà, chúng cũng được dùng để lát sảnh. Và ông bà có nói là ông bà muốn mảnh vườn là một phần mở rộng của ngôi nhà, nên tôi định chọn chúng.”
“Chúng tôi muốn thế.”
“Tôi có thể giảm xuống chín mươi lăm ngàn mặc dù tôi sẽ phải bỏ bớt một số góc.”
Ông Martin nhún vai. “Trâu còn mua được, tiếc gì sợi dây thừng.” Càng đúng hơn với sự thật là cặp vợ chồng này mỗi năm kiếm được ít nhất ba triệu bảng, tôi nghĩ thầm. “Vậy sẽ mất bao lâu để xây xong? Chúng tôi đang định có một bữa tiệc gia đình lớn vào cuối tháng Sáu.”
“Sẽ phải mất bốn tháng kể từ lúc bắt đầu cho đến khi xong xuôi.”
Bà Gill đứng dậy. “Vậy thì tôi nghĩ là cô nên bắt đầu luôn.” Tim tôi đập rộn ràng. “Được không anh Martin?”
“Không vấn đề gì - miễn là không có điều khoản “tú cầu” trong hợp đồng.”
“Bước tiếp theo là gì?” Bà vợ hỏi tôi, không để ý đến lời ông chồng nói.
“Tôi sẽ gửi cho ông bà hợp đồng chính thức,” tôi trả lời.
“Và tôi sẽ lên báo giá vật tư,” Jamie nói. “Nếu ông bà chấp thuận tôi sẽ phải cần ba mươi phần trăm tiền đặt cọc để có thể đặt mua các thứ, nhưng tôi sẽ đưa ông bà hóa đơn chi tiết.”
“Nghe có vẻ ổn rồi.” Phu nhân Edwards đưa bàn tay được trang điểm công phu ra. “Tôi đoán chúng ta đã thỏa thuận xong, anh Martin nhỉ?”
“Tôi cho thế là xong rồi.” Ông ta gật đầu.
“Thế thì... tuyệt quá,” tôi nói, cố gắng lắm mới không tỏ ra quá phấn khích.
Tôi và Jamie ở lại thêm khoảng một giờ nữa để anh ta có thể xem xét mảnh vườn kỹ hơn, đo đạc và tính toán lượng đất phải đào đi, cũng như là việc nâng sân vườn và bố trí các điểm cấp thoát nước.
Sau khi trở về nhà, tôi soạn hợp đồng và lúc đang chuẩn bị cho nó vào phong bì thì có chuông điện thoại. Đó là bà Joana Silver, vợ của cha xứ sở tại. “Tôi chỉ muốn nhắc cô về thứ Sáu này,” bà ta nói. Tôi chẳng nhớ ra gì. “Hy vọng là cô chưa quên.” Tôi quên thật. “Hôm đó là bữa tiệc gây quỹ cho trung tâm Phúc lợi Cộng đồng của nhà thờ.”
“Ồ, tất nhiên rồi.” Tôi đã nhận lời đảm trách phần “Trả lời câu hỏi liên quan đến làm vườn.”
“Bữa tiệc sẽ bắt đầu lúc bảy giờ, và đến tám giờ là phần của cô, trong ba mươi phút. Tôi đã bảo với mọi người về cô, và không biết cô có xem không nhưng tôi đã đăng một tấm hình của cô trên tờ báo địa phương, cùng với một vài dòng chú thích về sự kiện này.”
“Chưa, tôi chưa kịp xem.” Tôi đáp, hơi bực mình vì bà ta không hỏi tôi trước, nhưng đồng thời cũng vui vì được lên báo.
“Tôi lấy tấm ảnh đăng trên trang web của cô đấy,” bà ta nói tiếp. Sẽ có nhiều người quan tâm. Nhưng tôi cũng định để cô làm một việc khác nữa...”
“Là gì?”
