Hai Vạn Dặm Dưới Biển - Chương 11 - 12
Chương 11
Tàu "nau-ti-lúx"
Tôi đi theo thuyền trưởng Nê-mô. Cánh cửa ở cuối phòng ăn mở ra, chúng tôi bước vào căn phòng bên cạnh cũng rộng như vậy. Đó là thư viện. Trong những chiếc tủ bằng gỗ mun, trên những giá rộng, sách xếp thành hàng, quyển nào cũng đóng bìa giống nhau. Tủ kê dọc tường, cao từ sàn tới trần. Cách tủ một chút là những chiếc đi-văng rộng, bọc da màu nâu, kê sát nhau. Giữa thư viện có một cái bàn trên bày nhiều tạp chí và một số báo cũ. Bổ sung cho tất cả sự hài hòa đó, bốn bán cầu bằng kính mờ rọi ánh sáng điện từ trần xuống. Tôi quan sát căn phòng đẹp đẽ đó, trong lòng hết sức ngạc nhiên và thán phục.
-Thưa thuyền trưởng, -tôi nói với Nê-mô lúc đó đang nằm dài trên
đi-văng, -thư viện của ngài có thể là niềm tự hào cho bất cứ tòa lâu đài
nào trên lục địa. Tôi rất sửng sốt khi nghĩ rằng cái kho báu này lại
theo ngài đi du lịch dưới đáy biển!
-Thưa giáo sư, ngài có thể tìm
thấy ở đâu những điều kiện thuận lợi để làm việc như thế này? ở đây im
lặng, tĩnh mịch hoàn toàn. ở phòng làm việc của ngài trong Viện bảo tàng
Pa-ri đâu có được những điều kiện tốt như vậy.
-Tất nhiên là không!
Tôi phải thú nhận rằng, so với phòng làm việc của ngài thì phòng làm
việc của tôi ở Pa-ri còn rất nghèo nàn. Ngài có ít nhất sáu, bảy ngàn
cuốn sách.
-Thưa ngài, mười hai ngàn cuốn tất cả. Sách báo là vật duy nhất nối liền tôi với mặt đất. Đối với tôi, thế giới này ngừng tồn tại từ ngày tàu Nau-ti-lúx lặn xuống biển lần đầu. Hôm đó lần cuối cùng tôi mua sách và báo chí. Thưa giáo sư, ngài có thể sử dụng thư viện của tôi một cách tự nhiên. Tôi cảm ơn thuyền trưởng Nê-mô rồi đến xem những giá sách. ở đây tập hợp các loại sách khoa học, triết học, văn học bằng các thứ tiếng. Nhưng tôi chẳng thấy một tác phẩm nào về kinh tế chính trị cả. Chắc là đã có lệnh nghiêm cấm không cho mang loại sách này lên tàu. Một chi tiết đáng chú ý: sách được xếp thứ tự a, b, c, bất kể là được viết bằng thứ tiếng nào. Có lẽ thuyền trưởng Nê-mô thạo tất cả các thứ tiếng. Trong số sách báo, tôi thấy tác phẩm của những nhà văn, những nhà tư tưởng vĩ đại của thế giới cổ đại và hiện đại -tất cả những gì ưu tú nhất đã được thiên tài của con người sáng tạo ra trong lĩnh vực lịch sử, thơ ca, văn xuôi và khoa học, từ Hôm-me đến Vích-to Huy-gô, từ Ra-bơ-le đến Gioóc-giơ Xăng. Nhưng dù sao, sách khoa học cũng chiếm ưu thế trong thư viện này. Sách về cơ học, đan đạo học, thuỷ văn học, khí tượng học, địa lý học, động vật học v.v... xen kẽ với những tác phẩm về lịch sử tự nhiên, theo tôi hiểu, là đối tượng nghiên cứu khoa học chủ yếu của thuyền trưởng. ở đây có toàn bộ tác phẩm của các nhà khoa học nổi tiếng thế giới, những "Thông báo của Viện hàn lâm khoa học", những tuyển tập của các hội địa lý, v.v...
