Điều Kì Diệu - Judith McNaught - Chương 3
Chương 3
Không biết rằng nàng không chỉ có một mình trong mê cung hun
hút, Julianna chờ trong im lặng căng thẳng để hoàn toàn chắc chắn rằng mẹ nàng
sẽ không quay trở lại. Một lúc sau nàng thở ra một hơi dài và ló mình ra khỏi
nơi ẩn náu.
Vì mê cung này dường như là nơi trốn tránh tốt nhất cho nàng trong vài giờ tới,
nàng rẽ trái và tha thẩn đi xuống con đường mở vào một khoảng trống hình vuông
cỏ mọc cao um tùm xung quanh, ở giữa có một cái ghế dài bằng đá trạm trổ công
phu.
Nàng buồn bã suy tính lại tình cảnh của nàng, tìm kiếm một cách nào đó để thoát
khỏi cái bẫy nhục nhã và không thể chịu đựng được mà nàng đang vướng vào, nhưng
nàng biết sẽ chẳng có lối thoát nào cho nàng khỏi sự ám ảnh mù quáng của mẹ
nàng với việc muốn thấy Julianna cưới một người nào đó “thực sự có địa vị” – bây giờ, trong khi cơ
hội tới. Từ trước tới giờ điều duy nhất ngăn cản mẹ nàng khỏi mục tiêu đó chính
là thực tế không có một người theo đuổi “thực sự có địa vị” “đủ tư cách” nào
tuyên bố chính thức trong suốt những tuần lễ Julianna có mặt ở London.
Không may là, ngay trước khi họ rời London để tới đây, mẹ nàng đã thành công
trong việc mồi chài được một lời cầu hôn từ ngài Francis Bellhaven, một hiệp sĩ
già nua đáng ghét có làn da xanh xao vàng vọt, đôi mắt nâu lồi ra ngoài trông
như là sắp rớt xuống cổ áo của Julianna, và đôi môi dày cộp nhợt nhạt không
ngừng nhắc nàng nhớ tới một con cá vàng chết. Chỉ riêng ý nghĩ bị trói vào ngài Francis cả một buổi
tối, chứ chưa nói đến là cả phần đời còn lại của nàng đã không thể chịu đựng
được rồi. Ghê tởm. Đáng sợ.
Thế không có nghĩa là nàng sẽ có bất kì lựa chọn nào khác trong vấn đề này. Nếu
nàng muốn có một sự lựa chọn thật sự, thì trốn tránh ở đây khỏi tất cả những
người theo đuổi tiềm năng khác mà mẹ nàng tóm được là điều cuối cùng mà nàng
nên làm. Nàng biết điều đó, nhưng nàng không thể ép mình quay trở lại phòng
khiêu vũ được. Nàng không muốn có một người chồng. Nàng đã mười tám tuổi rồi,
và nàng có những kế hoạch khác, những giấc mơ khác, cho cuộc đời nàng, nhưng
chúng chẳng liên quan gì đến những ước muốn của mẹ nàng và vì thế chúng không
đáng quan tâm. Không bao giờ. Điều làm cho mọi chuyện còn đáng giận hơn nữa là
mẹ nàng thực sự tin bà đang hành động vì lợi ích tốt đẹp nhất của Julianna và
bà biết điều gì là tốt nhất cho nàng.
Mặt trăng ló ra khỏi những đám mây, và Julianna nhìn đăm đăm vào chất lỏng nhàn
nhạt trong ly của nàng. Cha nàng nói rằng một chút brandy thì không hại ai cả,
rằng nó sẽ làm dịu mọi sự đớn đau, cản thiện khả năng tiêu hóa, và chữa được
mọi buồn khổ. Julianna do dự, rồi trong một cơn bùng nổ của chống đối và tuyệt
vọng, nàng quyết định thử nghiệm cái lý thuyết sau. Nâng ly rượu lên, nàng kẹp
chặt mũi lại, ngửa đầu ra sau, và uống liền ba ngụm lớn. Nàng hạ ly xuống, rùng
mình và thở hắt ra. Và chờ. Chờ một niềm hạnh phúc bừng nở. Nhiều giây trôi
qua, rồi một phút. Chẳng có gì. Tất cả những gì nàng cảm thấy là một chút yếu
đuối nơi hai đầu gối và khả năng chống chọi lại những giọt nước mắt vô nghĩa
đang ngân ngấn trong mắt nàng giảm đi.
