Hai Vạn Dặm Dưới Biển - Chương 37 - 38
Chương 37
Băng Giá Mênh Mông
Tàu Nau-ti-lúx đi hoài về phía nam theo kinh tuyến 50. Chẳng lẽ nó hướng về Nam cực? Thật là vô lý! Mọi ý đồ lọt vào điểm đó của trái đất đều đã bị thất bại. Ngày 13 tháng 3 ở vùng Nam cực tương ứng với ngày 13 tháng 9 ở vùng bắc khi bắt đầu thời kỳ xuân thu phân. Ngày 14 tháng 3 ở gần độ vĩ 55o xuất hiện những tảng băng trôi màu xám như chì, cao chừng sáu, bảy mét, tạo thành những vật chướng ngại mà sóng biển xô vào ào ào. Tàu Nau-ti-lúx chạy trên mặt đại dương. Nét đã nhiều lần đến vùng biển Bắc cực nên đối với anh ta cảnh băng trôi chẳng có gì lạ. Còn tôi và Công-xây thì mới được thấy lần đầu. Từ chân trời phía nam kéo dài lên một dải trắng toát. Dù mây có dày đến đâu cũng không thể làm lu mờ được ánh cực quang đó. Cực quang là do đồng băng phản chiếu lên. Chẳng bao lâu xuất hiện những tảng băng lớn hơn. ánh sáng phát ra khi mạnh khi yếu và bị một làn sương dày bao phủ. Càng đi về phía nam, tàu càng hay gặp những đồng băng trôi, những núi băng ngày càng lớn. Hàng ngàn chim nam cực làm tổ trên đó. Chim báo bão kêu choáng tai. Những con chim khác tưởng tàu chúng tôi là cá voi, liền đậu lên rồi lấy mỏ mổ boong boong xuống vỏ thép. Trong thời gian tàu chạy giữa đồng băng, thuyền trưởng Nê-mô hay lên boong. ông ta đăm đăm nhìn cảnh băng giá mênh mông.
Thỉnh thoảng mắt Nê-mô lại sáng ngời lên. ông ta nghĩ gì trong giây
phút đó? ông ta cảm thấy mình là người chủ duy nhất của vùng biển Nam
cực này, của vùng băng hiểm trở và vô tận này chăng? Có lẽ thế. Nhưng
Nê-mô im lặng. ông ta đứng hàng giờ để trầm tư cho tới khi linh tính của
người thủy thủ kéo ông ta về thực tế. Lúc đó Nê-mô đích thân cầm lái
khéo đưa con tàu tránh những núi băng dài tới mấy hải lý và cao hơn mặt
biển bảy, tám mươi mét. Nhiều khi băng tạo thành những bức tường chặn
ngang đường. Gần độ vĩ 60o thì không còn nước tinh khiết nữa. Nhưng
Nê-mô thường nhanh chóng tìm ra được một khe nhỏ giữa những tảng băng và
mạnh dạn lái tàu vào... Nhiệt độ không khí xuống khá thấp. Nhiệt kế chỉ
-2o, -3o. Nhưng chúng tôi có đủ quần áo ấm may bằng da gấu và hải cẩu.
Tàu Nau-ti-lúx được sưởi nóng bằng điện, nhiệt độ trong tàu được điều
hòa và không phụ thuộc vào nhiệt độ không khí bên ngoài. Hơn nữa, chỉ
cần tàu lặn xuống mấy mét là chúng tôi thấy dễ chịu ngay.
Ngày 15
tháng 3 tàu đến vùng đảo Nam Sét-len và Nam Oóc-cơ-nây. Thuyền trưởng
Nê-mô kể với tôi rằng trước đây ở chỗ này có rất nhiều hải cẩu. Nhưng
bọn thợ săn cá voi người Anh và Mỹ đã giết hại bừa bãi những hải cẩu
lớn, tiêu diệt hoàn toàn loài thú này ở một vùng biển xưa kia đầy sự
sống và giờ đây chỉ còn một sự im lặng ghê người. Tàu Nau-ti-lúx chạy
dọc kinh tuyến 55 và vượt qua vòng Nam cực. Băng tấn công nó từ bốn
phía, thu hẹp dần đường chân trời lại. Nhưng thuyền trưởng Nê-mô vẫn cho
tàu chạy về phía nam.
-ông ta đi đâu vậy? -Tôi hỏi.
-Đi lung tung, -Công-xây trả lời.
-Bao giờ bươu đầu sứt trán thì sẽ dừng lại.
-Tôi không dám đoán chắc như vậy!
-Tôi
nói. Thật tình, chuyến đi đầy gian nguy này rất hợp ý tôi. Tôi không
thể tả sao cho hết được sự mê thích của mình trước cảnh hùng vĩ của miền
Nam cực!...
