Vương quốc của những giấc mơ - Judith McNaught - Chương 1
Chương 1
“Nâng ly mừng Công tước Claymore và cô dâu của ngài!”
Trong những hoàn cảnh bình thường, thì một lời kêu gọi nâng ly chúc mừng trong
đám cưới sẽ khiến cho các quý ông và quý bà trong những bộ quần áo sang trọng tụ
tập trong sảnh lớn của lâu đài Merrick cười và chúc mừng. Những cốc rượu sẽ được
giơ lên và mọi người càng đề nghị nâng ly nhiều hơn để chúc mừng cho một đám cưới
sang trọng và xa hoa như đám cưới sẽ diễn ra tại miền Nam Scotland này.
Nhưng không phải ngày hôm nay. Không phải tại đám cưới này.
Tại đám cưới này, không một lời chúc tụng và không một ai nâng ly. Tại đám cưới
này, tất cả mọi người đều nhìn nhau, và ai ai cũng căng thẳng. Gia đình của cô
dâu căng thẳng. Gia đình chú rể cũng căng thẳng. Các vị khách mời và những người
hầu và đầy tớ trong sảnh đường đều căng thẳng. Ngay cả vị Bá tước đầu tiên của
Merrick, trong bức chân dung ngài treo phía trên lò sưởi trông cũng có vẻ căng
thẳng.
“Hãy nâng ly chúc mừng Công tước Claymore và cô dâu của ngài!” người em trai của
chú rể lại tuyên bố, giọng nói của anh như tiếng sét xé toạc sự im lặng không
bình thường như trước cơn bão giữa đám đông trong đại sảnh.
“Chúc cho đôi uyên ương sẽ sống bên nhau hạnh phúc mãi mãi.”
Thông thường, lời chúc xưa đó sẽ mang đến những phản ứng dễ đoán như: Chú rể
luôn luôn mỉm cười tự hào bởi vì chàng tin rằng mình đã dành được điều gì đó
tuyệt vời. Cô dâu cũng sẽ mỉm cười bởi vì nàng đã thuyết phục được chàng tin
vào điều đó. Các vị khách mỉm cười vì, trong giới quý tộc, một đám cưới có nghĩa
là mối liên kết giữa hai gia đình quan trọng và hai sự sản to lớn – mà bản thân
nó đã là sự kiện đáng ăn mừng và hân hoan khác thường.
Nhưng không phải ngày hôm nay. Không phải trong ngày 14 tháng Mười năm 1497
này. Để chúc mừng, em trai chú rể nâng cao ly trên tay mình và mỉm cười với
chàng. Bạn bè của chú rể cũng nâng ly của họ và mỉm cười cứng ngắc hướng về
phía gia đình cô dâu. Gia đình cô dâu nâng cao ly của họ và cười lạnh lùng với
nhau. Chú rể, dường như là người duy nhất không để ý đến sự tiếp đón lạnh nhạt
trong sảnh đường, nâng ly và cười bình thản với cô dâu của chàng, nhưng nụ cười
không chạm đến mắt chàng.
Cô dâu chẳng thiết cười với bất kì người nào. Trông nàng giận dữ và chống đối.
Sự thật, Jennifer điên tiết đến mức nàng chẳng hề biết đến bất kì ai ở đó. Hiện
giờ, mỗi thớ thịt trên người nàng đều tập trung cầu mong một cách tuyệt vọng sự
xuất hiện của Chúa, do không chú ý hoặc là thiếu quan tâm, đến mức để cho nàng
phải đi đến kết cục này. “Chúa ơi,” nàng kêu lên trong câm lặng, cố nén sự
hoảng sợ đang dâng lên trong cổ họng nàng, “nếu Người muốn làm gì đó để ngăn
cản cuộc hôn nhân này, Người cần phải làm điều đó thật nhanh lên, hoặc là sẽ
quá muộn trong năm phút nữa! Chắc chắn, con đáng được nhận thứ gì đó tốt hơn là
buộc phải cưới người đàn ông đã cướp đi sự trong trắng của con! Con đã không tự
nguyện dâng hiến cho hắn ta, Người biết mà!”
Nhận thấy tội lỗi khi trách cứ Đấng Tối cao, nàng vội chuyển sang van nài: “Chẳng
phải con đã luôn luôn cố gắng phục vụ Người hết lòng đó sao?” nàng thì thầm
trong đầu. “Chẳng phải con đã luôn luôn vâng phục Người?”
“KHÔNG PHẢI LUÔN LUÔN, JENNIFER,” giọng nói của Chúa Trời vang rền trong
đầu nàng.
“Cũng gần như vậy mà,” Jennifer chữa lại một cách thành thật. “Con đã
tham dự cầu kinh mỗi ngày, trừ những khi con thật sự ốm, mà chuyện này rất ít xảy
ra, và con cũng cầu nguyện mỗi sáng và mỗi tối. Gần như mỗi tối,” nàng vội
vã chữa lại trước khi lương tâm nàng có thể phản bác một lần nữa, “trừ khi
con ngủ gật trước khi kết thúc lời cầu nguyện. Và con đã cố gắng, con thật sự
đã cố gắng trở thành một sơ tốt như là tu viện đòi hỏi. Người biết là con đã cố
gắng nhiều như thế nào mà! Lạy Chúa,” nàng kết thúc trong tuyệt vọng, “nếu
Người cứu con thoát khỏi cảnh này, con sẽ không bao giờ bướng bỉnh và bốc đồng
một lần nữa.”
“ĐIỀU ĐÓ THÌ TA KHÔNG TIN ĐƯỢC, JENNIFER,” Chúa Trời nói một cách hồ
nghi.
“Không, con xin thề đấy,” nàng sốt sắng đáp lại, cố chèo kéo mặc cả. “Con
sẽ làm bất cứ điều gì Người mong muốn, con sẽ đi thẳng về tu viện và hiến đời
con để cầu nguyện và –”
“Giao kèo hôn nhân đã được kí kết. Hãy đưa cha đạo vào,” Ngài Balfour ra lệnh,
và hơi thở của Jennifer trở nên dồn dập, kinh hoàng, mọi ý nghĩ về những dự định
cống hiến biến mất khỏi trí óc nàng. “Chúa ơi,” nàng van nài, “tại
sao Người lại để điều này xảy ra cho con? Người sẽ không để điều này xảy ra chứ,
phải không?”
Im lặng trải ra trên khắp đại sảnh khi cánh cửa mở ra.
“CÓ ĐẤY, JENNIFER, TA SẼ LÀM NHƯ VẬY ĐẤY.”
Đám đông tự động tách ra cho cha xứ đi qua, và Jennifer cảm giác như cuộc đời
nàng sắp đến hồi kết thúc. Chồng nàng bước vào vị trí bên cạnh nàng, và
Jennifer vội tránh ra một inch, dạ dày nàng rối tung lên với sự uất hận và nhục
nhã khi phải chịu đựng sự hiện diện của chàng. Giá như nàng biết được một hành
động vô tình có thể kết thúc bằng một thảm họa và sự ô nhục như thế này. Giá
như nàng đã không bốc đồng và vô tâm đến thế!
