Vương quốc của những giấc mơ - Judith McNaught - Chương 24
Chương 24
“Phu nhân nghĩ ngoài đó có bao nhiêu người?” Agnes hỏi, đứng
bên cạnh Jenny trên bức tường thành. Agnes đã làm việc rất chăm chỉ trong suốt
tuần qua đến mức Jenny phải kiên quyết yêu cầu cô ta bước ra khỏi cửa để hít thở
không khí trong lành.
Jenny nhìn vào quang cảnh do mệnh lệnh của Vua Henry gây ra, ông ta đã ra lệnh
cho Sói phải tham gia vào cuộc thi đấu mà trước đây chỉ là “một cuộc đấu thương
địa phương.”
Hàng ngàn quý tộc, hiệp sĩ, và khán giả từ khắp các nước Anh, Scotland, Pháp,
và xứ Wales đã đến, và toàn bộ thung lũng cũng như các ngọn đồi xung quanh giờ
đây đầy rẫy những cái lều đủ màu sắc rực rỡ và nhà rạp mà mỗi người mới đến đều
dựng nên theo ý họ. Jenny nghĩ, trông chúng như một biển sắc màu với những lá cờ
kẻ sọc và chấm.
Để trả lời cho câu hỏi của Agnes, Jenny cười uể oải. “Ta đoán có sáu hoặc bảy
ngàn người. Có lẽ còn nhiều hơn.” Và Jenny biết tại sao họ lại ở đây: họ ở đây
vì hi vọng sẽ được thi thố tài năng của mình trước mặt con Sói huyền thoại của
Henry.
“Nhìn kìa, lại có thêm một nhóm nữa,” Jenny nói, gật đầu về hướng đông, ở đó những
kị sĩ và những người chạy bộ đang di chuyển. Họ thường đến đây theo nhóm xấp xỉ
một trăm người trong suốt tuần, và giờ đây Jenny đã quá quen với cách di chuyển
của một đoàn người ngựa của Anh. Đầu tiên một nhóm nhỏ đi đến, bao gồm người thổi
kèn báo hiệu để thông báo cuộc viếng thăm của chủ nhân lừng lẫy của anh ta cho
những người xung quanh. Công việc của nhóm đầu tiên này là đi đến Claymore và
thông báo giờ đến của chủ nhân họ - điều này giờ đây chẳng còn ý nghĩa gì bởi
vì mỗi một căn phòng ở Claymore, từ sáu mươi căn nhà ở cổng (from the sixty in
the gatehouses) cho đến căn phòng gác xép nhỏ xíu phía trên sảnh đường, đều đã
đầy chật các vị khách quý tộc. Toà lâu đài đông đảo đến nỗi tất cả đám gia nhân
và người tháp tùng các vị khách buộc phải ở bên ngoài cổng, họ phải tự dựng lều
cho mình.
Sau những người thổi kèn và người đi thám tính là một nhóm lớn hơn, gồm có lãnh
chúa và phu nhân, cưỡi trên những con ngựa được phủ vải xa hoa. Rồi đến một
nhóm gồm người hầu và các xe ngựa chứa lều, và tất cả mọi thứ mà nhà quý tộc cần
đến: vải trải bàn, đĩa tách, đồ trang sức, chai lọ, xoong nồi, giường chiếu, thậm
chí cả thảm thêu.
Trong suốt bốn ngày qua mọi thứ đã trở nên một cảnh tượng thông thường với
Jenny. Các gia đình quý tộc, đã quen với việc đi lại hàng trăm kilômét giữa các
toà lâu đài của họ, chẳng thấy phiền hà gì với việc di chuyển quãng đường xa
như thế tới nơi sẽ diễn ra cuộc thi đấu lớn nhất trong đời họ.
“Chúng tôi chưa bao giờ được trông thấy cảnh như thế này – không ai trong chúng
tôi cả,” Agnes nói.
“Những người dân làng có làm như ta bảo họ không?”
“Vâng, thưa phu nhân, và chúng tôi sẽ đời đời ghi ơn bà. Tại sao ư, vì chỉ
trong một tuần lễ qua chúng tôi đã kiếm được nhiều tiền hơn số tiền cả đời
chúng tôi có thể kiếm được, và không một ai dám thử đối xử với chúng tôi giống
như cách mọi năm họ vẫn làm khi đến tham gia cuộc đấu.”
Jenny mỉm cười và gạt tóc khỏi phía sau cổ nàng, để cho ngọn gió lạnh cuối
tháng Mười thổi qua gáy. Khi những gia đình đầu tiên đến thung lũng và những
cái lều bắt đầu được dựng lên, những người nông dân bị trưng dụng vật nuôi của
họ, và những gia đình khốn khổ này chỉ được trả một vài đồng bạc lẻ vì công
nuôi dưỡng.
Jenny đã khám phá ra chuyện đó, và giờ đây mỗi một căn nhà trong thung lũng, và
tất cả vật nuôi, đều được dán một vật biểu trưng là đầu một con sói – vật biểu
trưng này Jenny đã lấy từ tất cả lính gác, hiệp sĩ, thợ rèn vũ khí, và ở bất cứ
nơi nào khác mà nàng có thể tìm được chúng. Sự hiện diện của vật biểu trưng hàm
ý rằng mọi đồ vật có mang nó đều hoặc là của Sói hoặc nằm dưới sự bảo trợ của
chàng. “Chồng ta,” nàng đã giải thích khi đưa các vật biểu trưng cho hàng trăm
người hầu và tá điền được tập trung trong sân lâu đài, “sẽ không cho phép bất
kì ai đối xử tồi tệ với người của chàng. Các ngươi có thể bán mọi thứ theo ý muốn,
nhưng” nàng mỉm cười khuyên nhủ họ, “nếu ta là các ngươi, ta mà có thứ
gì đó mà ai cũng muốn có, thì ta sẽ chỉ bán cho người nào trả giá cao nhất
– chứ không phải người đầu tiên trả ta bất kì giá nào.”