Nhiều khi bị băng vây hãm, chúng tôi chẳng thấy lối ra. Nhưng nhờ có bản năng tuyệt vời, thuyền trưởng Nê-mô chỉ thoáng nhìn là tìm ngay được những khe hở đưa tàu ra khỏi chỗ hiểm. Những tia nước màu xanh nhạt trên đồng băng đã chỉ đường cho Nê-mô. ông ta không bao giờ lầm lẫn trong việc lựa chọn đường đi. Chắc chắn là Nê-mô đã đến vùng biển băng Nam cực này nhiều lần. Tuy vậy, ngày 16 tháng 3 tàu cũng bị băng vây chặt không đi được. Đây chưa phải là băng vĩnh viễn mà chỉ là những cánh đồng băng rộng được gắn liền với nhau. Nhưng trở ngại đó không làm cho thuyền trưởng Nê-mô chùn bước. ông ta cho tàu lao thật nhanh vào đồng băng. Vỏ tàu Nau-ti-lúx bằng thép đâm thẳng vào khối băng giòn làm băng vỡ ra kêu răng rắc. Những mảnh băng bắn tung lên trời rồi rơi rào rào xuống quanh tàu. Do quán tính mà đôi khi tàu chồm lên băng rồi nhờ sức nặng mà phá vỡ nó. Trong những ngày này ở đây có gió giật mạnh. Sương mù dày đặc phủ xuống băng. Từ đầu này của boong tàu không thấy đầu kia. Gió hay đổi hướng đột ngột. Tuyết rơi ban đêm phủ lên boong tàu một lớp băng phải dùng cuốc chim nậy lên. Nói chung, khi nhiệt độ không khí xuống tới -5o thì tất cả các bộ phận bên ngoài của tàu đều bị băng phủ. Trong điều kiện đó, tàu buồm không thể hoạt động được. Chỉ tàu có động cơ điện không cần buồm và than mới có thể chạy ở vùng độ vĩ này. Phong vũ biểu chỉ rất thấp. Kim địa bàn chẳng đáng tin chút nào. Càng gần Nam cực nó càng chỉ linh tinh. Đành phải mang địa bàn đến các nơi khác nhau của tàu rồi lấy những thông số trung bình...
Cuối cùng, ngày 18 tháng 3, sau nhiều lần cố gắng mở đường không có
kết quả, tàu Nau-ti-lúx đã bị kẹt chặt vào băng. Đó chẳng phải là băng
khối, băng trôi, đồng băng, mà là một dải núi băng sừng sững như trường
thành. Đến giữa trưa, mặt trời ló ra. Thuyền trưởng Nê-mô xác định tọa
độ con tàu. Té ra chúng tôi đã tới 51o30’ độ kinh và 67o39’ độ vĩ nam,
nghĩa là đã tiến rất sâu vào châu Nam cực. ở đây chẳng thấy một chỗ nào
không đóng băng, chẳng có một chút nước tinh khiết nào! Trước mũi tàu
Nau-ti-lúx trải ra một dải băng mênh mông, sừng sững những tảng băng
khổng lồ hình hộp có cạnh thẳng đứng. Cảnh thiên nhiên buồn tẻ chìm
trong vắng lặng khắc khổ thỉnh thoảng mới có tiếng chim báo bão vỗ cánh.
Mọi vật kể cả tiếng động đều biến thành băng. Tàu Nau-ti-lúx buộc phải
ngừng lại giữa đồng băng.
-Thưa giáo sư, -Nét bảo tôi, -nếu thuyền trưởng của ngài vượt qua được chỗ này và đi tiếp...
-Thì sao?
-Thì ông ta cừ lắm!
-Sao lại cừ, ông Nét?
-Vì
chưa ai vượt qua được trở ngại này bao giờ. Thuyền trưởng của ngài rất
giỏi. Nhưng khốn thay, ông ta giỏi hơn thiên nhiên thế nào được! ở nơi
mà thiên nhiên đã định ranh giới thì dù muốn hay không cũng phải dừng
lại.
-Đúng thế, ông Nét ạ! Nhưng tôi vẫn muốn biết sau chỗ băng đóng này là cái gì. Bức tường trước mặt làm tôi bực mình vô cùng!
-Giáo sư nói phải, -Công-xây nhận xét.
-Những bức tường đó được dựng lên là để làm hỏng thần kinh của các nhà bác học. ở đâu thì tường cũng là trở ngại. Nét nói:
-Ai chẳng biết đằng sau chỗ băng này là cái gì!
-Là cái gì? -Tôi hỏi.
-Là băng, chỉ là băng thôi!
-ông có tin như vậy không, ông Nét? Tôi thì không tin. Chính vì vậy mà tôi muốn vượt qua chỗ băng này.
-Xin giáo sư hãy nghe tôi mà từ bỏ ý đồ ấy đi! -Nét trả lời.
-Chúng
ta đã đi tới chỗ băng đóng liền, thế là đủ rồi. Ngài, thuyền trưởng của
ngài và tàu Nau-ti-lúx không thể nhích lên một bước nào nữa đâu. Dù
muốn hay không thì chúng ta cũng phải quay về phương bắc, nghĩa là quay
về những nước có những người tử tế ở. Tôi phải thừa nhận Nét nói đúng về
một mặt: một khi tàu thuyền chưa được trang bị để hoạt động giữa đồng
băng thì chúng ta phải dừng lại ở ranh giới này. Thực vậy, mặc dù đã tìm
mọi cách phá băng, tàu Nau-ti-lúx vẫn không nhúc nhích được chút nào.
Trong những điều kiện bình thường, nếu tàu không thể tiếp tục hành trình
thì nó quay lại. Nhưng ở đây tàu không tới không lui được vì bị kẹt vào
giữa biển băng. Và nếu tàu cứ đứng mãi một chỗ thế này thì nó sẽ biến
thành băng nốt! Phải thừa nhận rằng hành động của Nê-mô là quá liều
lĩnh. Tôi đứng trên boong. Nê-mô hỏi tôi:
-Giáo sư thấy tình hình chúng ta thế nào?
-Thưa thuyền trưởng, tôi thấy chúng ta đang bị kẹt giữa biển băng.
-Bị kẹt? Tôi chưa hiểu ý giáo sư?
-Tôi
muốn nói, chúng ta sẽ không thể nhích lên hay lùi xuống, không thể sang
phải hay sang trái được nữa. Thế nghĩa là "bị kẹt" ạ?
-Như vậy, ngài cho rằng tàu Nau-ti-lúx không thể thoát ra khỏi biển băng chứ gì?
-Thưa thuyền trưởng, khó khăn lắm! Bây giờ đang ngày đông tháng giá, khó có thể trông cậy vào chuyện phá băng mà đi.
-Giáo sư quả là người rất trung thành với mình!
-Nê-mô trả lời có vẻ hơi mỉa mai.