“Là thưởng cho người đoạt giải nhất phần bốc thăm trúng thưởng một cơ hội được cô tư vấn miễn phí về thiết kế một khu vườn. Tôi mong là cô không phản đối.”
Thực ra thì tôi không sẵn lòng cho việc này. Tôi sẽ rất bận rộn và việc đó khó có thể mang đến cho tôi một đơn hàng mới.
“Tôi đồng ý mà,” tôi đáp.
Tối thứ Sáu hôm đó tôi đến phòng lớn nhà thờ sớm và uống một ly rượu trắng để trấn tĩnh mình. Citronella và ông chồng đến ngay sau tôi, cả hai lập tức mỉm cười và gật đầu với mọi người với vẻ biết ơn như thể họ là những người tổ chức bữa tiệc. Tôi ước gì chị ta gửi thằng Erasmus đến một nhà trẻ khác nhưng cũng may là cô giúp việc người Ý của chị ta, Nanny, là người thường đưa đón nó hơn vì Citronella còn mải bận bịu tập trung cho cột báo của chị ta.
Ít ra thì những bà mẹ còn lại cũng khá tử tế, tôi nghĩ bụng khi nhìn lướt qua họ, tai vẫn nghe bộ tam tấu bằng dây được thuê biểu diễn cho bữa tiệc. Tôi chưa thực sự quen một ai trong số đó vì Milly mới chỉ đến nhà trẻ được một tháng. Nhưng tôi vẫn nhận ra Annabel Goodchild trong đám đông, Nina Taszkanowski chuyên bán cây, và Michal Navon đang trông coi hiệu sách - cô ta và gia đình vừa mới chuyển tới từ Israel - và cả mẹ của cô bé Lucy thân thiện nữa; tên cô ta là gì nhỉ? À đúng rồi, Claire.
Tôi nói chuyện với một vài người quen biết, rồi mua cho Milly một ít đồ chơi, gồm một bảng tập viết có thể xóa được và một đĩa DVD phim Người đẹp và Ác thú Còn mới. Tôi mua hai cây lê lư trắng cho vườn của chị Jenny - rồi tôi dừng lại trước quầy tạp phẩm.
“Cô mua ít mật nhé?” người đàn bà đứng sau quầy hỏi tôi, ngón tay gõ gõ lên nắp một cái lọ. “Nó được sản xuất ở đây đấy.” Tôi liếc nhìn cái nhãn, ở trên có in hình một con ong vằn lớn với một vầng sáng trên đầu. Ong Tốt, chữ trên vầng sáng đó viết.
“Không, cám ơn. Tôi e là mình không thích mật ong lắm.” Tôi đáp.
“Vậy ư?” Chị ta tỏ ra khá sửng sốt, như thể tôi vừa nói “Tôi không thích đóng góp cho quỹ từ thiện” vậy.
“Nó quá ngọt,” tôi phân bua với chị ta. “Nhưng tôi sẽ mua một ít nấm trắng.” Rồi tôi thử mua vài cái vé bốc thăm trúng thưởng nhưng thật đáng ngạc nhiên là chúng đã được bán hết. Tôi uống một ly rượu nữa để lấy thêm can đảm và liếc nhìn đồng hồ. Còn hai phút nữa là đến tám giờ. Tôi thấy bà Joana Silver vẫy tôi từ trên sân khấu nên tôi bước lên và bà ấy gõ vào micrô.
“Và bây giờ là phần hay nhất của buổi tối hôm nay,” bà bắt đầu nói khi tiếng ồn lắng xuống. “Đối với những người chưa biết, tôi xin phép được giới thiệu nhà thiết kế vườn tài hoa của hạt chúng ta - cô Anna Temple...” Bà đưa tay chỉ về phía tôi. “Cô Anna - người mà quý vị có thể đã nhìn thấy trên kênh GMTV gần đây - sẽ vui vẻ trả lời tất cả những câu hỏi liên quan đến việc chăm sóc vườn tược của quý vị.”