Hai cuốn sách của tôi cũng vinh dự được đứng trong số sách đó, và có
lẽ nhờ chúng mà tôi được đối xử tử tế trên tàu Nau-ti-lúx này! Cuốn
"Những cơ sở của thiên văn học" của Giô-dép Béc-tơ-răng xuất bản năm
1865 cho phép tôi kết luận tàu Nau-ti-lúx được đưa xuống nước không sớm
hơn năm đó. Như vậy, thuyền trưởng Nê-mô bắt đầu cuộc sống ngầm dưới
nước mới ba năm trước đây. Tôi hy vọng sẽ xác định được thời điểm chính
xác, nếu tìm thấy được sách báo đủ thì giờ để làm việc đó, hơn nữa tôi
không muốn hoãn việc tham quan tàu Nau-ti-lúx lại. Tôi nói:
-Xin cám
ơn ngài đã cho phép tôi sử dụng thư viện của ngài. ở đây có bao nhiêu
sách khoa học quý giá! Tôi sẽ không bỏ lỡ dịp may này.
-Đây chẳng những là thư viện mà còn là phòng hút thuốc nữa, -Nê-mô trả lời.
-Phòng hút thuốc ư?
-Tôi ngạc nhiên.
-Phòng hút thuốc trên tàu Nau-ti-lúx ư?
-Đúng vậy!
-Nếu thế thì, thưa ngài, tôi phải giả định rằng ngài vẫn có quan hệ với La Ha-ba-na.
-Hoàn toàn không. Xin mời ngài hút thử một điếu thuốc xì-gà. Nó thực
không phải là xì-gà La Ha-ba-na, nhưng nếu ngài sành hút thì nó chắc sẽ
hợp khẩu vị của ngài. Tôi lấy một điếu, hình dáng rất giống xì-gà La
Ha-ba-na loại tốt nhất, nhưng hình như được cuốn bằng những lá vàng óng.
Tôi châm lửa hút bên chiếc đèn lớn đặt trên một cái đế bằng đồng hun
rất đẹp, rồi hít một hơi dài với vẻ say sưa của một anh nghiện bị đói
thuốc lá đã hai ngày.
-Xì-gà ngon tuyệt, nhưng đây có thật là xì-gà không, thưa ngài?
-Tôi hỏi.
-Xì-gà
thật, nhưng không phải là của La Ha-ba-na hay Thổ Nhĩ Kỳ. Biển cung cấp
cho tôi loại tảo hiếm, có nhiều chất ni-cô-tin này. Bây giờ ngài còn
thèm xì-gà La Ha-ba-na không?
-Thưa thuyền trưởng, từ giờ phút này, tôi coi rẻ chúng rồi.
-Xin
ngài cứ hút thỏa thích và đừng hỏi về nguồn gốc của nó. Chẳng ai đánh
thuế nó cả, nhưng chẳng vì thế mà nó kém giá trị đi đâu.
-Ngược lại!
Lúc đó thuyền trưởng Nê-mô mở cánh cửa đối diện với cửa vào thư viện.
Thế là tôi bước sang phòng khách ánh sáng chói lòa. Đó là một gian phòng
lớn, dài mười mét, rộng sáu mét, cao năm mét. Mấy ngọn đèn giấu trên
trần tỏa ánh sáng xuống những vật báu bày trong phòng bảo tàng. Đúng,
đây là một phòng bảo tàng thực sự, nơi những tặng vật của thiên nhiên và
những tác phẩm nghệ thuật được một bàn tay tài hoa hợp lại. Khoảng ba
chục bức tranh của các họa sĩ vĩ đại trang hoàng xung quanh tường, xen
vào giữa là những lá chắn và áo giáp của các kỵ sĩ thời xưa. Đó là những
bức họa hết sức quý giá mà tôi đã được chiêm ngưỡng trong những phòng
tranh tư nhân ở châu Œu và những triển lãm nghệ thuật. Nhiều trường phái
hội họa cổ điển được trưng bày ở đây. Lời tiên đoán của thuyền trưởng
Nê-mô bắt đầu thành sự thật: tôi đã ngạc nhiên hết sức!