-ở
đâu ngài cũng thấy khó khăn và trở ngại! Tôi xin tuyên bố rằng tàu
Nau-ti-lúx chẳng những sẽ ra khỏi biển băng mà còn tiếp tục tiến lên
phía trước.
-Tiến về phía nam ạ?
-Tôi nhìn Nê-mô.
-Vâng, đến tận Nam cực.
-Tận Nam cực?
-Tôi sửng sốt và không giấu được sự nghi ngờ của mình.
-Vâng,
-Nê-mô lạnh lùng trả lời, -đến tận Nam cực, đến một điểm chưa ai biết,
nơi tất cả các kinh tuyến trên trái đất giao nhau. Ngài biết đấy, tôi có
thể điều khiển tàu Nau-ti-lúx hoàn toàn theo ý muốn của mình. Vâng, tôi
đã biết! Tôi biết con người này dũng cảm đến mức liều lĩnh! Chỉ có
người mất trí mới hy vọng vượt qua những trở ngại chặn ngang đường đi
tới Nam cực, là nơi còn khó đến hơn Bắc cực, nơi mà những người đi biển
gan góc nhất đã tốn bao công sức mà vẫn phải bó tay. Tôi nảy ra ý định
hỏi Nê-mô xem thực tình ông ta đã tìm ra cái cực ghớm ghiếc này chưa.
-Thưa giáo sư, chưa, -Nê-mô trả lời.
-Chúng ta sẽ cùng nhau làm việc này. Cái gì người khác chưa làm được
thì tôi sẽ làm được. Chưa bao giờ tàu Nau-ti-lúx của tôi lại tiến sâu
vào vùng biển miền Nam thế này. Nhưng, tôi xin nhắc lại, nó sẽ vào sâu
hơn nữa.
-Thưa thuyền trưởng, tôi rất muốn tin ngài.
-Tôi hơi mỉa mai.
-Và
tôi vẫn tin ngài! Chúng ta cứ tiến lên phía trước! Đối với chúng ta
chẳng có gì là trở ngại! Chúng ta sẽ phá vỡ biển băng này. Nếu nó không
vỡ thì chúng ta sẽ chắp cánh cho tàu Nau-ti-lúx bay lên trên băng!
-Lên trên băng?
-Nê-mô bình thản.
-Không, không lên trên băng. Mà xuống dưới băng!
-Xuống dưới băng?
-Tôi
ngạc nhiên. Tôi bỗng hiểu rõ hết ý của Nê-mô. Những đặc tính của tàu
Nau-ti-lúx sẽ được miêu tả trong ý đồ táo bạo này của ông ta. Nê-mô mỉm
cười:
-Tôi thấy chúng ta bắt đầu hiểu nhau. Cái mà tàu bình thường
không làm nổi thì tàu Nau-ti-lúx sẽ thực hiện được. Nếu gần vòng đai Nam
cực mà có lục địa thì tàu sẽ dừng lại. Nếu không, nghĩa là nếu Nam cực
được đại dương bao quanh, thì chúng ta sẽ tới tận nơi!
-Có lẽ ngài nói đúng, -tôi bị Nê-mô lôi cuốn.
-Nếu mặt biển bị
đóng băng thì phía dưới vẫn là nước. Và nếu tôi không lầm thì phần băng
nổi bằng một phần tư phần băng chìm, phải không ạ?
- Thưa giáo sư,
gần như vậy! Những núi băng này không cao quá một trăm mét thì bề dày
của phần chìm dưới mặt biển không quá ba trăm mét. Đối với tàu
Nau-ti-lúx thì ba trăm mét có ý nghĩa gì!
-Thưa ngài, chẳng có nghĩa gì!
-Tàu Nau-ti-lúx có thể lặn xuống chỗ sâu nhất, nơi nhiệt độ ở tất cả
các độ vĩ đều bằng nhau. ở đó chúng ta chẳng sợ gì băng giá -30o hay
-40o làm mặt biển đóng băng lại.
-Thưa ngài, đúng vậy, hoàn toàn đúng vậy.
-Tôi phấn khởi.
-Chỉ có một khó khăn duy nhất là tàu phải ở dưới mặt biển mấy ngày liền, không thể nổi lên để lấy không khí được.
-Chỉ có thế thôi ạ?
-Tôi hỏi.
-Các bể chứa trên tàu rất lớn. Chúng ta sẽ bơm đầy không khí vào đó và sẽ không thiếu đâu!
-Ngài A-rô-nắc nói rất chí lý, -Nê-mô cười.
-Nhưng tôi không muốn ngài trách là liều lĩnh nên xin nói trước rằng phải dè chừng một điều.
-Điều gì ạ?
-Chỉ một điều thôi! Nếu Nam cực có biển thì biển có thể bị đóng băng dày. Lúc đó ta sẽ không cho tàu nổi lên được đâu!
-Thưa
thuyền trưởng, ngài quên rằng tàu Nau-ti-lúx có sức húc rất mạnh rồi
sao? Lẽ nào không thể cho tàu chạy ngược lên theo đường chéo và xuyên
thủng lớp băng trên mặt?
-Chà chà! Hôm nay giáo sư thật là nhanh trí! Tôi càng phấn khởi nói tiếp:
-Biết đâu chẳng gặp một vùng biển không bị đóng băng ở Nam cực?