Tiếng vỗ tay vang lên khi tôi dẫm trên những bậc thang đã mòn ở một bên của sân khấu để bước lên. Tôi ngồi cạnh cái bàn và nhìn xuống đám đông với hàng trăm con mắt đang đổ dồn về phía mình, bất chợt cảm thấy lúng túng và run rẩy. Tiếng ồn ào lắng xuống một cách khó xử, tôi thổỉ nhẹ vào cái micrô rồi kéo thẳng nó ra.
“Cám ơn về lời giới thiệu, bà Joana...” Tôi bắt đầu hơi căng thẳng. “Xin chào tất cả quý vị. À - tôi chẳng tài hoa gì cả - và tôi chỉ mới bắt đầu việc thiết kế vườn chuyên nghiệp được một, hai năm. Nhưng từ khi lớn lên tôi đã là một người làm vườn nghiệp dư khá tâm huyết - giống như mẹ tôi, tôi học được từ bà nhiều điều bổ ích về nghề này, và tôi rất sẵn lòng được chia sẻ chúng với quý vị. Những gì quý vị phải làm chỉ là đặt cho tôi những câu hỏi về cây, hoa, non bộ hay bất cứ điều gì khác, tôi sẽ cố gắng trả lời nếu có thể.”
Bà Joana hắng giọng khi một sự im lặng bao trùm. “Tôi sẽ hỏi câu đầu tiên,” bà nói. “Thời điểm này trong năm rất thích hợp cho việc trồng hoa bằng giỏ treo. Cô có lời khuyên nào để trồng chúng cho đẹp không?”
“Vâng...” Tôi đằng hắng. “Khi trồng hoa trong giỏ treo, điều quan trọng là phải chuẩn bị cái giỏ trước rồi mới đặt cây vào, dùng một cái gọt vỏ khoai tây để nạo đất bên trong cái giỏ để tạo khoảng trống cho rễ cây. Tôi cũng gợi ý là nên dùng những túi trà nhúng dùng rồi để lót bên trong giỏ trước khi cho đất vào vì chúng có tác dụng như một loại phân bón và giữ được nước.”
“Làm thế nào để những cái giỏ không bị rỏ nước nhiều khi cô tưới cây?” Bà Joan hỏi tiếp.
“Thay vì tưới nước ta nên đặt lên chúng vài cục đá - trong những ngày khô hanh như thế này thì nên làm việc đó thường xuyên hơn.”
“Tôi không cao lắm,” một người phụ nữ thấp bé trong cái áo khoác màu vàng nói. “Làm sao để việc tưới giỏ cây dễ dàng hơn?”
“Bà nên kẹp thêm một đoạn tre vào khúc cuối của cái vòi tưới nước để làm cho nó chắc hơn.”
“À...” người phụ nữ gật đầu một cách hớn hở.
Một người phụ nữ tóc bạc đứng bên phải tôi giơ tay lên. “Mỗi năm tôi làm chừng mười giỏ cây. Nhưng mà chúng quá nặng đối với tôi.” Bà ta nói.
“Để làm cho chúng nhẹ hơn bà nên cho một ít bột nhựa vào dưới đáy rồi mới cho đất lên trên.”
Một người đàn ông ngồi ngay hàng ghế đầu giơ một cánh tay lên. “Làm thế nào để lũ ốc sên không bám vào những chậu hoa?”
“Bằng cách bôi bên ngoài một ít kem Vaseline, một vài tuần một lần - ý tôi là bên ngoài chậu hoa, không phải bên ngoài mấy con ốc sên.”
“May mà cô nói rõ!” một ai đó cười khúc khích.
“Ông cũng có thể đặt chúng trong một cái khay to đựng nước, hay tốt hơn là pha thêm bia lên men. Nhưng không được dùng thuốc diệt ốc sên vì nó sẽ bị lũ nhím xơi hết. Một cách nữa là đặt dưới gốc cây ít muối hoặc vỏ trứng. Ngoài ra chúng ta cũng có thể nuôi vài con cóc.”