-Thưa giáo sư, -Nê-mô nói, -tôi mong ngài thứ lỗi cho về việc đón tiếp ngài quá đơn sơ, và phòng khách không được gọn gàng lắm.
-Thưa thuyền trưởng, -tôi trả lời, -tuy chưa hiểu biết gì về ngài, tôi vẫn mạnh dạn cho ngài là một họa sĩ!
-Nghiệp dư thôi, xưa kia tôi rất thích sưu tầm những tác phẩm rất ưu
tú do bàn tay con người làm ra. Tôi là người sưu tập say mê, không biết
mệt mỏi và đã tìm được mấy tác phẩm rất quý giá. Bộ tranh này là kỷ niệm
cuối cùng về mặt đất. Tôi xem những họa sĩ đương thời của ngài cũng như
các họa sĩ thời xưa. Thiên tài đâu có tuổi tác!
-Thế còn các nhà soạn nhạc?
-Tôi
chỉ vào các tác phẩm của Rốt-xi-ni, Mô-da, Be-tô-ven... bày la liệt
trên chiếc đại phong cầm, chiếm cả khoảng tường giữa hai cửa ra vào.
Thuyền trưởng Nê-mô trả lời:
-Đối với tôi, những nhạc sĩ này là những
người đồng thời với Oóc-phê-ux, vì khái niệm thời gian đã bị xóa nhòa
trong óc tôi... Thuyền trưởng im lặng và suy nghĩ lắng xuống. Tôi nhìn
kỹ khuôn mặt ông ta, lòng vô cùng xúc động, Nê-mô tựa vào cái bàn gỗ quý
và dường như đã quên bẵng tôi đi. Không muốn cản trở dòng suy nghĩ của
Nê-mô, tôi quay ra xem những vật báu. Những tác phẩm nghệ thuật được bày
cạnh những sản phẩm của thiên nhiên. Rong biển, vỏ ốc, vỏ trai và những
tặng vật khác của đại dương, chắc do bàn tay Nê-mô sưu tầm, chiếm một
vị trí nổi bật trong bộ sưu tập của ông ta. Giữa phòng khách có một bể
phun nước được điện chiếu sáng từ dưới lên. Trong mấy tủ kính rất đẹp,
những vật mẫu hiếm nhất của đại dương được xếp loại và dán nhãn bên
ngoài. Các bạn thử hình dung xem một người nghiên cứu tự nhiên như tôi
lúc đó sung sướng đến mức nào! ở những ngăn đặc biệt có từng chuỗi ngọc
trai đẹp tuyệt trần, óng ánh đủ màu sắc dưới ánh sáng điện, ngọc trai
màu hồng lấy từ đáy biển Đỏ; ngọc màu xanh, màu vàng, màu da trời, màu
đen -một sản phẩm kỳ lạ của loài nhuyễn thể ở tất cả các đại dương; cuối
cùng là những viên ngọc vô giá lấy từ loại trai lớn nhất và hiếm nhất.
Có mấy viên ngọc lớn hơn quả trứng chim câu, mỗi viên đều đắt hơn viên
ngọc mà nhà thám hiểm Ta-véc-ni-ê đã bán cho vua Ba Tư lấy ba triệu
đồng. Không thể xác định giá trị của bộ sưu tập này được. Thuyền trưởng
Nê-mô phải tốn hàng triệu đồng để mua những vật báu này. Tôi tự hỏi,
chẳng biết ông ta lấy tiền từ ở đâu để thỏa mãn những thích thú cầu kỳ
của mình? Nhưng ngay lúc đó Nê-mô bảo tôi:
-Ngài xem những vỏ trai, ốc của tôi đấy ạ? Đúng là chúng có thể làm
các nhà tự nhiên học thích thú, nhưng đối với tôi, chúng còn có một vẻ
quyến rũ đặc biệt vì tự tay tôi đã sưu tầm chúng và chẳng còn vùng biển
nào trên trái đất mà tôi chưa tìm đến.