-Tôi
cũng nghĩ như vậy, ngài A-rô-nắc ạ. Nhưng ngài cho phép tôi nhận xét là
sau khi đưa ra bao nhiêu lời phản bác lại dự án của tôi, giờ đây ngài
lại hết lời chứng minh là nó hợp lý. Thuyền trưởng Nê-mô nói đúng. Tôi
đã vượt ông ta về sự dũng cảm. Giờ đây tôi đang lôi cuốn ông ta đến Nam
cực. Nhưng tôi thật ngu dốt! Thuyền trưởng Nê-mô còn biết rõ những điểm
mạnh điểm yếu trong kế hoạch của mình hơn tôi nhiều. Thấy tôi say sưa
với những mơ ước viển vông, chắc ông ta phải buồn cười. Nhưng Nê-mô
không để mất thì giờ. ông ta gọi thuyền phó đến. Hai người trao đổi ý
kiến rất sôi nổi bằng một thứ tiếng khó hiểu. Chẳng biết vì được báo
trước hay thấy đề nghị đó có thể thực hiện được, nhưng viên thuyền phó
chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên chút nào. Công-xây còn thản nhiên hơn viên thuyền
phó khi nghe nói về ý định cho tàu chạy đến Nam cực. "Xin tùy giáo sư"
-Anh ta trả lời bằng câu cửa miệng như vậy và chẳng nói gì thêm nữa. Còn Nét thì nhún vai và bảo tôi:
-Thưa giáo sư, ngài và thuyền trưởng của ngài làm tôi phải ái ngại.
-Chúng tôi sẽ tìm ra Nam cực, ông Nét ạ!
-Có thể như vậy, nhưng chẳng có đường về đâu! Rồi Nét lui về phòng riêng.
Trong
khi đó, việc chuẩn bị cho đoàn thám hiểm của chúng tôi bắt đầu. Những
máy bơm rất mạnh trên tàu Nau-ti-lúx bơm đầy không khí vào các bể chứa
dưới áp suất cao. Đến gần bốn giờ, thuyền trưởng Nê-mô báo rằng nắp tàu
sắp đóng lại. Tôi đưa mắt nhìn lần cuối biển băng mênh mông mà chúng tôi
chuẩn bị vượt qua. Trời quang mây tạnh, không khí trong lành, mặc dù
khá lạnh -12o, nhưng vì lặng gió nên không buốt lắm. Mười thủy thủ mang
cuốc chim lên boong rồi bắt đầu nậy lớp băng bám quanh vỏ tàu. Việc này
không vất vả lắm vì lớp băng đó mỏng. Khi mọi việc đã xong, chúng tôi
lui vào trong tàu. Theo thường lệ, các bể chứa được bơm đầy. Tàu bắt đầu
lặn. Tôi và Công-xây vào phòng khách. Qua các cửa sổ để ngỏ, chúng tôi
có thể thấy được những lớp nước sâu của Nam Băng Dương. Thủy ngân trong
nhiệt kế lên dần. Kim đồng hồ chỉ độ sâu lệch về bên phải. ở độ sâu ba
trăm mét, như Nê-mô đã dự kiến, tàu xuống tới mặt dưới của lớp băng hình
sóng. Nhưng tàu vẫn lặn tiếp xuống sâu đến tám trăm mét. Nhiệt độ nước
không còn là -12o như trên mặt biển nữa mà là -11o. Thế là bớt đi được
một độ. Tất nhiên nhiệt độ trong tàu được các máy điện sưởi ấm còn cao
hơn nhiều. Tàu Nau-ti-lúx hoạt động chính xác vô cùng... ở độ sâu không
bị đóng băng này, tàu Nau-ti-lúx hướng thẳng về Nam cực với tốc độ trung
bình là hăm sáu hải lý một giờ, nghĩa là bằng xe lửa chạy nhanh. Nếu
tàu không giảm tốc độ thì bốn mươi tiếng đồng hồ nữa chúng tôi sẽ tới
Nam cực.
Tôi và Công-xây ở lại phòng khách đến khuya. Cảnh vật mới lạ
làm chúng tôi không rời mắt khỏi ô cửa. Nước biển lấp lánh dưới ánh đèn
pha. Nhưng xung quanh hoang vắng, chẳng có một chú cá nào sống ở vùng
nước đóng băng này. Thỉnh thoảng cá mới qua đây để tới những nơi ít băng
giá hơn. Tàu chạy rất nhanh nhưng chúng tôi chỉ cảm thấy qua sự rung
động của vỏ tàu bằng thép. Đến gần hai giờ sáng, tôi về phòng ngủ mấy
tiếng.
Công-xây cũng vậy. Khi đi dọc hành lang, tôi hy vọng gặp Nê-mô, nhưng
chắc ông ta đang ở phòng hoa tiêu. Hôm sau, 19 tháng 3, từ năm giờ
sáng, tôi đã sang phòng khách. Đồng hồ điện cho biết tàu chạy với tốc độ
trung bình. Tàu từ từ bơm nước ra khỏi các bể chứa và thận trọng nổi
dần lên. Tim tôi đập thình thịch. Liệu tàu có lên tới mặt biển không?
Biển ở Nam cực có bị đóng băng không? Nhưng tàu bỗng va mạnh vào mặt
dưới của biển băng. Thế là phía trên tàu chúng tôi là cả một lớp băng
dày hơn sáu trăm mét, dày hơn lớp băng nơi tàu lặn xuống! Tình hình này
gay go thật! Hôm đó, tàu Nau-ti-lúx mấy lần cố xuyên thủng lớp băng
nhưng đều thất bại. Tới chiều tối tình hình vẫn không thay đổi. Chiều
dày của lớp băng xê dịch giữa bốn và năm trăm mét. Băng có mỏng đi nhiều
nhưng từ con tàu đến mặt đại dương vẫn còn một khoảng cách khá lớn. Tám
giờ tối. Theo quy định thì tàu Nau-ti-lúx phải nổi lên để lấy không khí
từ bốn tiếng đồng hồ trước đó. Tuy vậy, tôi chưa cảm thấy thiếu không
khí lắm, và thuyền trưởng Nê-mô cũng chưa dùng tới các bể chứa dự trữ.