Nhắm mắt lại, Jennifer bỏ qua những gương mặt thù địch của người Anh và những
gương mặt đằng đằng sát khí của những người họ hàng Scotland của nàng, và trong
tâm trí nàng phải đối diện với một sự thật: Chính sự bốc đồng và vô tâm, hai lỗi
lầm lớn nhất của nàng, đã khiến nàng phải chịu kết cục thảm khốc này – cũng
chính những tính cách này đã khiến nàng gây ra phần lớn những hành động rồ dại
của nàng. Hai tính cách này kết hợp với niềm mong mỏi chiếm được tình yêu của
cha nàng, như ông đã yêu những đứa con riêng của vợ ông, đã khiến cho nàng tự
huỷ hoại đời mình:
Khi nàng mười lăm tuổi, chính những thứ này đã xui khiến nàng cố gắng trả thù
người anh trai khác mẹ quỷ quyệt, hằn học của mình bằng một cách dường như là
đúng và đáng trọng – đó là bí mật mặc áo giáp của người Merrick vào và sau đó
cưỡi ngựa đấu với anh ta, một cách công bằng trong một trận thách đấu. Hành động
sai lầm kinh khủng đó đã dành cho nàng một trận đòn khủng khiếp từ cha nàng
ngay trên trường đấu – và chỉ có một chút xíu tự thoả mãn khi nàng đánh ngã được
người anh khác mẹ khỏi con ngựa của anh ta!
Một năm trước đó, cũng chính những tính cách đó đã làm cho nàng hành xử theo một
cách tồi tệ khiến ngài Balder già huỷ hôn, và bằng cách đó đã huỷ hoại giấc mơ
gắn kết hai gia đình của cha nàng. Với tất cả những việc này, đến lượt nó, đã
khiến nàng bị tống vào tu viện ở Belkirk, nơi mà, bảy tuần sau, đã biến nàng
thành con mồi dễ dàng cho đạo quân hung tàn của Sói Đen.
Và giờ đây, vì tất cả những điều đó, nàng bị ép buộc phải cưới kẻ thù của mình;
một chiến binh dã man người Anh, người mà đạo quân của hắn đã chà đạp đất nước
của nàng, người đàn ông đã bắt giữ nàng, cầm tù nàng, cưỡng đoạt trinh tiết của
nàng, và huỷ hoại danh dự của nàng.
Nhưng bây giờ tất cả đã quá muộn cho những lời cầu nguyện và thề hứa. Số phận của
nàng đã bị trói buộc kể từ giây phút mà, vào bẩy tuần trước, nàng đã dẫm vào đường
đi của gã quái vật kiêu ngạo đứng bên cạnh nàng, bị buộc chặt vào hắn như trong
bữa tiệc gà gô.
Jennifer cay đắng nghĩ. Không, trước cả khi đó – nàng đã vô tình đi vào con đường
dẫn tới thảm hoạ trong ngày hôm ấy khi không tin vào những lời cảnh báo đạo
quân của Sói Đen đang tiến đến gần.
Nhưng tại sao nàng lại phải tin cơ chứ, Jennifer kêu lên trong nỗ lực tự bảo vệ
mình. “Con Sói đang tiến quân về phía chúng ta!” đã trở thành một tiếng
kêu hoảng hốt thường thấy hàng tuần trong suốt năm năm trời qua. Nhưng vào cái
ngày hôm ấy, bảy tuần trước đây, thì nó đã là sự thật.
Đám đông trong đại sảnh chuyển động không ngừng, tìm kiếm một dấu hiệu của cha
sứ, nhưng Jennifer đã chìm trong những hồi tưởng của nàng về ngày hôm đó…
Hôm đó, dường như là một ngày đẹp trời khác thường, bầu trời xanh một màu xanh
tươi mát, không khí êm dịu. Mặt trời toả sáng xuống tu viện, tắm những mái nhọn
và khung vòm tuyệt đẹp kiểu Gô-thic của nó trong muôn vàn tia sáng vàng chói lọi,
chiếu sáng trên đầu ngôi làng Belkirk nhỏ bé còn đang ngái ngủ, ngôi làng chỉ
có một tu viện, hai cửa hàng, ba mươi tư ngôi nhà tranh, và một cái giếng bằng
đá đặt ở trung tâm của làng, nơi các cư dân tụ tập trong những chiều Chúa nhật,
giống như là họ đang làm lúc này. Trên một ngọn đồi xa xa, người chăn cừu đang
chăm sóc bầy cừu của mình, trong khi ở trên một bãi cỏ không xa cái giếng,
Jennifer đang chơi trò bịt mắt bắt dê với lũ trẻ mồ côi mà tu viện đã giao cho
nàng trông nom.
Như thể bằng cách nào đó mà nàng có thể thay đổi các sự kiện bằng cách diễn lại
chúng trong trí óc mình, Jennifer nhắm mắt lại, và thình lình nàng lại quay về
đứng trên bãi cỏ nhỏ đó với lũ trẻ, đầu bị bịt chặt bởi miếng bịt mắt của người
đuổi bắt…
“Em ở đâu, Tom MacGivern?” nàng gọi, cánh tay giơ ra, giả như nàng không thể
xác định được tiếng cười khúc khích của cậu bé 9 tuổi mà tai nàng đã nói cho
nàng biết là chỉ cách phía bên phải của nàng khoảng 1 foot. Nheo mắt dưới tấm vải
bịt, nàng đóng giả như một tên “quái vật” cổ điển bằng cách giữ hai tay trên
cao, ngón tay xoè ra như móng vuốt, và bắt đầu, kêu lên bằng giọng trầm đục
đáng sợ “Người không thể thoát khỏi ta, Tom MacGivern.”
“Ha!” cậu bé hét lên từ bên phải nàng. “Ngươi không tìm được ta đâu, kẻ đuổi bắt!”
“Ta sẽ tìm được ngươi!” Jenny đe dọa, rồi nàng chầm chậm quay sang trái, khiến
cho đám trẻ đang trốn sau mấy cái cây và núp trong bụi cây phá lên cười.
“Ta bắt được ngươi rồi!” Jenny kêu lên đắc thắng vài phút sau đó khi nàng nhào
xuống một đứa trẻ đang vừa lẩn tránh vừa cười khúc khích, tóm lấy một thân hình
bé nhỏ trong tay nàng. Thở hổn hển vì cười, Jenny tháo tấm bịt mắt của nàng ra
và nhìn xuống đứa trẻ nàng bắt được, không để ý thấy bộ tóc màu đỏ rực đang chảy
xuống vai và cánh tay nàng.
“Chị bắt được Mary!” những đứa trẻ nhao nhao lên. “Bây giờ Mary là kẻ đuổi bắt!”
Cô bé 5 tuổi nhỏ xinh ngước nhìn lên Jenny, đôi mắt nâu mở to sợ hãi, cơ thể nhỏ
bé run lên vì sợ. “Làm ơn,” cô bé thì thào, bám vào chân Jenny, “Em – em không
muốn mang khăn bịt mắt – Trong đó tối lắm. Em có phải mang cái đó không ạ?”
Mỉm cười làm yên lòng cô bé, Jenny nhẹ nhàng gạt tóc Mary ra khỏi khuôn mặt gầy
gò của bé. “Em không phải nếu em không muốn.”
“Em sợ tối,” Mary nhắc lại một cách không cần thiết, đôi vai nhỏ co lại vì xấu
hổ.
Bế cô bé trên tay, Jenny ôm bé thật chặt. “Ai cũng sợ một cái gì đấy,” nàng nói
và thêm vào một cách hóm hỉnh, “Tại sao ư, tại vì chị cũng sợ - sợ những con ếch!”
Lời thú nhận không mấy thật thà này làm cho cô bé con cười sung sướng.
“Ếch á!” cô bé nhắc lại, “Em thích chúng! Chúng không hề làm em sợ chút nào!”