-Thưa thuyền trưởng, tôi hiểu,
rất hiểu là ngài thú vị biết bao khi ngắm nhìn những vật báu của mình.
Và chúng lại do chính tay ngài sưu tầm được! Chẳng một Viện bảo tàng nào
ở châu Œu có nổi một bộ sưu tập động vật và thực vật biển phong phú như
thế này. Nhưng nếu tôi quá say sưa những vật này thì còn đầu óc đâu để
đi thăm tàu? Tôi hoàn toàn không muốn đi sâu vào những bí mật của ngài,
nhưng xin thú thực rằng, cấu tạo của tàu Nau-ti-lúx, những máy móc làm
cho tàu có tính cơ động lạ thường như vậy đã kích thích cao độ tính tò
mò của tôi! Trên tường phòng khách, tôi thấy những máy móc mà tôi không
rõ dùng để làm gì. Tôi có thể tìm hiểu được không ạ?
-Thưa giáo sư,
tôi đã nói rằng ngài được tự do trên tàu của tôi. Như vậy, không có chỗ
nào trên tàu Nau-ti-lúx này mà ngài không thể đặt chân tới! Ngài có thể
xem xét tất cả các bộ phận của tàu, và tôi xin sẵn lòng hướng dẫn ngài.
-Thưa
thuyền trưởng, tôi vô cùng cảm tạ ngài! Tôi sẽ không dám lạm dụng lòng
tốt của ngài! Chỉ xin ngài cho tôi được tìm hiểu công dụng của các dụng
cụ vật lý này...
-Thưa giáo sư, trong phòng tôi cũng có những máy móc y hệt như ở đây.
Tôi sẽ giải thích để ngài rõ công dụng. Nhưng trước hết, xin ngài hãy
cùng tôi xuống phòng đã chuẩn bị riêng cho ngài. Ngài cần biết mình sẽ
sống trên tàu Nau-ti-lúx thế nào! Tôi đi theo thuyền trưởng Nê-mô. Sau
khi đi qua một cánh cửa ở góc phòng khách, chúng tôi bước vào một hành
lang hẹp, chạy dọc thành tàu. Tới mũi tàu, Nê-mô dẫn tôi vào những căn
phòng rất đẹp, có gường, bàn rửa mặt và những tiện nghi khác. Tôi chỉ
còn biết cảm ơn người chủ nhà đáng yêu đó thôi.
-Phòng của ngài liền
với phòng tôi, -Nê-mô vừa nói vừa mở một cánh cửa khác, -phòng tôi lại
thông với phòng khác, nơi ta vừa ra. Phòng thuyền trưởng có vẻ khắc khổ
gần như nhà tu. Một chiếc gường sắt, một bàn làm việc, mấy cái ghế, một
chậu rửa mặt. Trong phòng tranh tối sáng. Chỉ có những đồ dùng cần thiết
nhất. Thuyền trưởng chỉ vào một chiếc ghế và bảo tôi:
-Mời ngài ngồi. Tôi ngồi xuống ghế, và Nê-mô bắt đầu giải thích.
Chương 12
Tất Cả Đều Chạy Bằng Điện!
-Thưa ngài, -thuyền trưởng Nê-mô chỉ vào các máy móc treo trên tường,
-đây là toàn bộ thiết bị dùng để điều khiển tàu Nau-ti-lúx. Tại đây,
cũng như trong phòng khách, chúng bao giờ cũng ở trước mặt tôi và bảo
cho tôi biết chiếc tàu đang ở điểm nào của đại dương và chỉ cả hướng đi
của tàu. Một số máy móc ngài đã quen thuộc. Đây là nhiệt kế để đo nhiệt
độ không khí trong tàu. Đây là áp kế để đo áp suất không khí, nhờ đó có
thể dự đoán thời tiết, ẩm kế để đo độ ẩm trong khí quyển. Đây là máy báo
bão và địa bàn hoặc chỉ đường đi; máy xác định vĩ độ bằng độ cao của
mặt trời; đồng hồ chính xác để xác định độ kinh. Và cuối cùng là những
thứ ống kính viễn vọng ban ngày và ban đêm mà tôi dùng để quan sát chân
trời mỗi khi tàu Nau-ti-lúx nổi lên trên mặt biển.
