Hồ sơ Một tử tù - Chương 06 - Phần 02

Tất cả những người thu thuế và những người tội lỗi thường đến gần Đức Giêsu mà nghe người, còn những người thuộc phái Pharisêu và các kinh sư thì lẩm bẩm: "Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng". Đức Giêsu mới kể cho họ nghe một dụ ngôn:
Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con lại không để chín mươi chín con ngoài đồng hoang đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó". Vậy, tôi nói cho các ông hay: Trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn. Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được. Tìm được rồi bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói: "Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đánh mất". Cũng thế, tôi nói cho các ông hay: Giữa triều thần Thiên Chúa ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối. Rồi Đức Giêsu nói tiếp: Một người kia có hai con trai. Người con thứ nói với cha rằng: Thưa cha, xin cho con phần tài sản được hưởng. Và người cha đã chia của cải cho hai con. ít ngày sau, người con thứ thu góp tất cả rồi trẩy đi phương xa. ở đó anh ta sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình. Khi anh ta ăn tiêu hết sạch, thì lại xảy ra trong vùng ấy một nạn đói khủng khiếp. Và anh ta bắt đầu lâm cảnh túng thiếu nên phải đi ở cho một người dân trong vùng. Người này sai anh ta ra đồng chăn heo. Anh ta ao ước lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy bụng nhưng chẳng ai cho. Bấy giờ anh ta hồi tâm và tự nhủ: Biết bao nhiêu người làm công cho cha ta được cơm dư gạo thừa, mà ta ở đây lại chết đói. Thôi, đứng lên đi về cùng cha và thưa với người: Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng còn đáng gọi là con cha nữa. Xin coi con như một người làm công cho cha vậy. Thế rồi anh ta đứng lên đi về cùng cha. Anh ta còn ở đằng xa thì người cha đã trông thấy. Ông chạnh lòng thương, chạy ra ôm cổ anh ta, và hôn lấy hôn để. Bấy giờ người con nói rằng: Thưa cha, con thật đắc tội với trời và với cha, chẳng nên đáng gọi là con cha nữa. Nhưng người cha liền bảo các đầy tớ rằng: Mau đem áo đẹp nhất ra đây mặc cho cậu, xỏ nhẫn vào ngón tay, xỏ dép vào chân cậu, rồi đi bắt con bê đã vỗ béo làm thịt để chúng ta mở tiệc ăn mừng. Vì con ta đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy. Và họ bắt đầu ăn mừng. Lúc ấy người con cả của ông đang ở ngoài đồng. Khi anh ta về gần đến nhà, nghe thấy tiếng đàn ca nhẩy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có chuyện gì. Người ấy trả lời: Em cậu đã về và cha cậu làm thịt con bê béo vì được lại cậu ấy mạnh khoẻ. Người anh cả nổi giận và không chịu vào nhà. Cha cậu ra năn nỉ. Cậu trả lời cha: Cha coi, đã bao năm trời con hầu hạ cha, chẳng khi nào trái lệnh, thế mà chưa bao giờ cha cho lấy được một con dê con để con ăn mừng với bạn bè. Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng. Nhưng người cha nói với anh ta: Con à, lúc nào con cũng ở với cha, tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy.
Mẩu chuyện Đàn ông, Đàn bà và con rắn như sau:
Ngày Thiên Chúa làm ra đất và trời, chưa có bụi cây nào trên mặt đất, chưa có đám cỏ nào mọc lên vì Thiên Chúa chưa cho mưa xuống đất và không có người để canh tác đất đai. Nhưng có một dòng nước từ đất trào lên và tưới khắp mặt đất.
Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra Con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và Con người trở nên một sinh vật. Rồi Thiên Chúa trồng một bụi cây ở Êđen, về phía đông, và đặt vào đó Con người do chính mình nặn ra.Thiên Chúa khiến từ đất mọc lên đủ mọi thứ cây trồng thì đẹp, ăn thì ngon, cả cây trường sinh ở giữa vườn và một cây cho biết điều thiện điều ác. Thiên Chúa đem con người đặt vào vườn Êđen để cấy cầy và canh giữ đất đai. Thiên Chúa truyền lệnh cho con người rằng: "Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái của cây cho biết điều thiện điều ác thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết".
Rồi Thiên Chúa lại phán: "Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó". Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với Con người, xem Con người gọi chúng là gì. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú nhưng Con người không tìm cho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa cho một giấc ngủ mê ập xuống trên Con người, và Con người thiếp đi. Rồi thiên Chúa rút một cái xương sườn của Con người ra, lắp thịt thế vào, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với Con người.