“Thấy chưa,” Jenny nói khi hạ cô bé xuống đất. “Em rất can đảm. Can đảm hơn cả
chị đấy!”
“Chị Jenny sợ những con ếch ngốc nghếch!” Mary kể cho nhóm bạn nghe khi chúng
đi lên phía trước.
“Không đúng-” cậu trẻ Tom cãi lại, hăng hái bào chữa cho chị Jenny xinh đẹp,
người mà bất chấp địa vị cao quý của mình, luôn luôn hăng hái làm mọi việc – kể
cả việc kéo váy lên và lội qua cái ao để giúp cậu bắt một con ếch bự chảng – hoặc
là trèo lên một cái cây, nhanh nhẹn như một con mèo, để cứu cậu bé Will tội
nghiệp khi cậu sợ đến nỗi không trèo xuống được.
Tom im tịt trước cái nhìn cảnh cáo của Jenny và không nói thêm gì nữa về nỗi sợ
tưởng tượng của nàng với những con ếch. “Em sẽ mang tấm bịt mắt,” cậu bé tình
nguyện, ngưỡng mộ nhìn ngắm cô gái mười bảy tuổi đang mặc bộ váy áo của nữ sơ tập
sự, người mà hoàn toàn không phải và cũng không hề hành xử như một nữ sơ. Tại
sao ư, vì Chúa nhật trước đó trong suốt buổi hành lễ dài lê thê của cha xứ, đầu
của Jenny cứ gật liên hồi, và chỉ nhờ có tiếng ho giả to tướng của Tom phát ra
từ phía sau ghế nàng ngồi mới khiến cho nàng chợt bừng tỉnh thoát khỏi ánh mắt
soi mói sắc như dao của tu viện trưởng.
“Đến lượt Tom mang tấm bịt mắt nhé,” Jenny đồng ý ngay, đưa cho Tom miếng vải.
Mỉm cười, nàng nhìn lũ trẻ nhảy vào những chỗ trốn ưa thích của chúng, sau đó
nàng nhặt lên tấm khăn trùm mỏng bằng len dùng để giả làm kẻ đuổi bắt. Định đi
qua cái giếng nơi dân làng đang háo hức hỏi thăm một người từ đi ngang qua
Belkirk trên đường về nhà từ chiến trường Cornwall với người Anh, nàng nâng tấm
khăn lên, định mặc vào.
“Thưa tiểu thư Jennifer!” Một trong những người dân làng bất ngờ gọi, “Cô mau lại
đây – có tin tức của lãnh chúa.
Mạng che mặt và tấm khăn trùm để quên trên tay, Jenny bắt đầu chạy và những đứa
trẻ khi cảm thấy sắp có chuyện gì hay, ngay lập tức ngừng chơi và chạy theo
nàng.
“Có tin gì vậy?” Jenny hỏi không ra hơi, ánh mắt nàng dò xét những khuôn mặt lạnh
của đám lính. Một trong số họ bước lên trước, lịch sự hạ mũ của anh ta xuống và
giữ bên một cánh tay. “Tiểu thư có phải là con gái của lãnh chúa Merrick?”
Ngay khi nghe thấy cái tên Merrick, hai trong số những người đàn ông cạnh cái
giếng đột nhiên dừng việc kéo gầu nước lên và trao đổi với nhau những cái liếc
mắt hiểm ác trước khi họ nhanh chóng cúi đầu xuống, giữ khuôn mặt trong bóng
râm. “Vâng,” Jenny trả lời nhanh chóng. “Ngài có tin tức gì từ cha ta không?”
“Có, thưa tiểu thư. Đức ông đang đến, không xa đằng sau chúng tôi, với cả một đội
quân.”
“Lạy Chúa,” Jenny thở dài. “Trận chiến ở Cornwall thế nào?” nàng hỏi sau một
chút ngập ngừng, giờ đây sẵn sàng quên hết những lo lắng của bản thân mình để
dành hết sự quan tâm cho trận chiến của người Scot diễn ra tại Cornwall để ủng
hộ cho Vua James và Edward V chống lại vua nước Anh.
Khuôn mặt người lính nói lên câu trả lời ngay cả trước khi anh ta cất lời:
“Trận chiến đã kết thúc khi chúng tôi rời đi. Ở Cork và Taunton đáng lẽ ra
chúng ta đã thắng, và ở Cornwall cũng vậy, cho đến khi tên quỷ đó đích thân đến
để điều khiển quân đội của Henry.”
“Tên quỷ?” Jenny vô tình nhắc lại.
Sự hận thù hằn trên khuôn mặt người đàn ông và anh giậm chân xuống đất.
“Phải, tên quỷ - Chính là Sói Đen, cầu cho hắn bị đầy xuống địa ngục nơi mà hắn
được sinh ra.”
Hai người phụ nữ làm dấu thánh như thể để gột bỏ quỷ dữ khi nhắc đến cái tên
Sói Đen, kẻ thù đáng sợ nhất và đáng căm hận nhất, nhưng những lời tiếp theo của
người đàn ông làm họ càng sợ hãi hơn: “Con Sói đang quay lại Scotland. Henry đã
cử hắn tới đây với một đội quân mới để bẻ gẫy sự ủng hộ của chúng ta đối với
Vua Edward. Mọi người hãy nhớ lời tôi, sẽ là chết chóc và tắm máu như lần trước
hắn tới đây, thậm chí là tồi tệ hơn. Quân đội đang nhanh chóng trở về nhà và sẵn
sàng cho cuộc chiến mới. Tôi nghĩ Con Sói sẽ tấn công Merrick trước tiên, trước
bất kì ai trong chúng ta, bởi vì đội quân của cha tiểu thư đã tiêu diệt rất nhiều
quân Anh trong trận Cornwall.”
Nói rồi, người đàn ông lịch sự cúi chào, đội mũ vào, rồi quăng mình lên ngựa của
anh ta.
Đám đông lo lắng quanh cái giếng nhanh chóng giải tán sau đó, hướng về con đường
cắt ngang cánh đồng và bao quanh những ngọn đồi.
Tuy nhiên, hai người đàn ông nọ không tiếp tục đi theo con đường nữa. Một khi
tách khỏi tầm nhìn của dân làng, họ ngoặt vào bên phải, tìm ngựa và lén lút phi
vào trong rừng.
Nếu như Jenny để ý quan sát, thì nàng có thể thấy một thoáng hai người đàn ông
lẩn vào rừng khi họ cho ngựa chạy ngay cạnh con đường nàng đi. Nhung vào lúc
đó, tâm trí nàng đang sợ hãi cũng như những người dân ở Belkirk, vì họ nằm ở vị
trí chắn giữa người Anh và lãnh địa Merrick.
“Con Sói đang đến!” một người phụ nữ kêu lên, ôm chặt đứa con của bà ta vào
lòng. “Lạy Chúa thương lấy chúng con.”
“Hắn sẽ tấn công Merrick,” một người đàn ông nói, giọng nói run lên sợ hãi.
“Hắn muốn chiếm pháo đài Merrick, nhưng làng Belkirk sẽ bị nghiền nát trên đường
hắn đi.”