“Khi tất cả chuyện này kết thúc,” Jenny trả lời, “ta sẽ tìm xem chúng ta có thể
mua những khung cửi mới mà ta đã kể với mấy người phụ nữ trong làng ở đâu. Nếu
những đồng tiền mà họ kiếm được trong tuần lễ này được đầu tư vào những khung cửi
mới này, thì lợi nhuận từ việc dệt vải sẽ ngày càng nhiều hơn nữa.” Jenny nói
thêm, “Nghĩ lại thì, vì cuộc thi đấu đã được định sẽ tổ chức hàng năm, tất cả mọi
người nên nghĩ đến việc nuôi thêm gia súc và làm thêm cả các thứ khác nữa, để
sang năm còn bán. Mọi người sẽ kiếm được nhiều tiền lắm đấy. Ta sẽ bàn việc này
với công tước và các quản gia của ta, rồi ta sẽ giúp mọi người lên kế hoạch các
ngươi muốn.”
Agnes nhìn nàng với đôi mắt mơ màng. “Phu nhân là phước lành mà Thượng Đế đã gửi
tới cho chúng tôi, phu nhân à. Tất cả chúng tôi đều nghĩ như thế, và
chúng tôi vô cùng xin lỗi đã đối xử với bà như thế khi bà mới đến. Tất cả mọi
người đều đã biết việc tôi trở thành nữ tì của phu nhân, và mỗi ngày họ đều yêu
cầu tôi phải đảm bảo là phu nhân biết được chúng tôi biết ơn bà biết chừng
nào.”
“Cám ơn,” Jenny nói một cách đơn giản. Với một nụ cười châm biếm, nàng nói
thêm, “Mặc dù công bằng mà nói thì tất cả những ý tưởng về lợi nhuận mang lời từ
các cuộc thi đấu và việc dệt vải và mọi thứ khác nữa có được là vì ta là một
người Scot – chúng ta là những kẻ rất tằn tiện, cô biết đó.”
“Phu nhân giờ đã là người Anh rồi, và xin thứ lỗi cho tôi nói thẳng. Phu nhân
đã cưới chủ nhân của chúng tôi và điều đó khiến cho bà trở thành một trong
chúng tôi.”
“Ta là người Scot,” Jenny lặng lẽ nói. “Và chẳng có gì thay đổi được điều đó,
cũng như ta chẳng hề muốn thay đổi.”
“Vâng, nhưng ngày mai, trong cuộc thi đấu,” Agnes nói với giọng kiên quyết
nhưng lo lắng, “chúng tôi hi vọng, tất cả chúng tôi ở Claymore và dân làng – đều
hi vọng rằng phu nhân sẽ ngồi bên phía chúng tôi.”
Jenny đã cho phép tất cả các người hầu trong lâu đài được đi xem đấu trận vào
ngày mai, cũng là ngày quan trọng nhất, hay những ngày tiếp sau, và một bầu
không khí căng thẳng vì háo hức đã lan toả khắp bốn bức tường lâu đài trong những
người đang sống hoặc làm việc tại đây.
Nàng không cần phải trả lời câu hỏi không nói ra của Agnes về việc nàng định ngồi
ở đâu trong trận đấu bởi một nhóm kị sĩ sẵn sàng hộ tống nàng đã đến. Nàng đã
nói với Royce nàng định đến thăm lều trại của người Merrick ở rìa phía đông của
thung lũng, và chàng đã đồng ý – bởi vì chàng không còn lựa chọn nào khác,
Jenny biết điều đó – nhưng với điều kiện là nàng phải được người của chàng hộ tống
tới đó. Trong sân lâu đài nàng nhìn thấy “đội hộ tống” mà Royce rõ ràng cho rằng
cần thiết: tất cả mười lăm vệ sĩ riêng của chàng, bao gồm cả Arik, Stefan,
Godfrey, Eustace, và Lionel đều cưỡi ngựa, vũ khí sẵn sàng.
Ở khoảng cách gần, Jenny thấy thung lũng chứa đầy những căn lều màu sắc sặc sỡ
và các nhà bạt trần trụi còn sống động và mang không khí lễ hội nhiều cả khi
nàng đứng nhìn trên tường thành. Bất kì ở đâu có lều chõng, là ở đó người ta đều
luyện tập thi đấu, và trước mỗi căn lều của một hiệp sĩ, cờ và thương của ông
ta đều được cắm xuống đất. Và màu sắc ở khắp mọi nơi: những căn lều kẻ sọc đỏ
và vàng và xanh dương; những lá cờ và khiên và vật biểu trưng được trang trí với
chim ưng đỏ, sư tử vàng, và những thanh ngang màu xanh lục – một vài thứ còn được
bao phủ gần như hoàn toàn bởi rất nhiều biểu tượng khiến Jenny không thể nén được
cười.
Qua những khe hở ở cửa các căn lều lớn, nàng thoáng nhìn thấy những tấm thảm
thêu đẹp đẽ, và vải len trắng muốt phủ qua những bàn ăn nơi hiệp sĩ và toàn bộ
gia đình của họ ngồi dùng bữa tối bằng những cái đĩa bạc và uống rượu từ những
chiếc cốc khảm đá quý. Một vài gia đình ngồi trên những cái đệm lụa dầy dặn; một
vài nguời khác có cả những chiếc ghế đẹp như trong sảnh đường của Claymore.