Chiều theo tứ chi bủn rủn của mình, Julianna bước tới bên chiếc ghế đá và ngồi
xuống. Chiếc ghế rõ ràng là đã được trưng dụng trước đó trong buổi tối hôm nay,
bởi vì có một ly rượu vơi một nửa ở một đầu ghế và vài ly rỗng ở bên dưới nó.
Một lát sau nàng uống thêm một ngụm rượu brandy nữa và nhìn vào trong ly, lắc
đều chất lỏng màu vàng để cho nó sóng sánh trong ánh sáng trăng khi nàng xem
xét cảnh ngộ của mình.
Nàng mong bà nàng vẫn còn sống biết bao! Bà sẽ đặt dấu chấm hết cho những hoang
tưởng điên rồ của mẹ Julianna về việc sắp đặt một “đám cưới huy hoàng.” Bà sẽ
hiểu Julianna căm ghét bị ép buộc phải làm đám cưới với bất kì người nào. Trên
đời này, chỉ có người mẹ đáng tôn quý của cha nàng là người duy nhất từng hiểu
được Julianna. Bà của nàng là bạn nàng, thầy nàng, người cố vấn của nàng.
Trên lòng bà Julianna đã học về thế giới, về con người; ở đó và chỉ ở đó thôi
nàng đã được khuyến khích nghĩ cho bản thân mình và nói bất kể điều gì nàng
nghĩ, bất kể nó có xấc xược và ngang tàng đến đâu. Đổi lại, bà của nàng luôn
luôn đối xử với nàng ngang hàng, chia sẻ những triết lý đặc biệt của chính bà
về bất kì điều gì và về mọi thứ, từ mục đích của Thượng Đế khi tạo ra trái đất
tới những điều bí ẩn giữa đàn ông và đàn bà.
Bà nội Skeffington không tin rằng hôn nhân là câu trả lời cho giấc mơ của một
người phụ nữ, hay thậm chí là đàn ông thì cao thượng và thông thái hơn đàn bà!
“Thử nghĩ một chút đến đức ông chồng của chính bà mà xem,” bà nói với nụ cười
trêu đùa một buổi chiều mùa đông ngay trước Giáng sinh năm Julianna được mười
lăm tuổi. “Cháu không biết ông nội cháu, cầu Chúa phù hộ linh hồn ông ấy, nhưng
nếu ông ấy có một bộ óc để suy nghĩ, thì bà chưa bao giờ thấy bằng chứng của
nó. Giống như tất cả những bậc tiền bối của ông ấy, ông ấy không thể nào tính
toán hai con số trong đầu và viết ra được một câu nào thông minh, và ông ấy còn
kém nhạy cảm hơn cả một đứa trẻ đang bú mẹ.”
“Thật ạ?” Julianna hỏi, ngạc nhiên và hơi hoảng sợ bởi lời nhận xét không tôn
trọng gì với một người đàn ông đã mất, người là chồng của bà nội nàng và là ông
nội của Julianna.
Bà của nàng gật đầu nhấn mạnh. “Những người đàn ông nhà Skeffington đều như thế
cả - những người cục mịch kém tưởng tượng, lười biếng, tất cả bọn họ.”
“Nhưng chắc chắn bà không thể nói Papa như thế được,” Julianna tranh cãi vì
lòng trung thành. “Cha là người con duy nhất còn sống của bà.”
“Bà sẽ không bao giờ mô tả cha cháu là một người cục mịch,” bà nói không hề nao
núng. “Bà sẽ nói nó là một thằng ngu!”