Ngay lập tức không khí dường như bị bao phủ bởi những dự đoán kinh hoàng về hoả
hoạn và cái chết và sự tàn sát, và những đứa trẻ bao quanh Jenny, bám vào nàng
trong sợ hãi. Đối với người Scot, dù là nhà quý tộc giàu có hay là người dân
làng nghèo khổ, Sói Đen còn độc ác hơn cả quỷ dữ, và nguy hiểm hơn nhiều, vì quỷ
dữ chỉ là tinh thần, còn hắn là người bằng xương bằng thịt – một tên Chúa Quỷ
đang sống – một kẻ huỷ diệt đe dọa đến sự tồn tại của họ, ngay trên mặt đất
này. Hắn là bóng ma hiểm độc mà người Scot dùng để dọa nhau hành xử cho tốt.
“Con Sói sẽ đến bắt con,” là câu dọa mà người lớn thường dùng đối với những đứa
trẻ nghịch ngợm trong rừng hay là rời giường vào buổi tối, hoặc là không nghe lời.
Mất hết bình tĩnh đối với những câu chuyện mà đối với nàng nhiều tính huyền bí
hơn là sự thật, Jenny cao giọng hòng được nghe thấy giữa đám huyên náo. “Có vẻ
như là,” nàng nói, vòng tay ôm những đứa trẻ đang sợ hãi đang bu quanh nàng khi
nghe thấy cái tên Sói Đen, “hắn sẽ quay về với tên vua ngu dốt của hắn để liếm
láp những vết thương chúng ta đã gây ra cho hắn ở Cornwall trong khi hắn kể lể
những điều dối trá để thổi phồng chiến thắng của mình. Và nếu không làm thế, hắn
sẽ chọn một pháo đài yếu hơn Merrick để tấn công – một nơi mà hắn có cơ hội với
tới được.”
Những lời lẽ và giọng điệu vui nhộn của nàng làm những cái nhìn ngơ ngác hướng
về phía nàng, nhưng đó hoàn toàn không phải là sự làm ra vẻ dũng cảm giả tạo đã
khiến cho Jenny nói vậy: Nàng đã là một Merrick, và một Merrick không bao giờ đầu
hàng sợ hãi trước bất kì kẻ nào. Nàng đã được nghe điều đó hàng trăm lần khi
cha nàng nói với những người anh em kế của nàng, và nàng đã tự áp đặt điều đó
cho bản thân. Thêm nữa, những người dân đã làm bọn trẻ sợ, và nàng không muốn
tiếp tục làm thế.
Mary kéo váy của Jenny để làm nàng chú ý, và nói bằng giọng lí nhí sợ sệt, cô
bé hỏi, “Chị không sợ Sói Đen ư, chị Jenny?”
“Tất nhiên là không rồi!” Jenny nói với nụ cười sáng rỡ, chắc chắn.
“Họ nói rằng,” cậu trẻ Tom xen ngang sợ hãi, “con Sói cao lớn như là một cái
cây vậy!”
“Một cái cây!” Jenny cười, cố gắng sáng tác một câu đùa thật hay về con Sói và
tất cả những truyền thuyết bao quanh hắn ta. “Nếu thế, thì sẽ rất là đáng xem
khi mà hắn ta cố gắng trèo lên ngựa! Tại sao á, tại vì như thế thì hắn ta sẽ cần
tới bốn người hầu mới kéo được hắn lên ngựa!”
Hình ảnh ngớ ngẩn đó làm vài đứa trẻ bật cười, y như là Jenny đã hi vọng.
“Em nghe nói,” cậu trẻ Will lại nói với một cái rùng mình, “hắn đốn hạ những bức
tường bằng tay không và uống máu người!”
“Đúng vậy!” Jenny nói với một cái nháy mắt. “Và chính vì thực đơn duy nhất đó
khiến cho hắn độc ác đến vậy. Khi hắn đến Belkirk, chúng ta sẽ mời hắn ăn vài
món Scot ngon lành.”
“Bố em nói rằng,” một đứa trẻ khác lại lên tiếng, “hắn mang theo một tên khổng
lồ bên cạnh hắn, một tên quái vật Golia tên là Arik, kẻ mang theo một cái rìu
chiến khổng lồ để chẻ đôi bọn trẻ con…”
“Em còn nghe –” một đứa trẻ khác lại chen vào.
Jenny ngắt lời nhẹ nhàng, “Để chị kể cho các em nghe điều chị nghe được nhé.” Với
một nụ cười rạng rỡ, nàng bắt đầu lùa đám trẻ về hướng tu viện, chỉ cách một tầm
nhìn ở phía dưới con đường. “Chị nghe rằng,” nàng ứng biến một cách vui vẻ, “hắn
ta già đến nỗi mà hắn phải nheo mắt lại để nhìn, như thế này này –”
Nàng làm khuôn mặt biến dạng trong nỗ lực bắt chước một người mù dở trông ngớ
ngẩn nhìn ra xung quanh một cách trống rỗng và là lũ trẻ cười.
Trên đường đi, Jenny tiếp tục bịa ra những câu nhận xét vui vẻ trêu đùa như thế
và lũ trẻ bị cuốn vào trò chơi, thêm vào những nhận xét của chúng để làm cho
con Sói trông có vẻ ngớ ngẩn.
Nhưng bất chấp những tiếng cười và sự hoan hỉ lúc đó, bầu trời đột ngột tối sầm
lại khi một đám mây đen kéo tới, và không khí trở nên lạnh lẽo, làm áo choàng đập
vào người Jenny, như thể chính tự nhiên cũng bị rúng động khi đề cập tới một
con quỷ như vậy.
Jenny sắp sửa đưa ra một câu đùa nữa về sự phung phí của con Sói, nàng ngưng giữa
chừng khi nhìn thấy một nhóm lính đang bao quanh tu viện, đi về phía nàng ở dưới
con đường. Một cô gái xinh đẹp, cũng mặc quần áo như Jenny trong bộ váy màu
xám, khăn choàng màu trắng và một tấm choàng đầu màu xám của nữ tu tập sự, đang
cưỡi ngựa phía trước người dẫn đầu, ngồi nghiêm trang một bên yên ngựa của ông,
khuôn mặt tươi cười của cô khẳng định điều mà Jenny đã biết.
Lòng rộn ràng, Jenny bắt đầu chạy xuống đồi, cố gắng kiềm chế cử chỉ nôn nóng
không ra dáng tiểu thư của mình và nàng đứng nguyên tại chỗ. Đôi mắt nàng hướng
tới cha nàng, rồi tới những người đồng bào của nàng, những người đang nhìn nàng
với cùng một ánh mắt không thiện cảm trong nhiều năm trời qua – kể từ khi người
anh kế thêu dệt thành công những câu chuyện dối trá của hắn.
Nghiêm nghị bảo lũ trẻ vào bên trong tu viện, Jenny chờ ở giữa đường một khoảng
thời gian dường như dài vô tận cho đến khi cuối cùng nhóm người cũng tiến tới
trước mặt nàng.
Cha nàng, rõ ràng là có ý dừng lại trước tu viện nơi mà Brenna, người em gái kế
của nàng, cũng đang ở. Ông xuống ngựa, rồi quay sang trái để đỡ Brenna xuống.
Jenny hơi bực vì sự chậm trễ này, nhưng sự quan tâm quá tỉ mỉ đối với những lễ
nghi và danh dự càng chứng tỏ ông là một người đàn ông tuyệt vời như thế nào,
điều đó làm cho nàng cười.
Cuối cùng, ông cũng hoàn toàn quay lại với nàng, mở rộng vòng tay. Jenny lao
vào vòng tay cha, ôm ông thật chặt, thổn thức trong niềm vui vô bờ: “Cha, con
nhớ cha biết bao! Đã gần hai năm rồi con mới được gặp cha! Cha khoẻ không?