Rất nhiều lần, những lời chào hỏi được xướng lên từ những người bạn tới một hoặc
vài hiệp sĩ của Royce, nhưng mặc dù đội hộ tống của nàng không bao giờ ngừng
chân, họ vẫn mất gần cả giờ để đi ngang qua thung lũng tới con dốc ở phía đông.
Cũng như trong đời sống thực, người Scot không chịu hoà mình vào những người
Anh mà họ ghét cay ghét đắng, vì trong khi thung lũng là lãnh địa của người
Anh, thì ngọn đồi phía bắc thuộc về người Scot. Hơn nữa, ngọn đồi phía tây thuộc
về người Pháp. Vì đồng bào của nàng là một trong những người cuối cùng tới
Claymore, cho nên họ dựng lều ở phía sau ngọn đồi phía bắc, cao hơn hẳn những
người khác. Hoặc có lẽ, Jenny vu vơ nghĩ, cha nàng thích vị trí đó bởi vì nó sẽ
bằng cách nào đó đặt ông gần ngang hàng với nền lâu đài Claymore.
Nàng nhìn xung quanh vào “lều trại của những kẻ thù nghịch của nhau”, chỉ tồn tại
trong thời gian hoà hoãn. Lịch sử thù hằn hàng thế kỉ đã tạm thời được đặt sang
một bên vì tất cả các bên đều phải tuân theo truyền thống cổ xưa đảm bảo cho sự
an toàn của bất kì hiệp sĩ nào đi qua và ngụ lại trong khi tham dự cuộc thi đấu.
Như thể đọc được ý nghĩ của nàng, Stefan nói bên cạnh nàng, “đây là có lẽ lần đầu
tiên trong hàng thập kỉ qua có rất nhiều người từ cả ba quốc gia cùng ngụ trên
một lãnh thổ mà không phải để đánh nhau.”
“Tôi cũng nghĩ cùng một điều như vậy,” Jenny thừa nhận, giật mình vì câu nhận
xét của anh. Mặc dù anh ta luôn luôn đối xử với nàng một cách lịch thiệp, Jenny
vẫn cảm thấy một sự không bằng lòng ngày càng gia tăng của anh ta với nàng kể từ
khi nổ ra cuộc chiến tranh lạnh giữa nàng với anh trai anh ta. Nàng đoán anh ta
nghĩ nàng rất vô lí. Có lẽ - nếu anh ta không nhắc nhở nàng một cách đau đớn đến
vậy về Royce mỗi khi nàng nhìn vào anh ta – nàng đã cố gắng hơn trong việc thiết
lập một mối quan hệ trìu mến với anh ta giống như với Godfrey, Eustace và
Lionel. Ba người đó cẩn trọng đứng giữa hai chiến tuyến, nhưng những hành xử của
họ rõ ràng cho thấy họ hiểu được những lí lẽ của nàng trong cuộc đối đầu. Họ
cũng tin rằng cuộc xích mích giữa Royce và nàng tuy đúng là bi kịch, nhưng
không phải là không hàn gắn được. Nhưng Jenny không hề biết rằng em trai của
Royce, không giống như những người bạn của chàng, biết chính xác Royce cảm thấy
như thế nào về cuộc chiến tranh lạnh giữa hai người và chàng đã hối hận sâu sắc
đến thế nào về những hành động của mình.
Lí do của thái độ nồng ấm ngày hôm nay của Stefan chẳng có gì là khó hiểu với
Jenny: cha nàng đã gửi thư cho nàng thông báo ông đã đến ngày hôm qua, và
Brenna đã thêm vào đó một bức thư của chính cô – một bức thư mà Jenny đã chuyển
ngay cho Stefan, vẫn còn đóng kín.
Jenny đã phúc đáp cho cha nàng, nói với ông rằng nàng sẽ đến thăm trong hôm
nay. Nàng muốn cố gắng giải thích, và xin lỗi, vì phản ứng quá kích động và
không thích hợp của nàng trước việc ông định đưa nàng tới tu viện kín. Hơn hết,
nàng tới đây để cầu xin ông sự tha thứ cho vai trò của nàng trong cái chết của
William. Bởi vì nàng chính là người đã yêu cầu Royce bảo William ở lại. Và chắc
chắn những lời nói của nàng về tu viện đã làm William buồn lòng cũng như làm
Royce tức giận.
Nàng không hề trông chờ cha nàng, hay những người đồng bào của nàng, tha thứ
cho nàng, nhưng nàng cần phải giải thích. Thực tế, nàng đã trông mong sẽ bị đối
xử như một kẻ bị ruồng bỏ, nhưng khi nàng xuất hiện trước cửa lều của Merrick,
nàng ngay lập tức nhìn thấy không phải như vậy. Cha nàng đi đến cửa lều của
ông, và trước khi Stefan Westmoreland có thể xuống ngựa để giúp nàng, Lãnh chúa
Merrick đã tự mình với tay lên eo của Jennifer. Những người khác ra khỏi lều của
họ, và đột nhiên Jenny thấy nàng được bao bọc bởi những cái ôm và vỗ tay của
Garrick Carmichael và Hollis Fergusson. Ngay cả Malcolm cũng đặt cánh tay trên
vai nàng.
“Jenny,” Brenna kêu lên khi cuối cùng cũng đến được chỗ chị gái cô. “Em nhớ chị
quá,” cô nói thêm, rồi ôm Jenny thật chặt.
“Chị cũng nhớ em lắm,” Jenny nói, giọng nàng khàn đi vì cảm động trước sự đón
tiếp tử tế mà nàng nhận được.
“Vào trong đi, con gái,” cha nàng nói, và trước sự kinh ngạc của Jenny chính ông
mới là người xin lỗi vì đã hiểu lầm ý nguyện của nàng muốn đến một nhà
tu kín hơn là sống cùng chồng nàng. Điều này đáng lẽ phải làm nàng thấy khá
hơn, thì lại khiến nàng còn tội lỗi hơn gấp bội.