Con người nói:- Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!
Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.
Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ để gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt. Con người và vợ mình, cả hai đều trần truồng mà không xấu hổ trước mặt nhau.
Rắn là loài xảo quyệt nhất trong mọi giống vật ngoài đồng mà Thiên Chúa đã làm ra. Nó nói với người đàn bà: "Có thật Thiên Chúa bảo các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?". Người đàn bà nói với con rắn: Trái các cây trong vườn thì chúng tôi được ăn, còn trái trên cây ở giữa vườn Thiên Chúa bảo không được động tới kẻo phải chết. Rắn nói với người đàn bà: "Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện, điều ác". Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quí vì làm cho mình được tinh khôn. Bà ta liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó cùng ăn với mình. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng, họ mới kết lá và làm khố che thân.
Nghe thấy tiếng Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, Con người và vợ mình trốn vào giữa đám cây cối để khỏi giáp mặt Thiên Chúa. Thiên Chúa gọi con người ra và hỏi:
- Người ở đâu?
Con người thưa:
- Con nghe thấy tiếng Ngài trong vườn, con sợ hãi vì trần truồng, nên con lẩn trốn.
Thiên Chúa hỏi:- Ai đã cho ngươi biết là ngươi trần truồng? Có phải ngươi đã ăn trái cây mà Ta đã cấm ngươi ăn không?
Con người thưa:
- Người đàn bà Ngài cho ở với con, đã cho con trái cây ấy, nên con ăn.
Thiên Chúa bảo người đàn bà:
- Người đàn bà làm gì thế?
Người đàn bà thưa:
- Con rắn đã lừa dối con nên con ăn.
Thiên Chúa phán với con rắn:
- Mi đã làm điều đó, nên mi đáng bị nguyền rủa nhất trong mọi loài súc vật và mọi loài dã thú. Mi phải bò bằng bụng, phải ăn bụi đất mọi ngày trong đời mi. Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy, dòng giống ấy sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.
Với người đàn bà, Chúa phán:
- Ta sẽ làm cho ngươi phải cực nhọc thật nhiều khi thai nghén, ngươi sẽ phải cực nhọc lúc sinh con. Ngươi sẽ thèm muốn chồng ngươi, và nó sẽ thống trị ngươi.
Với Con người, Chúa phán:
- Vì ngươi đã nghe lời vợ và ăn trái cây mà Ta truyền ngươi đừng ăn nên đất đai bị nguyền rủa vì ngươi, ngươi sẽ phải cực nhọc mọi ngày trong đời mới kiếm được miếng ăn từ đất mà ra. Đất đai sẽ trổ sinh gai góc cho ngươi, ngươi sẽ ăn cỏ ngoài đồng. Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất và sẽ trở về với bụi đất.
Thiên Chúa nói: "Nay con người đã trở thành như một kẻ trong chúng ta, biết điều thiện điều ác. Bây giờ đừng để chúng giơ tay hái cả trái cây trường sinh mà ăn và được sống mãi". Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Êđen để cày cấy đất đai. Từ đó ở phía đông vườn Êđen, Thiên Chúa đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng loé, canh giữ đường đến cây trường sinh...
Hắn ngồi nghe Nhung kể chuyện đến khi trời sáng bạch thì bước xuống giường, bảo:
- Tối nay chúng ta sẽ làm đám cưới. Chúa sinh ra anh là đàn ông, sinh ra em là đàn bà, chúng ta phải làm chồng vợ thôi.
Nhung tròn mắt ngạc nhiên:
- Anh nói thật hay đùa đấy? Mà ở cái nơi khỉ ho cò gáy này cưới cheo làm gì? Nếu anh thích em sẽ là của anh. Em vẫn đang thuộc về anh đấy thôi.