-Vâng, tất cả
những máy móc này đều là vật thông dụng của người đi biển mà tôi đã quen
thuộc từ lâu. Nhưng có những thứ chắc liên quan tới những đặc điểm của
việc điều khiển tàu ngầm. Như cái mặt đồng hồ lớn có kim chuyển động có
phải là áp kế không?
-Đúng là áp kế! Nó dùng để đo áp lực nước, nhờ đó ta xác định được độ sâu của con tàu.
-Còn đây là những máy thăm dò kiểu mới, phải không ạ?
-Vâng, đó là những máy đo nhiệt độ ở các lớp nước khác nhau.
-Thế còn những dụng cụ này? Tôi không hiểu chúng dùng làm gì?
-Thưa giáo sư, đến đây tôi cần giải thích đôi lời để ngài rõ. Chẳng
biết ngài có muốn nghe không? Ngừng một lát, thuyền trưởng Nê-mô nói
tiếp:
-Trong thiên nhiên có một sức mạnh hùng hậu, dễ điều khiển, dễ
sử dụng. Nó có thể ứng dụng vào nhiều trường hợp rất khác nhau và mọi
thứ trên tàu của tôi đều phục tùng nó. Tất cả đều xuất phát từ nó! Nó
chiếu sáng, sưởi ấm, làm máy móc hoạt động. Sức mạnh đó là điện năng.
-Điện năng?
-Tôi ngạc nhiên.
-Thưa ngài, vâng.
-Thưa
thuyền trưởng, tuy vậy tốc độ đặc biệt của chiếc tàu này có liên quan
gì với những khả năng của điện. Cho tới nay sức sống của điện năng vẫn
rất hạn chế và khả năng của nó hết sức không đáng kể.
-Thưa giáo sư, cách dùng điện lực trên tàu này rất khác với những cách thông thường. Tôi chỉ xin nói vắn tắt như vậy!
-Thưa
ngài, tôi không dám nài gì thêm. Nhưng lời giải thích vừa rồi của ngài
tuy ngắn nhưng đã làm tôi thỏa mãn. Thú thực là tôi rất sửng sốt. Chỉ
xin hỏi ngài thêm một điều. Tôi hy vọng sẽ được ngài giải đáp nếu ngài
không cho tôi là thiếu lịch sự. Những yếu tố dùng để tạo ra cái sức mạnh
kỳ diệu ấy chắc rất chóng cạn, phải không ạ? Kẽm chẳng hạn, ngài sẽ
thay thế bằng gì! Ngài có quan hệ gì với mặt đất đâu? Thuyền trưởng
Nê-mô nói:
-Tôi sẽ giải đáp câu hỏi của ngài. Trước hết xin nói để
ngài rõ rằng ở đáy biển có những lớp quặng kẽm, sắt, bạc, vàng, v.v...
Khai thác không khó gì lắm. Nhưng tôi không muốn sử dụng những của cải ở
dưới đất mà muốn mượn của biển cả số năng lượng cần thiết để chạy con
tàu này hơn.
-Mượn của biển cả, thưa ngài?
-Thưa giáo sư, vâng. Biển không thiếu gì loại năng lượng ấy. Tôi có
thể đặt dây cáp ở các độ sâu khác nhau để lấy điện do sự chênh lệch
nhiệt độ sinh ra. Nhưng tôi lại dùng một phương pháp thực tế hơn.
-Phương pháp nào ạ?