“Cái này là của William,” cha nàng nói, đưa cho nàng con dao dùng để trang trí
của William. “Ta biết nó yêu con nhiều hơn tất cả chúng ta, Jennifer, và nó sẽ
muốn con có vật này. Nó sẽ muốn con mang vật này vào ngày mai thay mặt nó trong
cuộc thi đấu.”
“Vâng –” Jenny nói, đôi mắt nàng mờ đi vì nước mắt, “Con sẽ
mang.”
Rồi ông kể với nàng họ đã chôn cất William như thế nào trong một nấm mộ bình
thường trên một vùng đất bình thường; ông kể với nàng những lời cầu nguyện họ
đã nói cho vị lãnh chúa tương lai dũng cảm của Merrick, người đã bị giết trước
khi lên ngôi. Vào lúc mà ông nói xong, Jenny cảm thấy như thể William lại chết
một lần nữa – quá sống động trong trí óc nàng.
Khi đã đến giờ phải đi, cha nàng chỉ vào một cái hòm ở góc lều của ông. “Đây là
những thứ thuộc về mẹ con, con gái,” ông nói với nàng khi cha của Becky và
Malcolm tha cái hòm ra ngoài. “Ta biết con sẽ muốn có chúng, đặc biệt là khi
con phải cùng chung sống với kẻ đã giết chết anh trai con. Chúng sẽ an ủi con,
và là một lời nhắc nhở rằng con đã và sẽ luôn luôn là nữ bá tước của Rockbourn.
Ta đã mạn phép,” ông nói thêm, khi Jenny rời đi, “dùng lá cờ của chính con, lá
cờ Rockbourn, để treo bên cạnh cờ hiệu của ta trên khán đài của chúng ta trong
trận chiến ngày mai. Ta đã nghĩ con cũng mong có lá cờ đó ở phía trên con,
trong khi con ngồi xem chúng ta chiến đấu chống tên sát nhân đã giết chết
William thân yêu của con.”
Jenny quá tê tái vì nỗi đau khổ và tội lỗi nên nàng không thể nói gì được, và
khi họ bước ra khỏi lều của cha nàng trong ánh chiều xế tà, nàng khám phá ra rằng
tất cả những người mà lúc đến nàng chưa nhìn thấy đều đã đến chờ đợi được chào
hỏi nàng. Như thể toàn bộ dân làng sống quanh Merrick đã đến, cùng với toàn bộ
họ hàng của nàng (along with every male relation she possessed). “Chúng tôi rất
nhớ cô, tiểu thư,” người thợ rèn nói.
“Ngày mai chúng tôi sẽ khiến cô tự hào,” một người anh họ xa thậm chí chưa
bao giờ thích nàng nói. “Cũng như cách cô làm chúng tôi tự hào bởi làm một
người Scot.”
“Vua James,” cha nàng tuyên bố với nàng bằng giọng nói sang sảng để mọi người đều
nghe thấy, “đã bảo ta chuyển lời chào trân trọng của cá nhân người tới con và lời
cổ vũ để con không bao giờ quên những cánh đồng và ngọn núi ở quê nhà.”
“Quên ư?” Jenny trả lời bằng giọng thì thào hoảng hốt. “Làm sao con có thể quên
được?”
Cha nàng ôm nàng thật lâu và thật dịu dàng, một cử chỉ vượt ra khỏi tính cách của
ông khiến cho Jenny gần như muốn quỳ xuống mà cầu xin để không phải trở về
Claymore nữa. “Ta tin rằng,” ông nói thêm khi dẫn nàng ra chỗ ngựa của nàng,
“bà dì Elinor của con đã chăm sóc tất cả mọi người chu đáo?”
“Chăm sóc chúng con ư?” Jenny trống rỗng lặp lại.
“À…” ông nhanh chóng sửa lại một cách lơ đãng, “tức là bà ấy có làm những thuốc
uống và thuốc bôi trong khi ở cùng với con không? Để đảm bảo sức khoẻ cho con ấy?”
Jenny lơ đãng gật đầu, nắm chặt con dao của William, vẩn vơ nghĩ đến những chuyến
đi vào rừng để hái thảo dược của bà dì. Nàng định trèo lên ngựa thì cái nhìn
tuyệt vọng, khẩn thiết của Brenna cuối cùng cũng nhắc nàng nhớ đến lời nhắn đã
được lựa lời cẩn thận của Brenna gửi cho nàng tối qua. “Thưa cha,” nàng nói,
quay sang ông, và nàng không hề phải giả bộ mong muốn, “liệu – liệu có thể nào
cho Brenna về cùng với con và ở lại Claymore một tối được không ạ? Chúng con sẽ
cùng tới chỗ thi đấu với nhau.”
Trong một giây khuôn mặt cha nàng đanh lại, rồi một nụ cười nhẹ xuất hiện trên
môi ông và ông khẽ gật đầu. “Con đảm bảo an toàn cho nó chứ?” ông nói thêm sau
một giây suy nghĩ.
Jenny gật đầu.
Trong vài phút sau Brenna và Jenny đã cưỡi ngựa ra đi cùng với độ hộ tống vũ
trang của họ, Bá tước Merrick vẫn đứng ở ngoài cửa lều với Malcolm, quan sát
nhóm người.
“Cha có nghĩ đã thành công không?” Malcolm nói, cái nhìn lạnh lẽo giận dữ của
anh ta dính chặt vào lưng Jenny.