Hắn không nói không rằng, bước ra phía cửa sau, lần về hang đá tìm thằng Xế. Buổi tối hôm ấy, những nhân vật chủ chốt của hội áng Sơn tập trung ở ngay bãi cỏ cách nơi ở của hắn không xa. Một đống lửa được đốt lên. Bốn bình ắc quy đặt bốn góc thắp sáng tám ngọn điện hình quả quýt. Hắn vẫn chiếc áo da mốc meo, hôi xì, còn Nhung rực sáng trong chiếc áo dài trắng có đeo dây thánh giá trước ngực. Gà quay, thịt nướng, bia hộp la liệt, khả năng ăn uống được đáp ứng đến mức tối đa, khách mời cứ việc thực lòng vui cho đám cưới của hắn. Nhung đẹp đến mức đờ đẫn trước những con mắt đang bắt đầu ngầu lên vì bia. Hắn cũng thấy là Nhung đẹp. Nét bầm giập của một đứa con gái qua tay hết thằng này đến thằng khác đã được thay thế bằng vẻ thuỳ mị, đoan trang đến khó ngờ. Lân sáu ngón hôm ấy là người uống nhiều nhất. Càng uống mặt Lân càng đanh lại, khô lạnh, vô cảm. Sống với Lân đã lâu, là chiến hữu thân thiết từng vào sống ra chết với nhau nhưng quả thực hắn không hiểu Lânlắm. Hắn đánh giá rất cao bản lĩnh chiến trận của Lân, ngoài ra hắn không hiểu gì về con người này. Lần hai đứa trốn trại ra, hắn đã từng ở nhà Lân. Đó là một ngôi nhà tồi tàn và ẩm mốc. Trong ngôi nhà đó có một người đàn bà khắc khổ cùng một đứa trẻ gái lên tám. Người đàn bà gọi Lân là cậu- Cậu Lân. Đứa bé gái gọi Lân là bố. Suốt ba ngày hắn ru rú trong buồng nên không hiểu quan hệ giữa người đàn bà đó với Lân là thế nào. Lúc đầu hắn tưởng là hai chị em. Nhưng rồi hắn thấy lạ là khi bữa cơm cuối cùng có đông đủ mọi người đứa bé lại gọi người đàn bà đó là mẹ. Hắn không muốn hỏi Lân về cái sự lạ đó. Sau này khi lên trên bãi vàng hắn ở hang trên, Lân ở hang dưới, hai đứa ít có dịp tâm sự với nhau. Mà Lân thuộc típ người không thích tâm sự. Chỉ một lần duy nhất Lân kể chuyện, ấy là trên chuyến xe chạy ba trăm cây số từ quê Lân tới bãi vàng. Qua câu chuyện hắn biết được Lân đã từng là lính ở Campuchia. Sau khi giải ngũ Lân có lấy vợ. Song người đàn bà vẫn gọi Lân là Cậu ấy chắc chắn không phải là vợ Lân. Chuyện Lân kể là chuyện về chiếc xe bò. Khi ấy chiếc xe khách chở hai thằng đang đi bỗng phanh dúi lại để tránh một chiếc xe bò qua đường. Lân buông ra một tiếng chửi thề, rồi bảo: "Xe bò của mình buồn cười thật, không giống như xe bò của người Khơme".
Hắn hỏi: " Ông đi đâu mà biết xe bò của người Khơme?"
Lân bảo: "Trước kia tôi đánh nhau ở Campuchia mấy năm. Bên ấy nhiều xe bò lắm, nó giống y như hình khắc ở những tấm phù điêu của đền thờ Bay on. Đôi bánh của nó cao lênh khênh, bằng gỗ đóng vành sắt. Thành chiếc thùng xe không vươn quá vành bánh. Đặc biệt xe nào cũng có một cái cần cong vút ra phía trước".
Hắn thấy lạ, hỏi: "Sao lại có cái cần cong vút ra phía trước?"
Lân kể: "Vì truyện cổ Campuchia nói về một người đàn ông làm cá ở Biển Hồ. Người đàn ông hễ đưa xe cá qua đoạn sông kia thì bị một con cá sấu ra ngăn đường, đòi phải nộp một số cá lớn cho cá sấu ăn đủ no. Người làm cá rất uất ức vì đưa cho cá sấu thì vợ con ở nhà sẽ đói. Nếu không thì cá sấu đòi nuốt cả bò lẫn người. Đã vậy cá sấu ngày một tham lam, nó đòi ăn ngày càng nhiều hơn. Người làm cá bàn với sấu: "Cao sang như ông sao lại chịu hạ mình ăn cá ươn. Ông hãy để tôi mang theo ông trên xe, hễ đói là ông có cá tươi ăn cho đã". Sấu nghe bùi tai đành để kéo lên thùng xe. Xe tiếp tục đi trên con đường quá ư gồ ghề. Mỗi lần bánh xe lục khục thì sấu cũng bị xô gập mình vào thành xe đau ê ẩm. Người làm cá lại nói: " Ông sấu ơi, để tôi cột tạm ông bên thùng xe, nếu không xương sống của ông sẽ gẫy mất". Sấu ta cũng biết đề phòng, chỉ cho cột qua loa. Người làm cá liền cho xe rẽ vào lối đi gập ghềnh hơn nữa. Sấu bị lắc qua lắc lại tưởng đến đứt hơi, bèn vội nài người làm cá cột mình vào thành xe thật chặt. Được thể, người làm cá bèn đem hết số thừng chão dự trữ cột thật chặt sấu vào thành xe, vào cả càng xe. Xe cứ đi và sấu ta thì đau đớn vô cùng, nhưng càng quẫy thì chão thấm nước càng thít chặt thêm, làm thân sấu phù thành từng khúc. Cái đầu sấu ưỡn ra, rền rĩ xin tha nhưng người làm cá đời nào chịu tha cho sấu. Đến lúc chết thân sấu cứng ngắc, đầu sấu vươn dài ra trước xe. Chiếc cần cong bây giờ chính là cái đầu cá sấu xửa xưa ấy biến cách mà ra".