-Ngài
đã biết thành phần nước biển. Cứ một ngàn gam thì có 96,5% nước nguyên
chất, 2,66% clo-rua na-tri. Ngoài ra còn có một ít clo-rua ma-ge, và
clo-rua can-xi, bro-mua ma-ge, sun-phát ma-ge, sun-phát và can-xi
các-bo-nát. Ngài đã biết là clo-rua na-tri có nhiều trong nước biển.
Chính tôi đã tách nó ra khỏi nước biển để cung cấp cho các bình điện.
-Dùng clo-rua na-tri?
-Thưa
vâng. Clo-rua na-tri kết hợp với thủy ngân tạo nên chất hỗn hợp thay
thế được kẽm. Thủy ngân trong bình điện không bị phân hủy, chỉ có na-tri
là bị tiêu đi, mà na-tri thì đã có biển cung cấp. Hơn nữa, phải nói
rằng bình điện na-tri mạnh hơn bình điện kẽm ít nhất hai lần.
-Thưa
thuyền trưởng, tôi hiểu rõ tất cả những điểm ưu việt của na-tri trong
điều kiện cụ thể của ngài. Na-tri do biển cung cấp. Rất tốt! Nhưng vẫn
phải tách nó ra khỏi hợp chất clo-rua chứ. Ngài tách nó ra bằng cách
nào? Tất nhiên, các ắc-quy của ngài có thể dùng để phân hóa chất clo-rua
na-tri nhưng nếu tôi không lầm thì điện phân tiêu thụ rất nhiều na-tri.
Như vậy số na-tri bị mất đi sẽ lớn hơn số na-tri tách ra được!
-Thưa giáo sư, do đó tôi không tách na-tri ra bằng điện phân mà dùng than đá.
-Dùng than đá?
-Vâng, gọi là than đá biển cũng được.
-Nghĩa là ngài đã tìm ra phương thức khai thác than đá ngầm dưới biển!
-Thưa
giáo sư, ngài sẽ được thấy điều đó tận mắt. Chỉ xin giáo sư kiên nhẫn
một chút, vả lại còn rất nhiều thì giờ rỗi. Giáo sư chỉ cần nhớ một
điều: tôi chịu ơn biển cả về mọi mặt. Biển cả cho tôi điện, mà điện thì
cung cấp cho tàu Nau-ti-lúx nhiệt năng, cơ năng, ánh sáng, tóm lại là cả
sự sống.
-Nhưng không cung cấp không khí để thở?
-Ồ, tôi có thể làm được cả không khí, dưỡng khí tinh khiết nhất!
Nhưng không cần thiết phải làm như vậy, vì bất kỳ lúc nào tôi cũng có
thể cho tàu nổi lên mặt biển. Vả lại, nếu điện năng chưa tạo ra dưỡng
khí thì nó cũng có thể dùng để chạy những máy bơm rất mạnh nén không khí
trong những bình chứa đặc biệt, giúp tôi khi cần có thể cho tàu lặn lâu
dưới biển.
-Thưa thuyền trưởng, tôi khâm phục ngài! Việc ngài tìm ra
khả năng chạy máy của điện là một phát kiến khoa học! Tới một lúc nào
đó, mọi người sẽ hiểu điều này!
-Tôi không rõ họ có hiểu không? Thuyền trưởng Nê-mô lạnh lùng trả lời
-Nhưng
dù sao tôi cũng đã ứng dụng sức mạnh quý giá ấy một cách rộng rãi. Nó
rọi lên chúng ta một thứ ánh sáng đều và cố định mà mặt trời không có
được. Bây giờ mời ngài xem cái đồng hồ này: nó chạy bằng điện và rất
chính xác. Tôi đã chế tạo nó theo sơ đồ của I-ta-li-a và chia mặt đồng
hồ ra thành hai mươi bốn giờ, vì đối với tôi không có ngày đêm, không có
mặt trời, mặt trăng, mà chỉ có thứ ánh sáng nhân tạo này mà tôi mang
xuống đáy biển. Ngài thấy không, bây giờ là mười giờ sáng.