Bá tước Merrick gật đầu và trả lời cộc lốc, “nó đã được nhắc nhở về nghĩa vụ của
nó, và tinh thần trách nhiệm sẽ giúp nó vượt qua bất kể sự mê đắm nào đối với
gã Đồ tể đó. Nó sẽ ngồi trong khán đài của chúng ta và nó sẽ cổ vũ cho chúng ta
chống lại lũ người Anh trong khi chồng nó và tất cả người của hắn nhìn vào.”
Malcolm chẳng thèm giấu giếm sự ghê tởm của anh ta đối với con riêng của bố dượng
khi anh ta cạnh khoé hỏi, “nhưng liệu nó có vui mừng khi chúng ta giết chết hắn
trên trường đấu không? Con nghi ngờ đấy. Vào cái đêm chúng ta đến Claymore, thực
tế là nó đã quăng mình trước mặt hắn ta để mà cầu xin hắn tha thứ cho nó
vì đã yêu cầu cha gửi nó tới một tu viện.”
Bá tước Merrick quay ngoắt, đôi mắt ông như hai tảng băng. “Dòng máu của ta chảy
trong huyết quản nó. Nó yêu ta. Nó sẽ làm theo ý muốn của ta – nó đã làm rồi, mặc
dù nó chẳng hề nhận ra điều đó.”
Sân lâu đài được chiếu sáng bởi ánh đuốc màu da cam và chứa đầy những vị khách
cười nói và những người hầu mê mải theo dõi Royce phong tước hiệp sĩ cho người
cận vệ của Godfrey. Vì có tới sáu trăm vị khách và ba trăm chư hầu cùng đầy tớ
tham dự, nên buổi lễ đã được quyết định dời ra ngoài sân lâu đài, thay vì diễn
ra trong nhà nguyện.
Ở đường biên ngoài gần phía trước, Jenny đứng lặng lẽ, một nụ cười mờ nhạt hiện
ra trên môi nàng khi những nỗi đau của nàng tạm thời được gạt qua một bên bởi
buổi lễ và vẻ phô trương đi kèm với nghi lễ này. Người cận vệ, một chàng trai
trẻ lực lưỡng tên là Bardrick, đang quỳ trước mặt Royce, mặc một chiếc áo chẽn
dài màu trắng được dùng làm biểu tượng, áo choàng và khăn bịt đầu màu đỏ, áo
khoác màu đen. Anh ta đã nhịn ăn trong hai mươi bốn giờ qua và dành cả đêm
trong nhà nguyện để cầu nguyện và suy ngẫm. Lúc mặt trời mọc, anh ta đã xưng tội
với Cha Gregory, nghe giảng kinh, và chịu ban phước thánh.
Giờ đây những hiệp sĩ khác và vài phu nhân khách mời tham dự vào “lễ trang bị”
cho anh ta bằng cách mang về phía trước mỗi người một phần bộ áo giáp mới sáng
bóng, từng người lên một, và đặt chúng bên cạnh anh ta trước chân Royce. Khi mẩu
áo giáp cuối cùng được đặt xuống, Royce nhìn vào Jenny, người đang
cầm đôi thúc ngựa bằng vàng – biểu tượng dành riêng cho các hiệp sĩ, vì không
có ai được phép mang chúng ngoài các hiệp sĩ đã được thụ phong.
Vén chiếc váy dài bằng nhung màu xanh lục, Jenny đi về phía trước và đặt chúng
trên cổ gần nơi chân Royce. Khi nàng làm như thế, đôi mắt nàng nhìn thấy đôi cựa
bằng vàng ở gót đôi ủng da cao trên đầu gối Royce, và nàng chợt tự hỏi liệu lễ
phong tước của chàng trên cánh đồng Bosworth có được hoành tráng như thế này
hay không.
Godfrey mỉm cười với nàng khi anh ta bước tới trước mang theo vật cuối cùng và
cũng là vật trang bị quan trọng nhất: một thanh gươm đặt ngang trên hai bàn tay
anh ta. Khi nó được đặt bên cạnh Bardrick, Royce cúi về phía trước và hỏi anh
ta ba câu hỏi bằng giọng nói trầm, cứng rắn của chàng mà Jenny không thể nghe
rõ ràng. Bất kể câu trả lời của Bardrick là gì nó cũng đã làm Royce hài lòng, bởi
vì chàng đã gật đầu. Tiếp theo là hành động gõ nhẹ sống gươm lên vai theo truyền
thống, và Jenny vô thức nín thở khi Royce giơ cánh tay lên thành một đường cung
thật rộng và đánh thẳng vào mặt Bardrick một cú trời giáng.
Cha Gregory nhanh chóng tuyên bố lời ban phước của nhà thờ cho hiệp sĩ mới và
không khi rộ lên những lời chúc tụng khi “Ngài” Bardrick đứng lên và con ngựa của
anh ta được dẫn tới phía trước. Theo truyền thống, anh ta phải cưỡi lên con chiến
mã mà không được chạm tới bàn đạp, rồi anh ta làm hết sức có thể để cưỡi ngựa
vòng quanh khoảng sân đông đúc, tung các đồng tiền cho đám người hầu:
Phu nhân Katherine Melbrook, một cô gái da ngăm đen dễ thương chỉ nhỉnh hơn
Jenny vài tuổi, đến bên nàng và mỉm cười khi cô ta theo dõi người hiệp sĩ nhảy
trên lưng ngựa của mình theo bản nhạc của những người hát rong. Trong một tuần
qua, Jenny đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra nàng cũng thích một vài người Anh
– thậm chí còn ngạc nhiên hơn bởi vì họ dường như đã chấp nhận nàng.