Hắn nghe xong chuyện, gật gù: "Thì ra cái cần câu đó nhắc nhở đến trí thông minh và lòng dũng cảm của người Khơme".
Lân bỗng buột miệng: "Hồi đám cưới tôi, cả hai họ cũng đều đi xe bò. Nhưng sau này con vợ tôi khốn nạn quá. Tôi đã giết nó. Rồi cũng lại dùng xe bò chở đi ra sông vứt xác. Tôi trốn chạy trên một chiếc xe bò và bị bắt cũng ở ngay trên thùng chiếc xe bò khi trên người phủ đầy cá ươn".
Lân nói xong câu đó thì im lặng, không hé răng nửa lời cho đến khi chiếc xe dừng lại cho hai thằng nhảy xuống. Hôm nay Lân lại chia vui với hắn bằng bộ mặt lạnh như đá núi. Đám cưới của hắn gợi nhắc cho Lân nhớ về chuyến xe hoa có bò kéo ngày nào chăng? Lân hơn hắn bốn tuổi, từng là lính chiến, lại đã có vợ con nên cuộc đời nhiều trang vui buồn hơn hắn. Chính Lân là người đã dạy hắn bắn những viên đạn đầu tiên từ khẩu K54 mua được bằng số tiền cướp ở tiệm vàng sau khi trốn trại. Cũng chính Lân vạch ra kế hoạch cướp súng của bọn Thành dê ngay đêm đầu đặt chân đến bãi vàng này. Lân bảo: "ở đây muốn làm ăn được phải là bưởng của các bưởng. Hội áng Sơn của mày phải mạnh hơn các hội khác. Muốn mạnh phải có vũ khí. Thời này chỉ trông chờ vào vài ba khúc côn với mấy con lê thì vứt. Phải có súng. Đòm một phát là đâu vào đấy hết. Chiều nay tao thấy hai thằng đàn em của Thành dê tháo AK ra lau ở bãi cỏ bên cạnh lán trại. Phải lấy hai khẩu súng ấy cho bằng được". Hắn hỏi: "Lấy bằng cách nào?". Lân bảo: "Kiếm khoảng mười thằng, bịt mặt lại, mang theo dao và kiếm. Tao với mày sẽ nhái giọng miền trong. Nửa đêm nay ập vào cướp. Sáng mai vẫn sang chia buồn như thường. Nếu chúng nó chống cự đến cùng thì tao sẽ rút quả mỏ vịt này ra, đốn chúng như đốn cây non ấy".
Đêm ấy bọn hắn đã thành công. Cũng chính Lân đã tháo lắp từng bộ phận trên súng AK chỉ cho hắn biết đâu là nòng, là qui lát, là hộp tiếp đạn, là báng, là lò so, là kim hoả, là đầu ruồi của một khẩu súng. Sau đó Lân cũng dạy hắn cách bắn tà âm, tà dương, cách để nấc liên thanh, tắc cú, điểm xạ. Lân lì lợm, giỏi tác chiến, hơi hiếu sát và đôi lúc tâm tính bất thường như người có biểu hiện mắc bệnh thần kinh. Hắn chịu trách nhiệm tổ chức hội nhóm, khai thác, cô đúc, lưu thông, phân phối số cám vàng thu được. Lân luôn ủng hộ hắn. Dù sao hắn cũng là thằng có học. Hắn chịu khó đọc báo, nhận biết được những thay đổi từng ngày của xã hội, biết tiến ra, rút vào đúng lúc, phù hợp nên hội áng Sơn của hắn không ngừng lớn mạnh. Ngay cả việc hắn tổ chức thành công quán hàng tổng hợp do Nhung đứng quản lý cũng chứng tỏ hắn có đầu óc hơn những bưởng khác có thâm niên ở bãi vàng này.
Cuộc vui của hắn rồi cũng đến lúc tàn. Lân đến bên hắn, bảo: "Ông chui vào hang cho sớm đi. Bắt đầu từ ngày hôm nay ông sẽ phải nghĩ đến việc có ra tự thú hay không đấy. Con vợ ông nó sẽ nhắc nhở ông điều ấy. Nếu đúng thế, nó là con vợ tốt. Dù có phải bóp cổ nó thì cũng nên xây cho nó một nấm mộ đàng hoàng".