“Khu vườn của chúng tôi có rất nhiều ốc sên,” một người đàn ông khác nói. “Chẳng hiểu lý do vì sao?”
“Ông có trồng cây thường xuân nào không?”
“Có, dọc hàng rào phía sau.”
“Vậy thì đó là lý do - ốc sên thích chúng; trừ khi ông rất thích trồng chúng. Nếu không tôi nghĩ là nên nhổ hết đi, dù sao thì còn rất nhiều loại cây khác đẹp hơn có thể thay thế chỗ của chúng.”
“Làm thế nào để những cái cây trong nhà xanh hơn?” Một người đàn ông ở hàng cuối hỏi.
“Ông nên nhỏ một giọt dầu hải ly vào lớp đất sáu tuần một lần. Những cây trồng trong nhà cũng rất thích nước trà - tốt nhất là trà nóng- và sẽ rất có ích nếu tưới một ít bia lên lá của chúng.”
“Làm sao để hoa cắm trong bình tươi lâu hơn?” Một người phụ nữ mặc áo hồng hỏi tôi.
“Chỉ cần cho một viên aspirin vào trong lọ hoa - axít salicylic sẽ có tác dụng giữ hoa tươi lâu hơn. Một đồng hai xu cũng sẽ có tác dụng tương tự như vậy vì chất đồng sẽ làm tăng hooc môn sinh trưởng của hoa. Cho thêm một thìa cà phê thuốc tẩy vào nước trong bình giúp chúng không bị đục.”
“Tôi rất thích hoa tuy líp,” người đứng cạnh bà ta nói. “Nhưng có vẻ chúng tàn nhanh quá.”
“Tôi biết - điều đó thật chán,” tôi trả lời. “nhưng nếu chị chích một vài lỗ nhỏ ở cuống hoa, ngay bên dưới bông hoa thì chúng sẽ tươi lâu hơn, bởi vì lúc đó bông hoa sẽ hút nước dễ dàng hơn.”
Sau đó chúng tôi chuyển sang chủ đề về cỏ dại.
“Làm cách nào để diệt cỏ dại trên lối đi mà không cần dùng chất hóa học?” một người đàn ông hỏi.
“Dùng một ít hỗn hợp nước sôi pha muối - lấy khoảng nửa ca nước - nhớ dùng ca bằng kim loại và cẩn thận không bị bỏng.”
“Tôi có một vài vật dụng nhẹ làm bằng nhựa để trong vườn,” một người phụ nữ ngồi giữa phòng lên tiếng. “Nhưng chúng bị cáu bẩn mà đánh bóng nhiều lần cũng không ích gì.”
“Thế thì pha một ít bột nở với nước và lau chùi chúng một vài lần trong khoảng nửa giờ, mấy cái đồ bằng nhựa đó sẽ sáng bóng lâu hơn.”
“Trong vườn bố trí một cái ao ở đâu là tốt nhất?” Chị Michal Navon đặt câu hỏi.
“Ở chỗ nào có bóng râm nhiều hơn,” tôi đáp. “Vì ánh nắng mặt trời rọi trực tiếp sẽ đẩy nhanh sự sinh sôi của tảo.”
“Ao vườn của chúng tôi có mấy con diệc, chúng ăn cá và ếch nhái. Chúng tôi thích diệc nhưng giá mà chúng đừng ăn hết động vật trong ao như thế.” Một người đàn ông nói.
“Hãy làm cho lối vào ao khó khăn hơn, anh có thể trồng một vài cây bụi xung quanh chẳng hạn. Chúng cũng có tác dụng ngăn một số loài khác, ví dụ như nhím chẳng may bị rơi xuống ao khi đi ngang qua.”