Đó là một sự thay đổi kì diệu trong ứng xử của họ so với cái đêm kí kết thoả
thuận hôn nhân ở Merrick đến nỗi nàng vẫn còn hơi nghi ngờ về chuyện đó. Tuy
nhiên Katherine Melbrook là một ngoại lệ duy nhất, vì cô quá cởi mở và thân thiện
đến nỗi Jenny đã yêu mến và tin tưởng cô ngay từ đầu, khi cô vui vẻ tuyên bố:
“Những người hầu bàn tán rằng phu nhân là một cái gì đó ở giữa một thiên thần
và một vị thánh.” Cô nói đùa, “Chúng tôi còn được kể rằng phu nhân đã sa thải
quản gia của mình vì đã đánh một trong những người hầu hai ngày trước đây. Và rằng
một cậu bé vô lại với tài ném đá bách phát bách trúng đã được đối xử còn hơn cả
khoan dung.”
Tình bạn của họ nảy nở từ đó, và Katherine thường ở bên Jenny, giúp nàng giải
quyết một số vấn đề và sai khiến người hầu những khi Jenny và Bà dì Elinor quá
bận rộn ở đâu đó.
Giờ đây cô kéo sự chú ý của Jenny khỏi Ngài Bardrick khi đùa nghịch nói, “Phu
nhân có biết rằng ngay cả bây giờ, phu quân của cô vẫn đang dõi theo cô với cái
nhìn mà ngay cả người chồng không chút lãng mạn của tôi cũng mô tả là âu yếm.”
Bất chấp cảm nghĩ của bản thân, Jenny liếc nhìn theo hướng Katherine Melbrook
đang nhìn.
Royce đang bị bao quanh bởi một nhóm các vị khách, trong đó có cả Đức ông
Melbrook, nhưng dường như chàng đang mải miết với câu chuyện giữa những người
đàn ông.
“Ông ấy quay đi ngay khi bà quay sang nhìn,” Katherine khúc khích cười. “Tuy
nhiên, tối nay ông ấy đã không hề quay đi khi Đức ông Broughton đặt tay
lên váy của cô. Trông ông ấy cực kì ghen tuông. Ai mà đoán được,” cô vui vẻ tán
gẫu, “rằng con Sói hung bạo của chúng ta lại bị thuần hoá như một con mèo chỉ
sau có hai tháng kết hôn chứ?”
“Ông ta không phải mèo,” Jenny nói trước khi nàng có thể ngừng lời, và
nàng nói với một cảm xúc khiến cho mặt Katherine xịu xuống.
“Tôi – xin tha lỗi cho tôi, Jenny, chắc hẳn cô đang ở trong tình thế nan giải.
Chúng tôi đều hiểu cả, thật sự rất hiểu.”
Đôi mắt Jenny mở to cảnh giác khi những cảm xúc riêng tư của nàng với Royce bằng
cách nào đó đã bị mọi người phát giác. Bất chấp cuộc chiến tranh lạnh giữa họ,
hơn một tuần trước đây họ đã đồng ý với nhau rằng, khi những vị khách không
trông đợi bắt đầu đến tham dự cuộc thi đấu, họ sẽ không để lộ những cuộc cãi vã
trước khách khứa. “Tất cả mọi người đều hiểu ư?” Jenny cẩn trọng nhắc lại, “Về
cái gì kia?”
“Về việc ngày mai cô sẽ thấy khó khăn như thế nào – khi ngồi trong khán đài của
chồng mình trên đấu trường, dành cho ông ấy lời chúc phúc của cô trước mặt tất
cả đồng bào của cô.”
“Tôi không hề có ý định làm việc đó,” Jenny nói với sự quả quyết bình thản.
Biểu hiện của Katherine thì không có gì là bình thản cả. “Jenny, cô không định
ngồi bên phía đối diện – với những người Scot đấy chứ.”
“Tôi là một người Scot,” Jenny nói, nhưng bụng dạ nàng vặn xoắn lại.
“Giờ đây cô đã là một Westmoreland – ngay Chúa Trời cũng định rằng một
người phụ nữ phải trung thành với chồng của mình!” Trước khi Jenny có thể đáp lại,
Katherine đã nắm lấy hai vai nàng và nói một cách tuyệt vọng, “Cô không thể biết
sẽ gây ra chuyện gì nếu công khai về hùa với đối thủ của ông ấy đâu! Jenny, đây
là nước Anh và chồng cô là – là một huyền thoại! Cô sẽ biến ông ấy thành một
trò hề! Tất cả mọi người đang yêu mến cô sẽ khinh bỉ cô vì việc này, thậm
chí cả khi họ chế nhạo chồng cô vì đã không thể khuất phục nổi vợ của chính
mình. Làm ơn đi, tôi khẩn xin cô – đừng làm điều đó!”
“Tôi – tôi phải đi nhắc ông ấy mấy việc.” Jenny tuyệt vọng trả lời. “Trước khi
chúng tôi biết mình sẽ có quá nhiều khách khứa, đêm nay đã được định là ngày để
các chư hầu tới Claymore tuyên thệ trung thành.”
Đằng sau Jenny, hai người hầu của nàng nhìn chằm chằm phía sau nàng như thể họ
vừa bị tát, rồi họ chạy về phía người thợ rèn đang đứng với
hai tá người giữ ngựa của Claymore. “Lệnh bà,” một trong những người hầu kêu
lên giận dữ và bất bình, “sẽ ngồi với bọn người Scot vào ngày mai. Bà ấy sẽ chống
lại chúng ta!”
“Anh nói dối!” một người giữ ngựa trẻ tuổi kêu lên, anh ta đã được Jenny băng
bó và chữa trị bàn tay bị bỏng ngày hôm qua. “Phu nhân sẽ không bao giờ
làm việc đó. Bà là người của chúng ta.”