Rồi Lân lững thững bước về hang đá của mình. Lân cũng được hưởng lợi từ bãi vàng này tỉ lệ tương đương như hắn. Lân đánh thành từng lá to bằng đốt ngón tay cho vào con lợn đất. Lân bảo: "Bao giờ ruột con lợn này được lèn chặt thì tao sẽ tìm về quê, đặt nó lên đầu giường đứa con gái, rồi ra gốc chuối sau vườn nhà, đòm một phát, thế là xong".
Chính vì Lân có một mục đích sống khá rõ ràng như thế nên phong thái Lân lúc nào cũng ung dung tự tại. Lân tàn bạo và hiếu sát là để giành giật lấy khoảng thời gian và không gian ngắn ngủi này mà kiếm vàng nhét cho đầy con lợn đất kia. Lân cần sống, cần vàng, vì thế Lân sẵn sàng làm tất cả. Còn hắn? Hắn không nhìn thấy tương lai của mình có một phát đòm nhẹ nhàng ở dưới gốc cây chuối sau vườn nhà như Lân. Hắn ham sống nhưng chẳng biết sống để làm gì? Hắn cần vàng nhưng vàng chẳng là gì trước cái giá của sự tự do, trước mẹ hắn và Dịu. Hắn rơi vào hoảng loạn triền miên. Lối thoát của hắn chỉ là đáy hang đen ngòm, lạnh ngắt. Bây giờ thì hắn có thêm Nhung. Nhung đã chấm hết tuổi con gái của mình ở tuổi mười ba. Sau khi mẹ Lan chết bởi bệnh tim bẩm sinh quái ác, Nhung bị ông bố nuôi râu xồm đánh cướp lạc thú làm người ở cái tuổi mà cơ thể chưa được Chúa vẽ lên những vệt mực tầu cần thiết. Đôi mắt luôn ngước lên của Nhung không tìm được sự lý giải nơi trần nhà lúc nào cũng vàng vọt ánh nêông, đã phải khép mi lại thả trôi theo dòng nước. Nhưng dòng nước cũng chả nỡ giết hại một đứa trẻ đẹp đẽ như Nhung nên đã trả Nhung về với vạn chài nhỏ nép mình nơi cửa sông. Những người đàn ông ở vạn chài tìm thấy ý nghĩa của tạo hoá ở Nhung nên họ nuôi cô để lấy thân xác cô chứ không cần đôi mắt ngước lên, thánh thiện, trước mỗi mùa giông bão. Nhung kinh tởm đám người lúc nào cũng nồng nặc mùi vị tanh tưởi của cá, cô tháo chạy lên bờ, và tìm đường trở về với ngôi làng có tháp chuông hai tầng trước cửa có bụi Mân côi khắc trên đá. Đường về của cô cứ dài ra mãi, chỉ dằng dặc những đàn ông là đàn ông, cho đến khi cô ngỡ là Chúa sinh ra mình chỉ để đi trên con đường ấy và cô đành chấp nhận sự an bài. Con đường đó đã dẫn Nhung đến với bãi vàng Lũng Sơn và ở đây cô gặp người đàn ông cuối cùng của đời mình. Chỉ có điều người đàn ông ấy không được tự do. Người đàn ông đó luôn nhốt mình trong hang đá, triền miên hoảng loạn, triền miên toan tính, triền miên đâm chém và triền miên mơ về một cõi xa xôi, rất thực nhưng lại chẳng thể nào tìm đến được.
Đúng như Lân nói. Mỗi khi nhìn cái bụng của Nhung nhô dần lên sau làn áo thun mỗi ngày một chật cứng, hắn lại nghĩ đến hai chữ: Tự thú. Bẩy năm, mười năm, hay mười lăm năm ở tù đi nữa thì vẫn còn có một ánh đèn ở cuối đường hầm kia làm đích cho hắn đi tới. Đằng này quanh hắn chỉ là hang đá tối đen, hun hút, vô định, mông lung lắm. Hắn sợ. Rồi hắn ghen với sự bình thản ở Lân. Sao hắn không tìm thấy sự thanh thản cho mình ở đằng sau một phát đòm dưới gốc cây chuối nơi vườn nhà hắn nhỉ? Nhiều đêm, hắn ngồi ôm bụng Nhung mà nước mắt ứa ra.
Xung quanh hắn hang đá ẩm ướt và lạnh lẽo.