Julianna nuốt lại một tiếng cười khúc khích trước một câu nói dị thường như
thế, nhưng trước khi nàng có thể nghĩ ra một lời bào chữa đúng đắn nào, bà nàng
đã nói tiếp, “Mặt khác, những người phụ nữ nhà Skeffington lại thường thể hiện
một kiểu trí tuệ hiếm có và tài tháo vát. Hãy quan sát kĩ hơn và cháu sẽ khám
phá ra rằng thông thường những người phụ nữ mới là những người sống sót nhờ vào
trí khôn và sự quyết đoán của họ, chứ không phải đàn ông. Đàn ông không hơn gì
đàn bà trừ sức mạnh cơ bắp.” Khi trông Julianna có vẻ không chắc chắn lắm, bà
nàng nói thêm một cách đỏm dáng, “Nếu cháu có đọc cuốn sách mà bà cho cháu tuần
trước, cháu sẽ sớm nhận ra rằng phụ nữ không phải luôn luôn phụ thuộc vào đàn
ông. Tại sao ư, thời cổ xưa, chúng ta đã có sức mạnh và được kính trọng. Chúng
ta là những vị thần và nhà tiên tri và người chữa bệnh, với những điều bí mật
của vũ trụ trong trí óc và món quà của cuộc sống trong cơ thể chúng ta. Chúng
ta lựa chọn bạn đời, chứ không phải là ngược lại. Đàn ông đã phải xin ý kiến
của chúng ta và quỳ mọp dưới chân chúng ta và ghen tị với sức mạnh của chúng
ta. Tại sao, chúng ta nổi trội hơn họ về mọi mặt. Chúng ta biết điều ấy, và họ
cũng đã biết điều ấy.”
“Nếu chúng ta thực sự thông minh hơn và tài năng hơn,” Julianna nói khi bà của
nàng nhướn mày lên, tìm kiếm phản ứng cho mẩu thông tin gây sửng sốt ấy, “vậy
thì làm thế nào mà chúng ta lại mất tất cả những sức mạnh và lòng tôn kính ấy
và để mình bị phụ thuộc vào đàn ông?”
“Họ đã thuyết phục chúng ta rằng chúng ta cần sức mạnh cơ bắp của họ để bảo vệ
chúng ta,” bà nói với một cảm xúc vừa oán giận vừa khinh bỉ. “Rồi họ “bảo vệ”
chúng ta khỏi tất cả những đặc ân và quyền lợi của chính chúng ta. Họ đã lừa chúng ta.”
Julianna cảm thấy hoảng sợ trước lý lẽ ấy, và lông mày nàng nhíu lại suy tư.
“Nếu là như thế,” nàng nói sau một lúc, “thì họ không thể nào ngu đần như bà
nghĩ. Họ phải rất thông minh, chẳng phải sao?”
Trong một giây bà nội nàng nhìn đăm đăm xuống nàng, rồi bà cười lục khục tán
thưởng. “Ý hay đấy, cháu yêu, và là một ý tưởng đáng để xem xét. Bà nghĩ cháu
nên viết ý tưởng đó xuống để cháu có thể nghiền ngẫm về nó nhiều hơn. Có lẽ
cháu sẽ viết một cuốn sách của chính mình về việc làm thế nào mà những người
đàn ông đã thực hiện cái hành vi lừa gạt tinh vi ấy với đàn bà trong suốt những
thế kỉ qua. Bà chỉ hi vọng cháu sẽ không quyết định phí phạm trí tuệ và tài
năng của cháu vào một gã dốt nát nào đó muốn cháu vì nhan sắc và cố thuyết phục
cháu rằng giá trị duy nhất của cháu là ở việc sinh cho hắn ta những đứa con và
chăm sóc những ước muốn của hắn ta. Cháu có thể làm nên điều khác biệt,
Julianna. Bà biết cháu có thể.”
Bà do dự, như thể đang quyết định chuyện gì đó, rồi nói, “Điều đó mang chúng ta
tới vấn đề tiếp theo mà bà muốn bàn với cháu. Lúc này dường như là lúc thích
hợp nhất để nói.”