“Phu quân,” Jenny nói khi nàng đến bên Royce, và chàng quay lại với nàng ngay lập
tức, cắt ngang câu nói của Đức ông Melbrook lại giữa chừng. “Chàng đã nói,”
Jenny nhắc nhở chàng, không thể gạt bỏ những lời của Katherine về cách chồng
nàng nhìn nàng ra khỏi đầu. Jenny bàng hoàng nghĩ, có vẻ như thực sự có điều
gì đó trong đôi mắt chàng khi chàng nhìn vào nàng…
“Ta đã nói gì?” chàng khẽ hỏi.
“Chàng đã nói tất cả mọi người thường đi ngủ sớm vào đêm trước cuộc đấu,” Jenny
giải thích, khôi phục lại sự điềm tĩnh và một gương mặt biểu lộ sự lịch thiệp
vô cảm giống như nàng đã thể hiện từ sau cái chết của William. “Và nếu chàng đã
nói là tất cả mọi người đều làm thế, thì tốt nhất là nên tiến hành tuyên thệ
trung thành sớm đi trước khi quá muộn.”
“Nàng cảm thấy không khoẻ ư?” chàng hỏi, đôi mắt nhíu lại của chàng quan sát
khuôn mặt nàng.
“Không,” Jenny trả lời. “Chỉ hơi mệt thôi.”
Nghi thức tuyên thệ trung thành được diễn ra trong đại sảnh, nơi tập trung tất
cả chư hầu của Royce. Trong vòng gần một giờ, Jenny đứng cùng với Katherine,
Brenna, Stefan và những người khác, theo dõi mỗi chư hầu tiến đến Royce từng
người một. Thể theo tục lệ cổ xưa, mỗi người bọn họ quỳ xuống trước mặt chàng,
đặt hai bàn tay của ông ta trong tay Royce, khiêm tốn cúi đầu, và thề trung
thành với chàng. Cử chỉ đó ngay lập tức được nhận ra là một hành vi thể hiện sự
quy phục, vẫn thường được mô tả trong các bức tranh của các vị quý tộc tôn quý
với những thần dân thấp kém hơn họ. Jenny đã được nhìn thấy sự kiện này ở
Merrick, thì luôn luôn nghĩ rằng đó là một sự nhún nhường không cần thiết đối với
chư hầu. Cả Katherine Melbrook dường như cũng nghĩ như vậy khi cô lặng lẽ nhận
xét. “Một chư hầu chắc hẳn sẽ cảm thấy bị hạ phẩm giá vì việc này.”
“Nó phải như vậy,” Đức ông Melbrook nói, rõ ràng không cùng chia sẻ cảm nghĩ
không thích thú trước hành động này.
“Tuy nhiên, chính ta cũng sẽ ở vào vị trí như thế trước mặt Vua Henry, cho nên
nàng thấy đó, nó không hẳn là một hành vi sỉ nhục như các nàng nghĩ. Tuy
nhiên,” ông ta chữa lại sau một giây suy nghĩ, “có lẽ cảm giác sẽ rất khác khi
nàng là một quý tộc đang quỳ trước mặt vua của nàng.”
Ngay khi vị chư hầu cuối cùng đã quỳ xuống và nói lời tuyên thệ, Jenny lặng lẽ
rút lui và đi lên lầu. Agnes chỉ vừa mới giúp nàng mặc xong bộ áo ngủ bằng vải
gai mịn màu trắng có thêu những bông hồng lụa màu hồng thì Royce gõ cửa và bước
vào phòng ngủ của nàng. “Tôi sẽ xuống chỗ Bà Elinor xem bà ấy có cần gì không,”
Agnes nói với Jenny, rồi cô ta khẽ nhún đầu gối cúi chào Royce.
Nhận ra bộ váy ngủ gần như trong suốt, Jenny chộp lấy bộ váy nhung màu bạc và
nhanh chóng choàng vào người. Thay vì chế nhạo cử chỉ đoan trang đó – hay là
đùa cợt với nàng về nó – như chàng đáng lẽ sẽ làm những lúc họ vui vẻ hạnh phúc
bên nhau, Jenny nhận thấy khuôn mặt đẹp trai của chàng vẫn vô cảm hoàn toàn.
“Ta muốn nói chuyện với nàng về vài việc,” chàng lặng lẽ bắt đầu, khi nàng thắt
sợi dây lưng. “Đầu tiên là về những vật biểu trưng mà nàng phân phát cho đám
dân làng –”
“Nếu ông tức giận về chuyện đó, tôi cũng không đổ tội cho ông đâu,” Jenny trung
thực nói. “Đáng lẽ tôi phải hỏi ý kiến ông hoặc là Albert trước. Đặc biệt là vì
tôi phân phát chúng nhân danh ông. Lúc đó ông đang bận, và tôi – tôi thì không
thích Albert.”
“Ta không hề tức giận, Jennifer,” chàng lịch thiệp nói. “Và sau cuộc thi đấu ta
sẽ sa thải Prisham. Thực ra, ta tới là để cảm ơn nàng vì đã chú ý đến vấn đề đó
và đã giải quyết một cách xuất sắc. Hơn hết, ta cảm ơn vì nàng đã không tỏ lộ sự
căm ghét của nàng với ta trước mặt đám gia nhân.”
Lòng dạ Jenny chao đảo trước từ căm ghét, khi chàng nói tiếp, “thực ra nàng đã
làm ngược lại.” Chàng liếc về phía cánh cửa nơi Agnes vừa đi ra và mỉa mai nói
thêm, “chẳng có ai làm dấu thánh khi đứng gần ta nữa. Kể cả người nữ tì của
nàng.”
Jenny gật đầu, nàng không hề biết rằng chàng cũng chú ý tới chuyện đó, nên
không thể nghĩ ra điều gì để nói.
Chàng do dự rồi cong môi chế giễu nói thêm. “Cha nàng, anh trai nàng, và ba người
Merrick khác đã lần lượt thách đấu ta trong cuộc đấu thương ngày mai.”