Đêm hôm đó tôi ngủ không ngon, trong lòng vừa hoảng sợ vừa nhen nhóm một
niềm hy vọng. Mấy lần tôi bật dậy khỏi giường. Tàu Nau-ti-lúx thỉnh
thoảng lại thăm dò lớp băng phía trên. Đến gần ba giờ sáng, các máy móc
trong phòng khách cho tôi biết phần dưới của đồng băng chỉ dày có năm
mươi mét. Chúng tôi chỉ còn cách mặt biển có năm mươi mét! Tôi không rời
mắt khỏi đồng hồ chỉ độ sâu. Tàu đang nổi dần lên theo một đường chéo.
Lớp băng mỏng dần. Cuối cùng, sáu giờ sáng ngày 19 tháng 3 đáng ghi nhớ
ấy, cửa phòng khách mở ra. Thuyền trưởng Nê-mô bước vào và nói:
-Biển!
Chương 38
Nam Cực
Tôi chạy lên boong. Đúng là biển rồi! Chỉ có mấy khối băng trôi rải
rác đây đó. Xung quanh là biển nước mênh mông. Hàng ngàn chim bay lượn
trên trời, hằng ức triệu cá bơi dưới nước. Tùy tính chất đáy biển nước
chuyển từ màu xanh thẫm sang màu xanh lá cây. Nhiệt kế chỉ -3o. Sau khi
vượt qua biển băng, dường như chúng tôi vừa gặp một mùa xuân tươi mát!
-Đây là Nam cực ạ? -Tôi hỏi Nê-mô, lòng bồi hồi xúc động.
-Tôi không rõ. Đến giữa trưa tôi sẽ xác định tọa độ.
-Nhưng liệu có thấy được mặt trời qua lớp sương mù dày đặc không?
-Chỉ cần ló ra một tí là đủ.
Cách tàu Nau-ti-lúx mười hải lý về phía nam, chúng tôi thấy một hòn
đảo đơn độc, cao hơn mặt biển hai trăm mét. Tàu từ từ tiến vào gần đảo,
có lẽ quanh đảo có những mỏm đá ngầm. Một tiếng đồng hồ sau, tàu đến sát
đảo. Hai giờ sau thì đi quanh đảo được một vòng. Chu vi đảo khoảng bốn,
năm hải lý. Một eo biển hẹp ngăn đảo với đất liền, có thể là một lục
địa. Sở dĩ khó xác định là vì dải đất chạy khuất sau chân trời. Sợ mắc
cạn, tàu Nau-ti-lúx dừng lại cách bờ hơn năm trăm mét. Một chiếc xuồng
được hạ xuống nước. Thuyền trưởng, hai thủy thủ mang theo các máy đo,
Công-xây và tôi ngồi vào xuồng. Lúc đó là chín giờ sáng. Hôm nay tôi
chẳng thấy Nét đâu. Có lẽ anh ta khăng khăng giữ ý kiến của mình, mặc dù
đã gần tới Nam cực. Chỉ mấy mái chèo là xuồng đã tới bờ cát. Công-xây
định nhảy lên bờ nhưng tôi ngăn lại.
-Thưa thuyền trưởng, -Tôi nói, -ngài có vinh dự là người đầu tiên đặt chân lên mảnh đất này.
-Vâng,
thưa giáo sư. Tôi không do dự gì khi bước lên mảnh đất Nam cực, nơi
chưa có dấu chân người đặt tới! Nói đoạn, Nê-mô nhẹ nhàng nhảy lên bờ.
Tôi thấy ông ta rất xúc động. Sau khi leo lên một vách đá dựng lên ở
ngoài cùng, Nê-mô dừng lại, tay khoanh trước ngực. ông ta đứng trong tư
thế trầm lặng và trang trọng ấy, tựa như đang tiếp nhận quyền sở hữu đối
với vùng đất đai này. Năm phút trôi qua, Nê-mô bảo tôi:
-Xin mời ngài! Tôi liền nhảy ra khỏi xuồng, theo sau là Công-xây. Hai
thủy thủ ở lại xuồng. Dải đất mênh mông này đỏ như màu gạch. Xỉ than,
những vết tích dung nham chứng tỏ đất ở đây có nguồn gốc núi lửa. ở đôi
chỗ từ lòng đất bốc lên những làn khói có mùi lưu huỳnh. Rõ ràng là hoạt
động bên trong của núi lửa chưa chấm dứt. Nhưng khi lên tới mỏm đá cao,
tôi chẳng thấy một quả núi lửa nào trong khoảng mấy hải lý... Thực vật
trên hòn đảo hoang vắng này rất nghèo nàn. Bờ biển đầy nhuyễn thể, ngoài
ra còn có một số san hô hình cây. Nhưng cuộc sống trên bầu trời mới
thật nhộn nhịp! Hàng ngàn chim thuộc nhiều loại khác nhau vừa bay lượn
vừa kêu nhức óc. Hàng ngàn con đậu trên các mỏm đá lơ láo nhìn chúng tôi
và đàng hoàng dạo chơi ngay cạnh chỗ chúng tôi đứng. Đó là những con
chim panh-goanh rất nhanh nhẹn dưới nước nhưng rất nặng nề vụng dại trên
cạn. Chúng tụ tập từng đàn lớn, ít hoạt động nhưng hay kêu la ầm ĩ. Vào
cách bờ nửa hải lý nữa, chúng tôi thấy mặt đất đầy tổ chim panh-goanh.
Thuyền trưởng Nê-mô tổ chức săn bắt được mấy trăm con chim này. Thịt
panh-goanh màu thẫm nhưng rất ngon. Tiếng nó kêu giống tiếng lừa hí.