Trông cha mạnh lắm. Cha hầu như không thay đổi gì cả!”
Nhẹ nhàng nới lỏng vòng tay của nàng khỏi cổ mình, Lãnh chúa Merrick đưa con
gái ra xa một chút khi ông quan sát từ bộ tóc rối bù của nàng, đôi má ửng hồng,
và bộ quần áo đặc biệt nhàu nhĩ. Jenny cảm thấy lúng túng trước sự quan sát kĩ
lưỡng của cha, thầm cầu mong ông sẽ chấp nhận những gì ông nhìn thấy và vì hiển
nhiên là ông đã dừng chân tại tu viện, nên một bản tường trình của tu viện trưởng
sẽ làm ông hài lòng.
Hai năm trước, những hành xử không đúng của nàng đã khiến nàng bị đày tới tu viện
này; một năm trước, Brenna được gửi tới đây vì lí do an toàn khi chiến tranh xảy
ra. Dưới sự hướng dẫn nghiêm khắc của tu viện trưởng, Jenny đã học cách phát
huy các điểm mạnh và khắc phục những lỗi lầm của nàng. Nhưng khi cha nàng quan
sát nàng từ đầu tới chân, nàng không khỏi thắc mắc liệu ông có nhìn thấy cô thiếu
nữ trẻ trung bây giờ hay ông nhìn thấy cô gái bất trị vô lối của hai năm trước.
Đôi mắt xanh của ông cuối cùng cũng nhìn vào mặt nàng và có một nụ cười trên
đó. “Con đã trở thành phụ nữ rồi, Jennifer.”
Jenny thấy trái tim hò reo sung sướng; đối với người cha khó tính của nàng, thì
một lời nhận xét như thế cũng bằng với một lời khen. “Con cũng đã thay đổi ở những
chỗ khác nữa, cha ạ,” nàng hứa, đôi mắt nàng toả sáng. “Con đã thay đổi rất rất
nhiều.”
“Không nhiều đến thế đâu, con gái.” Nhướn đôi lông mày rậm bạc trắng lên, ông
nhìn thẳng vào khăn trùm đầu và khăn choàng trên tay Jenny.
“Ô!” Jenny nói, vừa cười vừa giải thích. “Con đang chơi trò bịt mắt bắt dê… với
lũ trẻ, và để cả hai thứ thì không vừa khi bịt mắt. Cha đã gặp mẹ tu viện trưởng
chưa? Mẹ bề trên Ambrose đã nói gì với cha?”
Nụ cười nở ra trong đôi mắt ảm đạm của lãnh chúa. “Bà bảo với ta,” ông trả lời
“rằng con có thói quen ngồi trên đỉnh đồi và nhìn lên trời, mơ mộng, nghe có vẻ
quen nhỉ, con gái. Và bà cũng nói với ta con thường gật gù giữa buổi giảng
kinh, mỗi khi cha xứ kéo dài thời gian rao giảng hơn con nghĩ, mà điều này nghe
cũng có vẻ quen.”
Trái tim Jenny trùng xuống trước sự phản bội đến từ phía bà xơ mà nàng ngưỡng mộ.
Một nghĩa nào đó, Mẹ bề trên Ambrose là lãnh chúa trong phạm vi điều khiển của
bà, bà điều hành mọi sự sản từ đến ruộng đến vật nuôi thuộc về tu viện này, ngồi
ở ghế chủ tọa bất kì khi nào có khách viếng thăm, và giải quyết các vấn đề liên
quan đến những tá điền làm việc trên đất của tu viện cũng như những nữ tu sống
trong bốn bức từng của nó.
Brenna sợ người phụ nữ cứng rắn này, nhưng Jenny thì yêu bà, và vì vậy mà sự phản
bội của tu viện trưởng càng cắt sâu hơn vào lòng nàng.
Những lời tiếp theo của cha nàng đẩy lùi sự thất vọng trong nàng. “Mẹ bề trên
Ambrose cũng nói với ta,” ông thú nhận với một chút xíu tự hào, “rằng con có một
cái đầu của một tu viện trưởng. Bà ấy nói rằng con đúng là một Merrick từ đầu đến
chân, với lòng dũng cảm đủ để lãnh đạo cả đội quân riêng. Nhưng tất nhiên con sẽ
không thể làm thế,” ông nói thêm như để đập tan từ trong trứng nước giấc mơ của
Jenny.
Jenny giữ nụ cười trên gương mặt mình với sự cố gắng lớn, cố không tỏ ra đau đớn
vì bị từ chối cái quyền mơ ước đó – quyền lợi mà đáng lẽ nàng đã có cho đến khi
cha nàng cưới mẹ của Brenna và mang về ba đứa con trai của bà ta.
Alexander, cậu con cả, được dành cho cái vị trí đáng ra là của Jenny. Điều đó
đáng lẽ ra đã không khó khăn lắm để chấp nhận nếu như Alexander là một người tốt,
hoặc có đầu óc bình thường, nhưng hắn ta là một tên nói dối bài bản và xảo trá,
và Jenny biết như vậy, ngay cả khi cha nàng và đồng bào của nàng không biết điều
đó. Trong vòng một năm kể từ khi tới sống tại lãnh địa Merrick, hắn đã bắt đầu
thêu dệt các câu chuyện về nàng, những điều vu khống gớm ghiếc, nhưng lại xảo
quyệt đến nỗi mà, chỉ trong một vài năm hắn đã khiến cho cả lãnh địa chống lại
nàng. Việc đánh mất tình yêu cùng những người đồng bào vẫn còn làm nàng đau đớn
không chịu nổi. Ngay cả bây giờ, khi họ nhìn xuyên qua nàng như thể nàng không
tồn tại nữa, Jenny vẫn phải ngăn cản mình van xin họ tha thứ cho nàng bởi những
điều mà nàng đã không hề làm.
William, người anh kế, cũng giống như Brenna – ngọt ngào và nhút nhát hết sức –
trong khi đó Malcome, người em út, lại cũng độc ác và quỷ quyệt như Alexander.
Cha nàng vẫn tiếp tục nói “Mẹ bề trên cũng nói rằng con tốt bụng và dịu dàng,
nhưng tinh thần của con quá…”
“Bà đã nói tất cả những điều ấy sao ạ?” Jenny hỏi, kéo mình ra khỏi những ý
nghĩ phiền muộn về các ông anh kế. “Thật không ạ?”
“Thật.” Thường thì Jenny sẽ hài lòng với câu trả lời như thế, nhưng khi nàng
quan sát nét mặt của cha nàng, nàng thấy ông căng thẳng và lo lắng chưa từng thấy.
Ngay cả giọng nói của ông cũng căng thẳng, “Thật tốt là con đã từ bỏ được những
tật xấu trước đây và trở nên trưởng thành như hôm nay, Jennifer.”
Ông dừng lại, dường như không thể hoặc không muốn tiếp tục, và Jenny nhẹ nhàng
hỏi “Tại sao vậy, thưa cha?”
“Bởi vì,” ông nói, kèm theo một tiếng thở dài, “tương lai của đồng bào con sẽ
tuỳ thuộc vào câu trả lời của con cho câu hỏi tiếp theo của ta.”