-Rất đúng.
-Và
đây là một ứng dụng khác của điện. Cái mặt đồng hồ đối với ngài dùng để
chỉ tốc độ của tàu Nau-ti-lúx. Nó nối với chân vịt bằng dây điện và
luôn luôn cho tôi biết tàu đang chạy với tốc độ nào. Ngài nhìn xem,
chúng ta đang đi quá mười lăm hải lý một giờ.
-Thật kỳ diệu!
-Tôi thốt lên.
-Quả
là ngài đã giải quyết đúng đắn nhiệm vụ ứng dụng một năng lượng mới mà
trong tương lai sẽ thay thế sức gió, sức nước và những động cơ hơi nước.
-Chúng ta chưa xem hết đâu, ngài A-rô-nắc ạ, -thuyền trưởng Nê-mô đứng dậy.
-Nếu ngài muốn, chúng ta sẽ xuống phía lái. Thế là tôi đã thực sự làm
quen với cấu trúc bên trong của chiếc tàu ngầm. Từ giữa tàu lên mũi tàu
có: phòng ăn dài năm mét cách thư viện một bức tường không thấm nước;
thư viện dài độ năm mét; phòng khách dài mười mét, cách phòng thuyền
trưởng (dài năm mét) cũng bằng một bức tường không thấm nước; bên cạnh
là phòng của tôi dài hai mét rưỡi; cuối cùng là khoang chứa không khí
dài bảy mét rưỡi. Tổng cộng ba mươi lăm mét! Những bức tường không thấm
nước và những cánh cửa đóng kín là những bảo vệ vững chắc, nếu bộ phận
nào đó trong tàu bị rò thủng. Tôi theo thuyền trưởng Nê-mô đi dọc những
hành lang hẹp và cuối cùng lại đến giữa tàu. ở đó có một phòng hẹp nằm
giữa hai bức tường không thấm nước. Một chiếc thang bắt vít chặt vào
chân tường, ghếch lên tới trần. Tôi hỏi Nê-mô, chiếc thang đó dẫn tới
đâu.
-Tới xuồng, -Nê-mô trả lời.
-Sao? Ngài có xuồng nữa à?
-Tôi hơi ngạc nhiên.
-Tất nhiên! Một chiếc xuồng tuyệt vời, vừa nhẹ, vừa chắc, dùng để dạo chơi và đánh cá.
-Nghĩa là ngài phải cho tàu nổi lên mặt biển để thả xuồng xuống nước?
-Hoàn toàn không phải thế! Xuồng được đặt ở một chỗ đặc biệt trên
boong tàu, phía lái. Nó có một cái nắp không thấm nước và được vít
bù-loong rất chặt. Chiếc thang này dẫn đến một cái nắp hẹp trên boong
tàu. Cái nắp này lại thông với một cái nắp khác cũng như vậy dưới đáy
xuồng. Tôi chui qua hai cái nắp đó để vào xuồng. Cái nắp trên boong đóng
lại ngay. Sau đó tôi đóng chặt cái nắp trong xuồng, rồi tháo bù-loong.
Xuồng lập tức nổi lên mặt nước. Tôi mở nắp xuồng, dựng cột buồm, rồi
chèo. Thế là tôi đã ở giữa biển khơi!
-Thế ngài trở về tàu bằng cách nào?
-Thưa giáo sư, tôi không trở về tàu theo lối cũ, mà chính tàu Nau-ti-lúx phải nổi lên mặt biển!
-Theo lệnh ngài?