Chim panh-goanh to bằng con ngỗng, ngực trắng. Chúng không thèm lẩn trốn
nên bị trúng đá là lăn quay ra! Sương mù chưa tan. Đã mười một giờ trưa
mà chẳng thấy mặt trời. Tôi rất sốt ruột. Nếu không có mặt trời thì còn
quan sát được gì nữa? Và làm thế nào để xác định được rằng đã tới Nam
cực hay chưa? Tôi bước đến chỗ Nê-mô. ông ta đứng tì tay vào mỏm đá và
nhìn lên trời. Hình như Nê-mô cũng bồn chồn, lo lắng. Nhưng biết làm thế
nào? Con người quả cảm và cương nghị ấy không đủ quyền lực để điều
khiển được mặt trời như đã chế ngự biển cả! Đến trưa, mặt trời vẫn biệt
tăm. Sương mù vẫn không cho phép xác định độ cao của mặt trời. Một lát
sau sương mù chuyển thành bão tuyết.
-Ta chờ đến mai, -Nê-mô nói.
Chúng tôi quay về tàu Nau-ti-lúx. Trong khi chúng tôi vắng mặt, thủy thủ trên tàu buông lưới. Về đến tàu, tôi rất hứng thú bắt tay vào nghiên cứu những con cá vừa bắt được. Vùng biển Nam cực là nơi di cư quy mô của các loài cá trốn bão ở các độ vĩ thấp hơn. Cơn bão tuyết hoành hành đến sáng. Không ai đứng nổi trên boong. Từ phòng khách, nơi tôi ghi chép tất cả những biến cố của cuộc thám hiểm châu Nam cực, tôi nghe tiếng kêu của chim báo bão vẫn bay lượn không kể gì bão tuyết. Tàu Nau-ti-lúx chạy thêm mười hải lý nữa dọc bờ biển về phía nam. Xung quanh tranh tối tranh sáng. Hôm sau, 20 tháng 3, cơn bão tuyết chấm dứt. Trời hơi lạnh hơn. Nhiệt kế chỉ -2o. Sương mù bốc lên cao làm tôi hy vọng hôm nay có thể xác định được tọa độ. Thuyền trưởng Nê-mô chưa lên boong, nhưng chiếc xuồng đã sẵn sàng cho chúng tôi sử dụng. Tôi và Công-xây chèo xuồng lên bờ. Đất ở đây có nguồn gốc núi lửa. Nhưng nhìn mãi tôi cũng không phát hiện được miệng núi. ở đây cũng như trên đảo, ngàn vạn chim chóc làm cho cảnh thiên nhiên khắc khổ của Nam cực tươi vui lên. ở đây còn có hàng ngàn động vật có vú nhìn chúng tôi bằng những cặp mắt hiền lành. Có đủ loại hải cẩu, một số nằm trên bờ, một số nằm trên những tảng băng. Số khác thì ngụp lặn dưới nước rồi lại ngoi lên. Chúng chẳng sợ gì chúng tôi. Rõ ràng là chúng chưa gặp người bao giờ. Chúng sống thành bầy: hải cẩu đực trông nom săn sóc gia đình, hải cẩu cái cho con bú. Những chú choai choai thì đùa giỡn ở phía xa. Hải cẩu di chuyển trên mặt đất một cách khó nhọc. Chúng nhảy từng bước ngắn rất vụng về. Nhưng ở môi trường nước thân thuộc thì chúng lại bơi rất cừ. Trên mặt nước và khi bò lên cạn để nghỉ, hải cẩu có tư thế rất đẹp. Tôi lưu ý Công-xây về sự phát triển bán cầu não của loài động vật thông minh này. Ngoài con người, không động vật có vú nào có bộ não phát triển như vậy. Vì vậy, hải cẩu dễ dạy, dễ thuần dưỡng. Tôi đồng ý với các nhà tự nhiên học cho rằng, nếu thuần dưỡng tốt thì hải cẩu có thể rất có ích trong việc đánh cá biển, giống như chó săn vậy. Trong đám hải cẩu thỉnh thoảng lẫn vào một số voi biển giống như hải cẩu, nhưng có vòi ngắn và linh hoạt, thân hình đồ sộ cao tới sáu mét, dài tới mười mét. Thấy chúng tôi xuất hiện, chúng cũng chẳng thèm động đậy.
-Những con vật này có nguy hiểm không ạ?
-Công-xây hỏi tôi.
-Nếu
không động vào chúng thì chẳng nguy hiểm gì. Nhưng khi hải cẩu bảo vệ
con thì chúng ghê gớm lắm. Đã có lần hải cẩu phá tan một chiếc tàu đánh
cá.
-Giống vật có quyền xử sự như vậy, -Công-xây nói.
-Đúng thế.
Chúng tôi đi thêm hai hải lý nữa. Đến đây có nhiều mỏm đá lởm chởm chặn
ngang đường. Những mỏm đá này nhô lên mặt biển theo chiều thẳng đứng,
từng làn sóng bạc xô vào dưới chân. Từ phía bên kia vọng tới tiếng rống
ầm ầm, tựa như ở đó có cả một bầy động vật thuộc loài nhai lại. Công-xây
nói:
-Chà, nghe như bò đang hòa nhạc!
-Anh lầm rồi! Đó là hải mã.
-Chúng đang đánh nhau ạ?
-Hoặc đang đánh nhau, hoặc đang đùa nghịch.
-Xin giáo sư cho ngó qua một chút.
-Phải ngó qua chứ. Thế là chúng tôi bước lại dọc những mỏm đá ba-dan
đen, trên những tảng đá đóng băng trơn tuột. Nhiều lần tôi bị ngã, sườn
đau ê ẩm. Công-xây vì thận trọng hơn hay cứng chân hơn nên không vấp
ngã, và mỗi lần nâng tôi dậy lại nói:
-Nếu giáo sư chịu khó bước dài ra một chút thì dễ giữ thăng bằng hơn.