Những lời của ông vàng lên trong trí óc nàng như tiếng kèn xung trận, khiến
nàng choáng váng vì vui mừng và hạnh phúc: “Tương lai của đồng bào con tuỳ
thuộc vào con…” Nàng quá hạnh phúc đến nỗi không tin nổi tai mình. Điều này
cũng giống như khi nàng đứng trên đồi nhìn khắp toàn cảnh tu viện, mơ giấc mơ
yêu thích của nàng – trong đó cha nàng luôn đến tìm nàng và nói, “Jennifer,
tương lai của đồng bào con tuỳ thuộc vào con. Không phải những người anh em kế
của con. Mà là con.” Đây là cơ hội nàng hằng mơ để chứng tỏ lòng can đảm của
nàng trước đồng bào mình và giành lại tình yêu của họ. Trong những giấc mơ đó,
nàng luôn luôn được kêu gọi để thực hiện những hàng động mạo hiểm phi thường,
đòi hỏi lòng can đảm chẳng hạn như là đánh sập bức tường trong lâu đài của Sói
Đen và tay không bắt giữ hắn ta. Và bất chấp nhiệm vụ khó khăn như thế nào,
nàng sẽ không bao giờ đòi hỏi hay e ngại một giây trước khi chấp nhận thử
thách.
Nàng quan sát khuôn mặt cha mình. “Cha muốn con làm gì ạ?” Nàng hỏi một cách sốt
sắng.
“Hãy nói cho con biết và con sẽ làm! Con sẽ làm bất kì –”
“Con sẽ lấy Edric MacPherson chứ?”
“Gì cơ ạ?” Người nữ anh hùng trong giấc mơ của Jenny thảng thốt. Edric
MacPherson cũng già như cha nàng; là một người đàn ông nhăn nheo đáng sợ, kẻ đã
nhìn nàng theo cái cách làm cho nàng sởn da gà kể từ lúc nàng lớn lên thành thiếu
nữ.
“Con có đồng ý hay không?”
Đôi lông mày của Jenny nhíu lại. “Nhưng tại sao ạ?” người nữ anh hùng không bao
giờ truy hỏi mệnh lệnh trong giấc mơ của nàng vuột hỏi.
Một cái nhìn lạ lùng, ám ảnh làm tối sầm khuôn mặt lãnh chúa. “Chúng ta đã tham
gia trận chiến ở Cornwall – và mất nửa quân số. Alexander đã chết trên chiến
trường. Nó đã chết như một Merrick chính cống,” ông thêm vào với niềm tự hào
“chiến đấu cho đến chết.”
“Con tự hào thay cho cha, Cha ạ,” (I’m glad for your sake, Papa) nàng nói,
không thể cảm thấy gì nhiều hơn là một chút buồn thoáng qua cho người anh em kế
đã khiến cuộc sống của nàng thành địa ngục. Bây giờ, cũng giống như trước kia,
nàng lại ước sao có điều gì đó nàng có thể làm để khiến cha nàng cũng tự hào về
nàng. “Con biết cha yêu anh ấy như chính con ruột của mình.”
Chấp nhận lời chia buồn của nàng với một cái gật đầu, ông quay lại với chủ đề
đang bàn: “Có rất nhiều chiến binh của ta bị ép buộc đến Cornwall để chiến đấu
cho Vua James, nhưng tất cả chiến binh của ta đều theo ta dù cho thế nào đi nữa.
Tụi Anh cũng đã biết là chính nhờ vào ảnh hưởng của ta nên các bộ tộc mới đi tới
Cornwall, và giờ đây vua Anh muốn trả thù. Hắn đã cử con Sói tới Scotland để tấn
công lãnh địa Merrick.” Nỗi đau tràn ngập giọng nói trầm trầm của ông khi ông
thú nhận, “Chúng ta sẽ không thể chịu được một cuộc chiến bây giờ, ngay cả khi
các chiến binh của MacPherson tới trợ chiến. Nhưng MacPherson có đủ tầm ảnh hưởng
đối với cả tá bộ tộc khác để họ cũng tới giúp chúng ta.”
Tâm trí Jenny rối bời. Alexander đã chết, và con Sói thực sự đang đến để tấn
công nhà nàng…
Giọng nói trầm đục của cha nàng kéo nàng ra khỏi cơn mơ màng. “Jennifer! Con có
hiểu những điều mà ta đang nói không? MacPherson đã hứa sẽ tham gia vào trận
chiến của chúng ta, nhưng chỉ khi con đồng ý lấy ông ta.”
Nhờ mẹ nàng, Jenny được kế vị là nữ bá tước và được thừa kế một sự sản tương xứng
với sự sản của MacPherson. “Ông ta muốn đất đai của con sao?” Nàng nói gần như
là hi vọng, nhớ lại cái nhìn kinh khủng từ đôi mắt của MacPherson chiếu vào cơ
thể nàng khi hắn ta dừng chân tại tu viện một năm trước để thực hiện một “lời
chào xã giao” với nàng.
“Đúng vậy.”
“Sao chúng ta không chỉ giao nó cho ông ta để đổi lại sự giúp đỡ này?” nàng
tình nguyện một cách tuyệt vọng, sẵn sàng hi sinh những vùng đất tuyệt vời mà
không hề e ngại, vì lợi ích của đồng bào nàng.
“Ông ta không đồng ý như vậy!” cha nàng kêu lên giận dữ. “Chiến đấu cho gia
đình, họ hàng mình là danh dự, nhưng ông ta không thể gửi người của ông ta tới
một cuộc chiến không phải của họ, chỉ để đổi lấy những đất đai cho chính ông
ta.”
“Nhưng, chắc chắn là nếu ông ta muốn những đất đai đó đủ nhiều, thì sẽ có cách
nào đó…”
“Ông ấy muốn con. Ông ấy đã nói với ta khi còn ở Cornwall.” Cái nhìn của ông tưới
khắp khuôn mặt của Jenny, chú ý tới những đường nét đã được thay đổi trên khuôn
mặt đó, từ một cô gái gầy gò, mặt đầy tàn nhang, xấu xí trở thành một mỹ nhân
xinh đẹp lạ thường. “Con có đôi mắt của mẹ con, con gái ạ, và điều đó đã thu
hút ngay cả một ông lão. Ta sẽ không yêu cầu con làm điều này nếu còn cách nào
khác.” Ông nhắc nhở nàng một cách cộc cằn
“Con đã từng cầu xin ta cho con được cống hiến. Con đã nói không có điều gì là
con không thể làm cho đồng bào mình…”
Jenny thấy như lòng dạ nàng bị vặn xoắn lại vì ý nghĩ nàng sẽ phải giao thân thể
mình, cả cuộc đời mình, vào tay người đàn ông mà linh tính mách bảo nàng phải
tránh thật xa, nhưng nàng ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào mắt cha nàng: “Vâng,
thưa cha,” nàng nhẹ nhàng nói. “Con sẽ đi với cha ngay bây giờ chứ?”
Cái nhìn đầy tự hào và vui sướng trên mặt cha nàng đã gần như khiến nàng thấy sự
hi sinh này là chính đáng. Cha nàng lắc đầu. “Tốt nhất con nên ở lại đây với
Brenna. Chúng ta không có ngựa dư cho con và chúng ta phải nhanh chóng về
Merrick và bắt đầu chuẩn bị cho trận đánh. Ta sẽ gửi thư cho MacPherson nói rằng
cuộc hôn nhân đã được định đoạt, và ta cũng sẽ cho người tới đưa con đi đến chỗ
ông ta.”