“Cô có nghĩ mai địa thảo là loài cấp thấp không?” Tôi nghe thấy một ai đó nói. Rồi tiếng cười rộ lên.
“Tôi có nghĩ mai địa thảo là loài cấp thấp không ấy à?” Tôi nhắc lại câu hỏi. “Không. Tôi không nghĩ thế - hoàn toàn không. Và tôi thấy cái việc phân biệt đẳng cấp của một số loài cây hay loài hoa là thật đáng nực cười - nhưng thật ngạc nhiên là trong chúng ta có một số người có ý nghĩ như vậy. Những khách hàng hiện tại của tôi - người chồng thì ghê tởm hoa tú cầu còn bà vợ lại thích chúng - chúng tôi vẫn đang cố dàn xếp chuyện này mà không cần động đến luật sư. Tôi cũng có một số khách hàng khác cãi nhau kịch liệt về việc có nên trồng thược dược không, cả cúc vạn thọ hay thuốc lá cảnh nữa.”
“Ngớ ngẩn thật...” ai đó lẩm bẩm.
“Tôi cũng thấy vậy. Có một số phong cách trồng hoa - hiện tại đang mốt là những loài có hoa màu đen, những loài mới. Những giống mới của hoa Hành kiểng đen, hoa lưỡi mèo đen hay thậm chí cả hoa phi yến đen cũng đã được trồng, chúng có thể tạo ra nét đẹp riêng cho hàng rào vườn. Nhưng theo tôi, vấn đề cốt lõi là chọn cây nào cho phù hợp với mỗi nơi. Tôi vừa được thuê để thiết kế một khu vườn kiểu Ý ở Hampstead, nơi mà rõ ràng là tôi không thể trồng lưu ly hay mao địa hoàng mà là oải hương, trúc đào, công vĩ và những loài có mùi hương như hương thảo hay xạ hương. Giờ thì quay lại với mai địa thảo - tôi thường trồng mai địa thảo trắng trên những bậu cửa sổ, hay đặt ở những góc khuất - vì thế tôi chẳng thấy có sự phân biệt đẳng cấp nào để không trồng chúng cả.”
Tiếp theo chúng tôi thảo luận về việc đánh dấu cây như thế nào - Tôi gợi ý là nên dùng dao nhựa trắng và bút sáp màu, như cách mà mẹ tôi từng làm. Tôi nói về việc thục quỳ sẽ mọc cao như thế nào nếu ta tưới ít bia lên chúng. Tôi trả lời câu hỏi làm cách nào để thảm cỏ mới trồng có thể mọc nhanh hơn - bằng cách ướp lạnh những hạt cỏ một vài ngày trước khi gieo. Tôi nhìn đồng hồ. Tám giờ hai mươi lăm.
“Tôi trồng rau diếp,” một người đàn ông ở cuối phòng nói to. “nhưng lũ chim toàn phá mặc dù tôi đã chăng suốt mấy sợi dây bằng giấy thiếc.”
“Vậy anh nên cắt mấy đoạn ống nước dài khoảng một mét và rải xung quanh chúng - lũ chim sẽ nghĩ đó là rắn và không phá nữa.”
Đến lượt Citronella giơ tay lên. “Rất may là chúng tôi đủ tiền mua một ngôi nhà ở vùng quê...” Tôi kiên nhẫn lắng nghe bài diễn văn của chị ta. “Nó có sân tennis ...” Tôi không thể tưởng tượng ra cách chị ta lăn lê trên cái sân đó như thế nào. “Nhưng chúng tôi muốn che nó đi. Cô có ý tưởng gì không?”
“Trồng một loại cây gì đó mà không rụng lá,” tôi đáp, cố gắng tỏ ra lịch sự. “Chị có thể trồng một giống hồng leo ở một đầu sân - tôi nghĩ nên chọn “Hồng leo tím” hoặc “Hồng leo trắng” - và ở đầu kia là giống ông lão thường xanh. Ông lão hoa trắng là một giống đặc biệt hay với những bông hoa trắng, thơm và những chiếc lá rộng, trông giống như lá của một cây ở vùng nhiệt đới - hay là Ông lão Montanavới độ che phủ rất rộng.”