Những tình cảm khao khát chàng đã dấy lên trong lòng Jenny kể từ khi Katherine
nhận xét về sự âm yếm âm thầm của chàng với nàng đã biến mất hoàn toàn sau những
lời nói tiếp theo của chàng:
“Ta đã chấp thuận.”
“Tất nhiên,” nàng nói với sự cay đắng không giấu giếm.
“Ta không còn lựa chọn nào khác,” chàng căng thẳng nói. “Vua của ta đã dứt
khoát ra lệnh cho ta không được phép từ chối bất kì lời thách đấu nào từ gia
đình nàng.”
“Ông sẽ có một ngày cực kì bận rộn đấy nhỉ,” nàng nhận xét, dành cho chàng một
cái nhìn lạnh lẽo. Mọi người đều đã biết là cả Scotland và Pháp mỗi bên đã chọn
ra hai hiệp sĩ dũng mãnh nhất của họ, và Royce cũng sẽ phải đối đầu với họ ngày
mai. “Ông đã chấp nhận bao nhiêu trận đấu tất cả?”
“Mười một,” chàng cộc lốc nói, “ngoài cuộc thi đấu trận giả ra.”
“Mười một,” Jenny nhắc lại, giọng nói gay gắt của nàng chứa đầy sự hoang mang
và nỗi đau đớn vô tận vì sự phản bội của chàng. “Con số thông thường chỉ là ba.
Tôi hiểu rằng ông cần gấp bốn lần bạo lực so với những người đàn ông khác để cảm
thấy dũng cảm và mạnh mẽ?”
Khuôn mặt chàng trắng bệch trước những lời nói đó. “Ta chỉ chấp nhận những trận
đấu mà ta buộc phải chấp nhận. Ta đã từ chối hơn hai trăm lời thách đấu khác.”
Một tá những câu trả miếng chua cay nhảy lên môi nàng, nhưng Jenny chẳng còn
lòng dạ nào mà nói chúng ra. Nàng cảm thấy trong lòng như đang chết dần khi
nàng nhìn vào chàng. Royce quay người rời đi, nhưng hình ảnh con dao của
William nằm trên chiếc hòm cạnh tường đột nhiên khiến nàng cảm thấy gần như tuyệt
vọng để biện hộ cho hành động của người anh đã chết của nàng. Khi chồng nàng với
tay lên nắm cửa, nàng nói, “tôi đã nghĩ đi nghĩ lại rồi, và tôi cho rằng
William đã với tay vào con dao của anh ấy không phải vì anh ấy muốn dùng nó, mà
bởi vì anh ấy chỉ cẩn thận giữ mình khi ở một mình với ông trong sảnh đường. Hoặc
có lẽ vì anh ấy sợ cho sự an toàn của tôi. Rõ ràng là ông đã rất tức giận
với tôi khi đó. Nhưng anh ấy không bao giờ cố tấn công ông đâu – không bao giờ
tấn công ông từ sau lưng.”
Đó không phải là một lời tố cáo, mà chỉ là một tuyên bố kết luận, và mặc dù
Royce không hề quay mặt lại với nàng, nàng nhìn thấy đôi vai chàng cứng lại như
thể đang chống lại nỗi đau đớn khi chàng nói. “Ta cũng đã kết luận như thế vào
đêm hôm ấy,” Royce nói, gần như nhẹ nhõm khi nói ra được điều đó. “Từ góc mắt
mình, ta nhìn thấy con dao được rút ra sau lưng, và ta phản ứng lại hoàn toàn
theo bản năng. Đó là một phản xạ có điều kiện. Ta xin lỗi, Jennifer.”
Người phụ nữ mà chàng đã cưới không chấp nhận lời hứa của chàng, hay tình yêu của
chàng, nhưng thật kì lạ, nàng lại chấp nhận lời xin lỗi của chàng. “Cám ơn,”
nàng đau đớn nói, “vì đã không cố thuyết phục tôi hay chính mình rằng anh ấy là
một tên sát nhân. Điều đó sẽ khiến chúng ta – ông và tôi dễ dàng…” Giọng nói của
Jenny lạc đi khi nàng nghĩ đến những gì sẽ xảy ra giữa họ, nhưng tất cả những
gì nàng có thể nghĩ được là những tình cảm họ đã từng có – và đã mất. “Khiến
cho ông và tôi – dễ dàng đối xử lịch thiệp với nhau hơn,” nàng kết thúc một
cách khập khiễng.
Royce thở ra một hơi dài và quay đầu nhìn nàng. “Và đó là tất cả những gì nàng
còn muốn ở ta?” chàng hỏi, giọng chàng lạc đi vì xúc cảm. “Sự lịch thiệp ư?”
Jenny gật đầu vì nàng không thể nói được gì. Và vì nàng gần như tin rằng cái
nhìn trong mắt chàng là sự đau đớn – một nỗi đau vượt qua nỗi đau của chính
nàng. “Đó là tất cả những gì tôi muốn,” cuối cùng nàng cũng nói lại được.
Cơ bắp ở cuối cổ họng chàng chuyển động như thể chàng định nói gì, nhưng chàng
chỉ có thể gật đầu cụt lủn. Rồi chàng bỏ đi.
Giây phút cánh cửa đóng lại sau lưng chàng, Jenny nắm chặt cái cọc giường, những
giọt nước mắt trào ra khỏi đôi mắt nàng như những dòng sông nóng
hổi. Đôi vai nàng rung lên dữ dội, giật cục vì những cơn thổn thức mà nàng
không còn khống chế được nữa; chúng xé toang ngực nàng và nàng vòng hai cánh
tay quanh cây cột, nhưng đầu gối không còn đủ sức đỡ thân mình nàng nữa.