Khi cha nàng quay đi lấy ngựa của ông, Jenny đầu hàng nỗi cám dỗ mà nàng cảm thấy
suốt từ nãy đến giờ: thay vì chỉ đứng một bên mà nhìn, nàng đi vào giữa những
hàng lính vũ khí đầy mình, những người đã từng là bạn nàng hoặc là bạn chơi
cùng nàng. Hi vọng vài người trong số họ có thể đã nghe thấy việc nàng đồng ý
cưới MacPherson và điều đó sẽ làm giảm bớt ác cảm của họ với nàng, nàng dừng lại
bên cạnh con ngựa của một người đàn ông tóc đỏ, khoẻ mạnh. “Chào anh, Renald
Garvin,” nàng nói, mỉm cười dè dặt nhìn vào mắt anh ta. “Vợ anh vẫn khoẻ chứ?”
Quai hàm anh ta cứng lại, đôi mắt lạnh lùng lướt qua nàng. “Khoẻ, tôi nghĩ vậy,”
anh ta nói.
Jenny cam chịu sự khinh thường không thể nhầm lẫn được từ phía người đàn ông đã
từng dạy nàng câu cá và cười với nàng khi nàng ngã xuống suối.
Nàng quay đi và hướng ánh nhìn van nài vào một người đàn ông bên cạnh Renald.
“Còn anh, Michael MacCleod? Chân anh có còn đau nữa không?”
Đôi mắt màu xanh gặp mắt nàng, rồi chúng nhìn thẳng ra phía trước.
Nàng lại đi đến người đằng sau anh ta, người này có khuôn mặt chứa đầy sự tức
giận khi nàng giơ tay ra, giọng nàng khẩn thiết. “Garrick Carmichael, đã bốn
năm rồi kể từ khi Becky chết đuối. Cháu thề với chú, cũng như cháu đã thề khi
đó, cháu không hề đẩy cô ấy xuống sông. Chúng cháu cũng không hề cãi nhau – đó
chỉ là một lời nói dối của Alexander để -”
Khuôn mặt lạnh như đá, Garrick Carmichael kéo ngựa của ông ta sang hướng khác,
và không thèm nhìn vào nàng, người đàn ông cưỡi ngựa đi qua nàng.
Chỉ có người tá điền Josh già, là kéo cương con ngựa của ông ta lại, để cho những
người khác đi lên trước. Hơi cúi người xuống, ông ta đặt bàn tay chai sạn lên đầu
nàng. “Bác biết cháu nói sự thật, tiểu thư ạ,” ông nói, và lòng trung thành
không thay đổi của ông làm nàng ứa nước mắt khi nàng nhìn lên đôi mắt nâu dịu
dàng của ông. “Cháu hơi nóng vội, điều này không cần phải bàn cãi, nhưng cháu
cũng biết kiềm chế. Garrick Carmichael và những người khác có thể bị lừa bởi
khuôn mặt thánh thiện của Alexander, nhưng không phải lão Josh già này. Cháu sẽ
thấy bác không thèm tiếc thương cái chết của nó một tí nào! William sẽ lãnh đạo
lãnh địa tốt hơn. Carmichael và những người khác –” ông thêm vào một cách chắc
chắn, “họ sẽ thay đổi cách nhìn về cháu một khi họ được biết cháu cưới
MacPherson vì lợi ích của họ và cha cháu.”
“Các anh cháu ở đâu ạ?” Jenny hỏi nhanh, mong thay đổi đề tài để kiềm chế những
giọt nước mắt của nàng.
“Họ về nhà theo đường khác. Chúng ta không chắc là con Sói sẽ không tấn công
khi chúng ta đi cùng nhau, vì thế chúng ta chia nhau ra khi rời Cornwall.” Vỗ
nhẹ lên đầu Jenny, ông già lái ngựa về phía trước.
Như đang chìm trong cơn mơ, Jenny đứng bất động ở giữa đường, nhìn đoàn người của
mình rời đi và biến mất sau hàng rào.
“Trời tối rồi,” Brenna nói bên cạnh nàng, giọng nói nhẹ nhàng của cô chứa đầy sự
thương cảm.
“Chúng ta nên đi vào trong tu viện thôi.”
Tu viện. Chỉ mới ba tiếng đồng hồ ngắn ngủi trước, Jenny đã ra khỏi tu viện với
tâm trạng vui tươi, phơi phới. Vậy mà giờ đây nàng như – đã chết. “Em cứ đi đi.
Chị - chị không muốn vào trong đó. Chưa muốn. Chị nghĩ chị sẽ đi bộ một đoạn
lên đồi và ngồi ở đó một lát.”
“Mẹ bề trên sẽ quở trách nếu mình không về trước khi trời tối, và trời thì sắp
tối rồi,” Brenna nói giọng dè dặt. Chuyện sẽ luôn luôn là như vậy giữa hai chị
em, với Jenny phá luật và Brenna sợ hãi đi theo. Brenna là một cô gái dịu dàng,
ngoan đạo, và xinh đẹp, với mái tóc vàng, đôi mắt nâu, và tính cách ngọt ngào
khiến cho cô, trong mắt của Jenny, là biểu tượng cao nhất của nữ tính. Cô nhu
mì và nhút nhát bao nhiêu thì Jenny bốc đồng và liều mạng bấy nhiêu.
Không có Jenny, cô sẽ hiếm khi dám làm một hành động mạo hiểm nào – hay thậm
chí là bị mắng một lần nào. Không có Brenna lo lắng và bảo vệ, Jenny sẽ có nhiều
chuyến phiêu lưu hơn – và tất nhiên là nhiều sự quở trách hơn. Kết quả là, hai
cô gái gần như dính lấy nhau, cố gắng bảo vệ lẫn nhau hết mức có thể trước những
rắc rối gây ra bởi khuyết điểm của người kia.
Brenna hơi ngần ngại rồi tự nguyện với một chút xíu sợ hãi trong giọng nói, “Em
sẽ ở lại với chị. Nếu chị ở một mình, rồi chị sẽ quên thời gian và có lẽ sẽ bị
vồ bởi – một con gấu trong bóng tối mất.”
Vào lúc đó, viễn cảnh bị gấu vồ có vẻ như khá hấp dẫn với Jenny, người mà toàn
bộ phần đời còn lại của nàng, sẽ bị bao phủ trong u ám và buồn nản đã được báo
trước.
Bất chấp thực tế là nàng thực sự muốn, cần, được ở ngoài trời một lát và cố gắng
cân bằng suy nghĩ, nhưng Jenny vẫn lắc đầu, biết rằng nếu nàng ở lại, Brenna sẽ
sợ chết khiếp khi nghĩ đến việc đứng trước mặt tu viện trưởng.
“Không, chúng ta sẽ về.”
Mặc kệ lời nói của Jenny, Brenna cầm tay Jenny và kéo sang bên trái, hướng về
phía ngọn đồi nhìn được toàn cảnh tu viện, và lần đầu tiên người dẫn đường là
Brenna, còn Jenny thì đi theo.
Trong khu rừng bên cạnh con đường, hai bóng đen di chuyển thật khẽ, song song với
hai cô gái đang đi lên đồi.
Cho đến khi hai người bước lên con dốc trên đồi, Jenny đã thấy mất hết kiên nhẫn
với việc than thân trách phận, và nàng cố gắng phi thường để làm tâm trạng phấn
chấn trở lại. “Nghĩ kĩ lại thì,” nàng mở đầu chậm rãi, hướng về phía Brenna,
“đây là hành động cao thượng và danh dự nhất mà chị đã từng có cơ hội được làm
– cưới MacPherson vì lợi ích của đồng bào mình.”
“Chị cũng giống như Joan ở Arc,” Brenna sẵn sàng đồng ý ngay, “lãnh đạo người
dân của cô ấy đến chiến thắng!”