Bà nội Skeffington đứng dậy và đi đến bên lò sưởi ở bức tường đối diện trong
căn phòng nhỏ ấm cúng, những cử động của bà chậm chạp vì tuổi tác, mái tóc bạc
được buộc gọn lại thành một búi sau gáy. Đặt một bàn tay lên những cành cây
thường xuân bà trang trí trên bệ lò sưởi, bà cúi xuống để cào than. “Như cháu
đã biết, bà đã sống lâu hơn một ông chồng và một đứa con trai. Bà đã sống lâu,
và đã chuẩn bị đầy đủ để kết thúc tháng ngày của mình trên mặt đất này bất kể
khi nào thời khắc tới. Mặc dù bà sẽ không ở mãi đây với cháu, bà hi vọng sẽ đền
bù cho điều đó bằng cách để lại gì đó cho cháu… một khoản thừa kế để cháu sử
dụng. Nó không nhiều.”
Đề tài cái chết của bà nội chưa bao giờ được nhắc đến trước đó, và chỉ ý nghĩ
mất bà thôi đã làm ngực Julianna thắt lại đau đớn.
“Như bà đã nói, nó không nhiều, nhưng nếu cháu hết sức tằn tiện, nó có thể cho
phép cháu sống rất giản dị ở London trong vài năm trong khi cháu trải nghiệm
cuộc sống nhiều hơn và mài giũa tài viết lách của cháu.”
Trong trái tim mình Julianna điên cuồng phản đối rằng sống mà không có bà nội
là không thể được, rằng nàng không hề mong muốn đến sống ở London, và rằng giấc mơ chung của họ về việc
nàng có thể thực sự trở thành một nhà văn nổi tiếng là không tưởng. Sợ rằng một
cơn bùng nổ cảm xúc như thế có thể xúc phạm đến bà, Julianna ngồi yên trên
chiếc ghế để chân trước mặt cái ghế bành căng phồng yêu thích của bà, trong
lòng xáo trộn đầy cảm xúc mạnh mẽ, nhưng bên ngoài kiềm chế, bình tĩnh đọc lướt
qua một cuốn sách. “Cháu không có gì để nói về kế hoạch của bà dành cho cháu ư,
cô bé? Bà thì mong nhìn thấy cháu nhảy lên vui sướng. Thể hiện một chút nhiệt
tình là nên làm trong trường hợp này để đổi lại những sự cần kiệm mà ta đã tích
cực thực hiện những mong để lại cho cháu cái di sản nhỏ nhoi này.”
Julianna biết bà đang châm chọc, cố khơi gợi để nàng hoặc là đối đáp lại một
cách khôn ngoan hoặc là bàn luận một cách kiềm chế. Julianna rất giỏi trong cả
hai việc đó sau nhiều năm dài thực hành, nhưng nàng không có khả năng bàn bạc
về cái chết của bà nàng với sự hài hước cũng như là nàng không thể bình tĩnh
một cách vô cảm được. Hơn nữa, nàng cực kì bị tổn thương khi bà có thể nói về
chuyện rời xa nàng mãi mãi mà không có một chút hàm ý hối hận nào.
“Bà phải nói là cháu không có vẻ biết ơn gì cả.”
Julianna vụt ngước đầu lên, đôi mắt màu tím của nàng long lanh với những giọt
nước mắt giận dữ. “Cháu không biết ơn gì hết, bà nội, cháu cũng không muốn bàn về
chuyện này bây giờ. Đã gần đến Giáng sinh rồi, đó là thời gian cho niềm vui
–”
“Cái chết là một nhân tố của cuộc sống,” bà nàng chỉ ra ngắn gọn. “Thật vô ích khi
co rúm lại sợ hãi nó.”
“Nhưng bà là toàn bộ cuộc sống của cháu,” Julianna òa ra khóc bởi vì nàng không
thể ngăn mình được. “Và – và cháu không thích chút nào khi bà – khi bà có thể
nói với cháu về tiền như thể nó là một tặng vật từ cái chết của bà vậy.”
“Cháu nghĩ bà lạnh lùng và nhẫn tâm?” “Vâng, cháu nghĩ vậy đấy!”
Đó là cuộc cãi vã đầu tiên của họ, và Julianna ghét nó.
Bà nàng nhìn nàng hiền dịu trong một lúc trước khi hỏi, “Cháu có biết bà sẽ nhớ
điều gì khi rời khỏi mặt đất không?”
“Rõ ràng là chẳng có gì cả.”