Trèo
tới đỉnh núi đá, tôi thấy trước mặt trải ra một cánh đồng tuyết bao la
trên đó có vô số hải mã thân màu thẫm. Chúng đang đùa nghịch. Tiếng rống
biểu hiện sự vui thích chứ không phải sự giận dữ. Hải mã rất giống hải
cẩu về hình thể. Nhưng hàm dưới chúng không có răng nanh và răng cửa. ở
hàm trên, răng nanh lại là hai cái ngà, mỗi cái dài tám mươi cen-ti-mét,
chu vi ba mươi cen-ti-mét. Ngà hải mã rắn chắc hơn ngà voi, vì vậy quý
hơn. Vì quý hơn nên hải mã bị săn bắt bừa bãi đến nỗi sắp bị tiêu diệt
hoàn toàn. Bọn thợ săn mỗi năm bắn giết cả hải mã cái, cả hải mã con, có
tới hơn bốn ngàn con. Khi đi ngang qua những con vật kỳ lạ này, tôi có
dịp ngắm chúng một cách thoải mái. Da hải mã dày, nhăn nheo, lông hơi
hung đỏ, ngắn và không dày lắm. Một số hải mã dài tới bốn mét. Hải mã ở
đây bình thản và bạo dạn hơn hải mã Bắc cực nên không cần có con canh
gác cho cả bầy. Ngắm nhìn hải mã hồi lâu, tôi bắt đầu nghĩ đến chuyện
quay về tàu. Đã mười một giờ. Nếu thuyền trưởng Nê-mô cho rằng có thể
xác định được tọa độ thì tôi cũng muốn có mặt lúc đó. Nhưng tôi ít hy
vọng rằng mặt trời sẽ ló ra, vì mây đang phủ kín cả bầu trời. Dù sao tôi
cũng quyết định quay về tàu Nau-ti-lúx. Đến mười một giờ rưỡi chúng tôi
về tới chỗ đổ bộ. Tôi thấy ngay thuyền trưởng Nê-mô. ông ta đang đứng
trên một tảng đá ba-dan, cạnh đó là những máy móc thiên văn. Nê-mô phóng
mắt nhìn chân trời phía bắc.
Tôi lặng lẽ đứng cạnh Nê-mô. Đã đến
mười hai giờ nhưng mặt trời vẫn chưa ló ra. Thế là chúng tôi lại thất
bại, không sao xác định được tọa độ. Nếu trưa mai vẫn không thấy mặt
trời thì đành phải bỏ ý định này. Hôm nay là 20 tháng 3. Mai là ngày
xuân phân, mặt trời sẽ khuất sau chân trời, sẽ bắt đầu đêm Nam cực dài
dằng dặc... Tôi tỏ ý lo ngại với thuyền trưởng Nê-mô.
-Giáo sư lo là đúng, -Nê-mô nói.
-Nếu ngày mai tôi không xác định được độ cao của mặt trời thì việc
này phải hoãn lại sáu tháng nữa. Nhưng nếu trưa mai mặt trời ló ra thì
xác định độ cao sẽ hết sức dễ dàng vì tình cờ mà chúng ta đến vùng biển
này đúng trước ngày xuân phân! Thuyền trưởng Nê-mô quay về tàu. Chúng
tôi tha thẩn dọc bờ biển tới năm giờ chiều, vừa đi vừa quan sát, trò
chuyện, phân loại sinh vật. Chúng tôi chẳng gặp một vật gì lạ ngoài một
quả trứng panh-goanh. Ai ưa của lạ hẳn sẽ mua ngay quả trứng này với giá
một ngàn phrăng. Trứng màu xanh thẫm điểm nhiều vết ngoằn ngoèo như chữ
Hán. Thật là một vật hiếm ngộ nghĩnh. Tôi giao trứng cho Công-xây. Anh
ta nâng niu nó như một cái bình cổ Trung Quốc và mang lên tàu. Tôi đặt
trứng vào một ngăn tủ kính của bảo tàng. Sau đó chúng tôi ăn tối rất
ngon miệng. Bữa tối có món gan hải cẩu, vị giống như mỡ lợn tươi. Hôm
sau 21 tháng 3, năm giờ sáng tôi lên boong. Thuyền trưởng Nê-mô đã ở đó.
-Thời tiết có sáng sủa hơn một chút, -Nê-mô nói.
-Có
hy vọng. Ăn sáng xong, chúng ta sẽ lên bờ tìm một chỗ thuận tiện để
quan sát. Sau khi đã thống nhất kế hoạch, tôi đi tìm Nét Len. Tôi muốn
mang anh ta đi theo. Mặc dù tôi đã hết sức thuyết phục, anh chàng ương
bướng ấy vẫn từ chối. Tôi thấy sự u uất, cáu kỉnh của Nét ngày càng tăng
lên. Tuy vậy, trong tình huống này, tính ương bướng của anh ta không
làm tôi buồn phiền lắm. Trên bờ có nhiều hải cẩu, đưa anh ta lên chỉ làm
cho hải cẩu chết oan thôi! Ăn sáng xong, tôi lên bờ. Đêm qua, tàu
Nau-ti-lúx đi thêm được mấy hải lý nữa. Giờ đây nó đỗ cách bờ một hải
lý... Trên xuồng, ngoài tôi ra còn có thuyền trưởng, hai thủy thủ và mấy
dụng cụ đơn giản: đồng hồ chính xác, kính viễn vọng và phong vũ biểu.