“Ở ngôi nhà tranh của chúng tôi ở Devon có rất nhiều chuột,” một người khác hỏi. “Chúng tôi phải làm gì đây?”
“Ở chỗ nào có hang chuột, chị nên nhét một cành đại hoàng vào - lũ chuột không chịu được mùi đại hoàng. Chị cũng có thể đặt một cái cối xay gió, loại đồ chơi của trẻ con, lên trên hang chuột vì chúng ghét độ rung mà nó tạo ra khi xoay.” Tôi nhìn đồng hồ lần nữa. Đã tám giờ ba mươi lăm. “Giờ thì...” tôi nói. Tôi chuẩn bị kết thúc phần giải đáp của mình thì một giọng đàn ông cất lên từ tít tận sau căn phòng. “Làm thế nào để vườn trở nên hấp dẫn hơn đối với lũ ong?”
Tôi nhìn xuống. Người đàn ông trông quen. Gần bốn mươi. Hấp dẫn. Tim tôi đập mạnh. Đó là người đã nhặt được chiếc giày của Milly.
“À...ong là một loại côn trùng rất có ích cho các khu vườn,” tôi mở lời, mặt nóng ran. “Chúng giúp thụ phấn hoa, chúng không hung hãn và tất nhiên là chúng cho mật. Nhưng để trả lời câu hỏi của anh thì tôi đề nghị là anh nên trồng tử đinh hương - loại này cũng hấp dẫn đối với cả bướm - cũng như là hoa táo, mao địa hoàng, hoa son môi và bất kỳ cây gì có mùi hương đặc trưng như cây thuốc lá, nhài hè, quế trúc và kim ngân. Nếu anh có chỗ để trồng một cây cơm cháy thì lũ ong sẽ rất là thích.”
“Cám ơn cô.” Anh ta cười.
Sau đó bà Joana bước lên và nói, “Đáng tiếc là chúng ta phải tạm dừng ở đây nhưng chúng ta đã có một quãng thời gian thú vị, phải không nào? Tôi thay mặt mọi người cám ơn cô Anna vì những thông tin quý báu mà cô đã chia sẻ tối hôm nay.”
Một tràng pháo tay vang lên. Tôi bước xuống sân khấu, có một hai người đang đợi để hỏi thêm. Khi tôi trả lời họ tôi chợt nhận ra người đàn ông hỏi tôi về mấy con ong đang đứng dưới sân. Anh ta cười rụt rè.
“Xin chào,” tôi nói và mỉm cười. “Ra là anh...” Anh ta có khuôn mặt điển trai, mái tóc lốm đốm bạc tôn thêm vẻ đặc biệt, đôi mắt to màu nâu nhạt trông gần giống màu của gừng. Đôi môi dày và có hai đường tròn bao quanh như hai dấu ngoặc khiến khuôn mặt anh trở nên ưa nhìn hơn. Trên sống mũi của anh ta có một vết sẹo nhỏ hình lưỡi liềm.
“Rất vui được gặp lại cô,” anh ta nói. “Cô rõ ràng là đang cực kỳ vội khi chúng ta gặp nhau hôm trước.”
“Tôi đang trên đường đi gặp một khách hàng tiềm năng. Lúc đấy tôi cảm thấy khá lo lắng. Nhưng mà... anh sống gần đây à?”
Anh ta lắc đầu. “Tôi từng sống ở đây nhưng giờ đã chuyển đến Khu St Peter ở Hammersmith.”
“Tôi biết chỗ đó...” Chắc anh ta thành đạt lắm, tôi nghĩ bụng. Nó một trong những khu đẹp nhất ở Tây Luân Đôn. “Thế ngọn gió nào đã mang anh đến đây?”