-Vâng,
theo lệnh tôi. Xuồng được nối với tàu bằng dây điện. Tôi gọi điện xuống
tàu, thế là xong! Tôi ngắm nhìn tất cả những điều kỳ diệu đó rồi nói:
-Quả
thực không có gì có thể đơn giản hơn! Chúng tôi đi ngang qua một cánh
cửa mở vào một căn phòng nhỏ, dài không quá hai mét, nơi Công-xây và Nét
đang chén một bữa ngon tuyệt. Sau đó, cánh cửa bên cạnh mở, chúng tôi
ngó vào: đó là bếp dài ba mét, hai bên là kho chứa thực phẩm rộng. Điện
quả là tiện hơn bất kỳ một thứ hơi đốt nào. Mọi thứ đều được chế biến
bằng điện. Những dây điện chạy vào một cái máy làm bằng những tấm bạch
kim nhỏ, nung đỏ bạch kim lên và duy trì một nhiệt độ cần thiết để nấu
ăn. Điện còn dùng để chạy máy lọc cung cấp nước ngọt tinh khiết cho tàu.
Gần bếp là phòng tắm đầy đủ tiện nghi, có vòi nước nóng và nước lạnh...
Tiếp theo là phòng ở của thủy thủ dài năm mét. Nhưng cửa phòng đóng kín
nên tôi không xác định được số lượng người làm trên tàu. Bức tường
không thấm nước thứ tư ngăn phòng ở của thủy thủ với buồng máy. Chúng
tôi mở cửa bước vào buồng, nơi thuyền trưởng Nê-mô -một kỹ sư hạng nhất
-đặt các máy móc chạy tàu Nau-ti-lúx. Buồng máy dài khoảng hai mươi mét,
điện sáng trưng. Nó gồm hai phần: phần đầu có những ắc-quy sản ra điện
năng; phần sau gồm toàn máy móc. Tôi ngửi thấy ngay một mùi khó chịu
trong buồng máy. Thuyền trưởng Nê-mô nhận ra điều đó và nói:
-Ngài đã ngửi phải mùi của chất khí lấy ra từ na-tri. Nhưng cũng đành
chịu, biết làm thế nào? Tuy vậy, sáng nào tôi cũng thông gió rất kỹ
trong cả tàu. Tất nhiên tôi rất thú vị khi xem buồng máy của tàu
Nau-ti-lúx. Thuyền trưởng Nê-mô nói:
-Ngài thấy đấy, điện do ắc-quy
sản ra được đưa đến buồng máy, làm chạy động cơ điện. Những động cơ này
thông qua một hệ thống máy phức tạp làm quay chân vịt. Mặc dù chân vịt
có đường kính tới sáu mét, nó vẫn quay được với tốc độ một trăm hai mươi
vòng một giây.
-Và đẩy tàu chạy nhanh...
-Năm mươi hải lý một
giờ. ở đây có ẩn giấu một điều bí mật mà tôi không dám nài Nê-mô giải
thích. Điện sao có được cường độ cao như vậy? Cái năng lượng cực mạnh ấy
bắt đầu từ đâu?... Tôi hỏi:
-Thưa thuyền trưởng, những thành tựu của
ngài thật đã rõ ràng, tôi không dám đòi hỏi giải thích gì thêm. Tôi vẫn
chưa quên chuyện tàu Nau-ti-lúx đã chạy xung quanh tàu Lin-côn tài tình
và nhanh thế nào. Nhưng tốc độ cao chỉ là một mặt. Còn cần phải thấy
hướng đi của tàu. Còn cần biết cách lái tàu sang phải, sang trái, nổi
lên, lặn xuống nữa! Ngài làm thế nào để có thể lặn xuống biển sâu, nơi
áp suất lên tới một trăm át-mốt-phe? Làm thế nào để nổi lên mặt biển
được? Sau hết, làm thế nào để tàu chạy được ở mức nước do mình lựa chọn?
Nhưng hỏi ngài như vậy có lẽ hơi sỗ sàng, phải không ạ?
-Thưa giáo
sư, không sao cả, -Nê-mô trả lời sau giây lát ngập ngừng, -vì ngài sẽ
vĩnh viễn gắn bó với con tàu này. Bây giờ mời ngài vào phòng khách. ở đó
có một chỗ làm việc thật sự, ngài sẽ được biết tất cả những điều cần
biết về tàu Nau-ti-lúx.