Đến chín giờ, chúng tôi áp xuồng vào bờ. Trời đã sáng rõ. Mây kéo về
phía nam. Mặt biển lạnh giá giũ làn sương mù ra khỏi mình. Thuyền trưởng
Nê-mô tiến thẳng lên đỉnh ngọn núi mà ông ta chọn làm nơi quan sát. Mặc
dù Nê-mô như mất thói quen đi trên bộ, ông ta vẫn leo lên các mỏm đá
dốc đứng một cách khéo kéo, khiến cho những người trèo núi giỏi nhất
cũng phải ghen tị. Tôi vất vả lắm mới theo kịp Nê-mô. Chúng tôi trèo núi
mất hai tiếng đồng hồ. Từ đỉnh cao, tầm mắt chúng tôi bao quát được mặt
biển bao la tới chân trời. Phía dưới chúng tôi là đồng tuyết trắng long
lanh. Trên đầu chúng tôi là bầu trời trong vắt không một gợn mây! Như
một quả cầu đỏ bị chân trời cắt đôi mặt trời ló ra ở phía bắc! Từ dưới
biển sâu xuất hiện trăm ngàn tia nước đẹp tuyệt vời. Tàu Nau-ti-lúx ở
phía xa trông hệt như một con cá đang ngủ. Đằng sau chúng tôi, ở phía
đông là khoảng đất mênh mông, ngổn ngang những mỏm đá và băng tuyết! Lên
tới đỉnh núi, thuyền trưởng Nê-mô dùng phong vũ biểu đo rất kỹ độ cao
của nó so với mặt biển để trên cơ sở những số liệu đó chỉnh lý những
quan sát của mình. Đến mười hai giờ kém mười lăm, mặt trời nhô hẳn lên
khỏi chân trời như một cái đĩa vàng và rọi những tia sáng cuối cùng lên
cái lục địa hoang vắng này, lên vùng biển mà chưa một con tàu thuyền nào
tới! Thuyền trưởng Nê-mô dùng kính viễn vọng quan sát mặt trời đang lặn
xuống chân trời. Tôi cầm đồng hồ chính xác trong tay. Tim tôi đập mạnh.
Nếu mặt trời khuất một nửa sau chân trời đúng vào mười hai giờ trưa thì
đúng là chúng tôi đang ở giữa Nam cực!
-Đúng mười hai giờ!
-Tôi reo lên.
-Nam cực!
-Thuyền trưởng
Nê-mô nói một cách trang trọng rồi trao cho tôi ống kính. Tôi đưa mắt
nhìn: mặt trời đang bị chân trời cắt đôi. Trong lúc đó, thuyền trưởng
Nê-mô đặt tay lên vai tôi rồi nói:
-Năm 1600, Ghê-rích, người Hà Lan,
bị bão dạt tới độ vĩ 64o nam và phát hiện ra quần đảo Niu Sét-len. Ngày
17 tháng giêng năm 1773, thuyền trưởng Cúc nổi tiếng theo kinh tuyến 38
đã đi tới độ vĩ 67o37’, và năm 1774 ngày 30 tháng giêng theo kinh tuyến
109 đã đi tới độ vĩ 71o15’. Năm 1819 nhà đi biển người Nga là
Ben-lin-xhao-den tới vĩ tuyến 69o, năm 1821 tới vĩ tuyến ở 111o kinh
tây. Năm 1820, Bran-xphin, người Anh, đã tới vĩ tuyến 65o. Cũng năm đó.
Mo-ren, người Mỹ, thuật lại, tuy không đáng tin lắm, rằng đã phát hiện
ra vùng biển không bị đóng băng ở độ vĩ 70o19’. Năm 1825, Pao-oen, người
Anh, vì vướng băng nên không vượt qua được độ vĩ 62o. Cùng năm đó, một
người Anh đi săn hải cẩu là Oét-đen đã tới độ vĩ 72o14’ ở kinh tuyến 35
và 74o15’ ở kinh tuyến 36. Năm 1829, Pho-xtơ, người Anh, chỉ huy tàu
San-tơ-clơ, phát hiện ra lục địa Nam cực ở độ vĩ 63o26’ và 66o26’.
Ngày 1 tháng giêng năm 1831, Bit-xcô, người Anh, phát hiện ra đất
En-đơc-bi ở độ vĩ 68o50’, ngày 5 tháng 2 năm 1832 tìm ra đất A-đê-la-ít ở
độ vĩ 67o; ngày 21 tháng 2 tìm ra đất Gre-hem ở độ vĩ 64o45’. Năm 1838,
Đuy-mông Đuyếc-vin, người Pháp, bị băng kẹt ở độ vĩ 62o57’ đã phát hiện
ra đất Lu-i Phi-líp. Hai năm sau, ngày 21 tháng giêng, Đuyếc-vin đã
phát hiện ra đảo A-đê-li ở độ vĩ 66o30’. Năm 1838, Uyn-cơ, tới được vĩ
tuyến 69 trên kinh tuyến 100. Năm 1839, Be-le-ni, người Anh, phát hiện
ra đất Xa-brin ở ranh giới vòng cực quyền. Cuối cùng, ngày 12 tháng
giêng năm 1842, Giem-rôx, người Anh, đi trên tàu ‰-rê-bux và Te-rơ, phát
hiện ra đất Vic-to-ri-a ở độ vĩ 67o56’ và độ kinh 171o07’. Ngày 23
tháng ấy, ông ta tới vĩ tuyến 74, ngày 27 đến độ vĩ 76o08’, ngày 28 đến
độ vĩ 77o32’, ngày 2 tháng 2 đến độ vĩ 78o04’. Năm 1842 ông ta lại đi
Nam cực nhưng không vượt qua được độ vĩ 71o. Tôi, thuyền trưởng Nê-mô,
ngày 21 tháng 3 năm 1868 đã tới Nam cực ở 90o vĩ nam và tuyên bố quyền
sở hữu đối với phần đất đai rộng bằng một phần sáu tất cả các lục địa đã
được phát hiện.
-Nhân danh ai, thưa thuyền trưởng?
-Nhân danh cá
nhân tôi! Nói đoạn, Nê-mô giương cao ngọn cờ đen có thêu chữ "N" màu
vàng. Rồi Nê-mô hướng về phía mặt trời lúc đó đang rọi những tia sáng
cuối cùng xuống mặt biển bao la và nói:
-Vĩnh biệt mặt trời! Ngươi
hãy khuất đi, hãy ra khỏi giới hạn của vùng biển tự do này. Hãy để cho
đêm Nam cực dài sáu tháng phủ lên vùng đất mới của ta!