“À... tôi thấy một mẩu tin về cô trên tờ báo ngày hôm qua và nhận ra là đã gặp cô thứ Bảy tuần trước nên tôi nghĩ” - anh ta nhún vai- “rằng tôi sẽ đến xem.”
“Ồ, thế à... Anh có một câu hỏi hay đấy.”
“Tôi sợ rằng nó là do tôi bịa ra.”
“Như thế nào?”
“Nếu cô đồng ý đi ăn tối với tôi, cô sẽ biết.”
“Nhưng... tôi không biết anh.” Tôi bật cười. “Tôi còn chưa biết tên anh.”
“Tên tôi là Patrick,” anh ta nói. “Đấy, giờ cô biết rồi nhé.”
“Xin mọi người chú ý!” tiếng bà Joana vang to. “Bây giờ là lúc công bố kết quả cuộc bốc thăm trúng thưởng và Bell, con gái tôi, sẽ tiến hành rút thăm. Hãy bắt đầu với giải ba, đó là một quyển sách mới nhất của David Attenborough, quyển Trái đất của chúng ta, có chữ ký của tác giả - đã thuộc về...”
Cô bé Bella, độ mười hai, mười ba tuổi gì đó, mỉm cười với vẻ e thẹn, để lộ hàm răng đeo niềng. Nó thọc tay vào cái mũ vải, khoắng khoắng một lúc rồi nhặt lên một chiếc vé màu hồng. “Số hai năm sáu,” nó hô lên.
“Số hai năm sáu!” bà Joan lớn tiếng nhắc lại lần nữa. “Có ai có vé số hai năm sáu không? Hai năm sáu?” Chẳng ai bước lên. “Chúng tôi sẽ kiểm tra lại sau vậy,” bà nói, “chúng tôi đã ghi lại đầy đủ tên và địa chỉ rồi. Tiếp theo là giải nhì, là một bữa ăn trưa cho hai người ở nhà hàng River Café...”
Bella lại cho tay vào mũ và lấy ra một chiếc vé màu xanh. “Đó là số một ba bảy,” nó nói và đưa chiếc vé lên vẫy vẫy.
“Số một ba bảy,” bà Joana đưa mắt nhìn đám đông. “Ai là người may mắn với vé số một ba bảy nào?” Vẫn là chẳng có ai lên tiếng. “Lạ nhỉ,” bà dừng một lúc rồi nói. “Chẳng sao cả - chúng ta có thể tìm thấy chủ nhân của nó. Bây giờ là đến giải nhất, một buổi tư vấn về thiết kế vườn với cô Anna Temple - trị giá một trăm bảng. Bell, con hãy bốc thăm vé trúng thưởng đi.”
Cô bé thò tay vào mũ lần cuối và lôi ra một chiếc vé màu xanh lơ. “Số không sáu!”
Patrick lục lọi trong túi quần và lấy ra một xấp vé. “Là tôi!” anh ta kêu lên. Rồi anh ta nhe răng cười với tôi và bước lên nhận giải.
“Chúc mừng anh,” tôi lí nhí nói khi anh ta quay trở lại với một chiếc phong bì màu vàng.
“Tôi thật sung sướng,” anh ta đáp. “Bây giờ thì cô sẽ phải gặp lại tôi rồi.” Tôi mỉm cười. “Gửi cô này,” anh ta đưa tôi cái danh thiếp của mình. Trên đó viết tên đầy đủ là Patrick Gilchrist và chức vụ là Chủ tịch Không Thường Trực của Công ty Total Technology. Anh ta mở phong bì ra. “Mọi thông tin của cô đều nằm ở đây - vậy nếu cô không phiền tôi sẽ gọi cho cô - bây giờ thì tôi đã có lý do chính đáng để làm việc đó rồi.”
“Không,” tôi nói. “Không phiền gì cả.”