“Bà sẽ nhớ một thứ và chỉ có một thứ mà thôi.” Khi Julianna không đòi giải
thích, bà của nàng nói tiếp: “Bà sẽ nhớ cháu.”
Câu trả lời hoàn toàn đối lập với giọng nói vô cảm và nét mặt nghiêm trang của
bà đến nỗi Julianna nhìn bà chằm chằm nghi ngại.
“Bà sẽ nhớ khiếu hài hước và sự tự tin và tài năng tuyệt vời của cháu trong
việc nhìn thấy lý lẽ của cả hai phía về bất kì vấn đề gì. Bà sẽ đặc biệt nhớ
việc được đọc những thứ cháu viết ra hàng ngày. Cháu đã là điểm sáng duy nhất
trong sự tồn tại của bà.”
Khi bà nói xong, bà tiến lên phía trước và đặt bàn tay lành lạnh của bà lên má
Julianna, gạt đi những giọt nước mắt chảy dài từ khóe mắt nàng. “Chúng ta là
hai tâm hồn đồng điệu, cháu và bà. Nếu cháu được sinh ra sớm hơn nhiều, chúng
ta có thể thành bạn tâm giao của nhau.”
“Chúng ta là bạn,” Julianna thì thầm quyết liệt khi nàng đặt bàn tay của nàng
lên tay bà và dụi má nàng vào bàn tay ấy. “Chúng ta sẽ là bạn mãi mãi và mãi
mãi! Khi bà… ra đi, cháu sẽ vẫn kể lể với bà và viết cho bà – sẽ viết thư cho
bà như thể bà chỉ dọn đi mà thôi!”
“Thật là một ý tưởng thú vị,” bà nàng nói đùa. “Và cháu cũng sẽ gửi chúng cho
bà chứ?”
“Tất nhiên là không, nhưng dù thế nào rồi bà cũng sẽ biết những gì cháu viết
thôi.”
“Điều gì làm cháu nghĩ như thế?” bà hỏi, thực sự ngạc nhiên.
“Bởi vì cháu đã nghe bà nói với cha xứ rất rõ ràng rằng thật vô lý khi cho rằng
Đấng Toàn Năng định để cho chúng ta nằm xuống ngủ mơ trong khi chờ đến Ngày
Phán Quyết. Bà đã nói rằng, sau khi đã không ngừng cảnh cáo chúng ta rằng gieo
nhân nào thì gặt quả ấy, Chúa chắc chắn sẽ bắt chúng ta phải chứng kiến những
gì chúng ta đã gieo từ một tầm nhìn rộng lớn hơn rất nhiều.”
“Cháu yêu, ta không nghĩ thế là khôn ngoan khi cháu đặt nhiều lòng tin vào
những khái niệm về mặt lý thuyết của ta hơn những lời giảng đúng đắn của cha xứ
đâu. Ta không nên mong cháu phí hoài tài năng của cháu vào việc viết thư cho ta
sau khi ta đã đi, thay vì viết gì đó cho những người còn sống đọc.”
“Cháu sẽ không phí hoài thời gian của mình,” Julianna nói với nụ cười tự tin,
một trong những cuộc tranh luận thông thường của họ về những điều vụn vặn đã
làm nàng thấy vui hơn. “Nếu cháu viết thư cho bà, cháu cực kì tin tưởng rằng bà
sẽ xoay sở được cách để đọc chúng bất kể là bà đang ở đâu.”
“Bởi vì cháu tin bà có những quyền năng thần bí?”
“Không,” Julianna trêu, “bởi vì bà không thể từ chối không sửa lỗi phát âm cho
cháu!”
“Nhóc con xấc láo này,” bà nổi quạu, nhưng bà cười lớn và những ngón tay bà mở
ra, nắm lấy bàn tay Julianna trong một cái siết tay thật chặt, đầy yêu thương.
Năm sau đó, trong ngày lễ Noel, bà nội nàng qua đời, nắm lấy bàn tay Julianna
một lần cuối cùng. “Cháu sẽ viết cho bà, bà ơi.” Julianna khóc nức nở khi đôi
mắt bà nhắm lại mãi mãi. “Đừng quên theo dõi những bức thư của cháu. Đừng quên.