“Trừ việc là chị cưới Edric MacPherson.”
“Và,” Brenna kết thúc đầy khuyến khích, “chịu đựng một số phận còn đau đớn hơn
cô ấy!”
Nụ cười mở ra trong đôi mắt của Jenny khi nghe điều này, từ chính miệng của người
chị em gái thân thiết của mình.
Được khuyến khích khi thấy Jenny đã có thể cười trở lại, Brenna tiếp tục nói về
những việc khác để có thể động viên nàng. Khi họ đã gần ở trên đỉnh đồi, bị chắn
bởi rừng cây dầy đặc, cô bỗng nói, “Cha có ý gì khi nói là chị có đôi mắt của mẹ
chị nhỉ?”
“Chị không biết,” Jenny trả lời, bị sao lãng bởi một cảm giác khó chịu như là
có người đang theo dõi họ từ trong rừng. Quay bước trở lại, nàng nhìn về hướng
cái giếng và nhìn thấy những người dân làng đã trở về nhà hết. Kéo chặt áo
khoác vào người, nàng run lên vì gió, và nói mà không để ý lắm. “Mẹ bề trên
Ambrose cũng nói ánh mắt chị hơi thẳng thừng và chị phải cẩn thận với phản ứng
của những người đàn ông vì điều đó khi chị rời khỏi tu viện.”
“Tất cả những cái đó nghĩa là gì nhỉ?”
Jenny nhún vai bất cần. “Chị cũng chẳng biết.” Quay lại và tiếp tục trèo lên,
Jenny nhớ ra mũ trùm đầu và vải buộc đầu trên tay và bắt đầu choàng lên đầu.
“Theo em thì chị trông như thế nào?” nàng hỏi, liếc về phía Brenna.
“Chị không hề nhìn thấy mặt mình trong hai năm qua, trừ khi thoáng nhìn thấy
bóng mình dưới nước. Chị có thay đổi nhiều không?”
“Có chứ,” Brenna cười. “Ngay cả Alexander cũng sẽ không dám gọi chị là gầy gò,
xấu xí nữa đâu, hay là nói tóc chị có màu cà rốt.”
“Brenna!” Jenny ngắt lời, kinh ngạc vì sự thô lỗ của mình. “Đáng ra em phải đau
lòng vì cái chết của Alexander nhiều chứ? Đó là anh trai của em và –”
“Đừng nói về chuyện đó nữa,” Brenna nài. “Em đã khóc khi cha kể với em, nhưng
khi những giọt nước mắt khô đi em cũng cảm thấy có lỗi vì em đã không yêu anh ấy
nhiều như em tưởng. Cả trước đây và bây giờ. Em không thể. Anh ấy – quá nhỏ mọn.
Thật không phải khi nói xấu người đã khuất, nhưng em vẫn không thể nghĩ ra điều
gì tốt mà nói về anh ấy.” Giọng nói của cô lạc đi, và cô kéo áo choàng sát mình
hơn trong ngọn gió lớn, nhìn Jenny trong im lặng và rõ ràng muốn thay đổi chủ đề.
“Vậy hãy nói trông chị như thế nào,” Jenny đề nghị, ôm em gái thật chặt trong
giây lát.
Họ ngừng bước, đường đi của họ đã bị chắn bởi rừng cây dày đặc. Một nụ cười nhẹ,
đầy ẩn ý trải ra trên khuôn mặt xinh đẹp của Brenna khi cô quan sát người chị kế
của mình, đôi mắt nâu của cô nhìn khắp khuôn mặt ấn tượng của Jenny, với đôi mắt
to sáng trong như pha lê xanh sẫm bên dưới hàng lông mày duyên dáng, cân đối.
“Trông chị - cũng khá xinh!”
“Tốt, nhưng em có nhìn thấy gì bất thường ở chị không?” Jenny hỏi, nghĩ đến những
lời của Mẹ bề trên Ambrose khi nàng buộc chặt khăn trùm đầu vào thắt miếng vải
len bên ngoài. “Có gì mà có thể khiến đàn ông cư xử không đàng hoàng ý?”
“Không,” Brenna nói, bởi vì cô đã nhìn Jenny với con mắt của một cô gái trẻ
ngây thơ. “Chẳng có gì đâu.” Một người đàn ông chắc hẳn sẽ trả lời khác, bởi vì
mặc dù Jenny Merrick không xinh đẹp theo nghĩa thông thường, nhưng nhìn nàng vừa
ấn tượng vừa khêu gợi. Nàng có cái miệng phóng khoáng như đang chào mời được
hôn, đôi mắt như viên ngọc ướt vừa đáng kinh ngạc vừa khiêu khích, mái tóc dày,
màu đỏ óng mượt, và thân hình thon thả, gợi tình dường như được sinh ra để dành
cho một bàn tay đàn ông.
“Mắt chị màu xanh,” Brenna lại bắt đầu, cố gắng miêu tả nàng, và Jenny cười.
“Hai năm trước nó cũng màu xanh mà,” nàng nói. Brenna mở miệng định trả lời,
nhưng câu nói bỗng trở thành một tiếng thét bị chặn lại bởi một bàn tay đàn ông
bịt mồm cô và bắt đầu kéo cô trở vào trong rừng.
Jenny lập tức cúi xuống, bản năng mách bảo sẽ có một cú tấn công từ phía sau
nàng, nhưng đã quá trễ. Đấm đá và gào thét chống lại một bàn tay đàn ông mang
găng, nàng bị nhấc bổng lên và kéo vào trong rừng. Brenna đã bị vắt ngang qua
ngựa của người đàn ông kia như một bao bột, chân tay của cô rũ ra chứng tỏ là
cô đã bị ngất xỉu nhưng Jenny thì không dễ dàng bị khuất phục như vậy. Khi kẻ
khống chế nàng định ném nàng lên ngựa của hắn, nàng liền lao sang phía bên kia,
lăn tròn, ngã xuống một đống đất và lá cây, chống cả tay và chân để bò bên dưới
ngựa của gã, rồi lao đi. Nhưng hắn lại tóm được nàng, và Jenny cào cấu mặt hắn,
quằn quại trong tay hắn. “Quỷ thần ơi!” hắn kêu, cố giữ chặt chân tay nàng.
Jenny hét lên một tiếng khủng khiếp, rồi cố hết sức bình sinh đá hắn, tặng hắn
một cú trời giáng bằng đôi ủng màu đen, cứng cáp của nữ tu tập sự. Một tiếng
kêu đau đớn phát ra từ phía người đàn ông tóc vàng và hắn phải buông nàng ra
trong một giây. Nàng chạy hết sức về phía trước và có thể đã chạy được vài mét
nếu không bị vướng vào rễ cây và ngã sóng soài trên mặt đất, đập đầu vào một tảng
đá.
“Đưa tôi sợi dây thừng,” em trai của Sói nói, một nụ cười quỷ quyệt hiện ra
trên mặt anh khi anh nhìn đồng đội. Phủ cái khăn choàng của tù binh qua đầu
nàng, Stefan Westmoreland bọc xung quanh người nàng, sử dụng nó để ép chặt cánh
tay vào người nàng, rồi dùng sợi dây đồng đội đưa cho để buộc thật chặt quanh
người Jenny. Cuối cùng, anh ném cái bọc người đó một cách khinh bỉ lên ngựa, phần
lưng nàng hướng lên trời, rồi anh nhảy lên chỗ trống trên lưng ngựa phía sau
nàng.