Hồ sơ Một tử tù - Chương 09 - Phần 02

Bằng gật đầu, bảo:
- Thôi được rồi, tôi có thể sẽ không tham dự phiên toà, chỉ gửi lời bào chữa thôi. Tôi không đủ sức chịu đựng cảnh người ta tuyên tử hình Đàn. Lời tuyên án ấy xét đến cùng là tuyên cho cả thói sống ích kỷ, hợm hĩnh, ngông cuồng và ngu muội của tôi nữa. Nếu tất cả không bắt đầu từ đêm sinh nhật nghiệt ngã ngày nào thì có thể Đàn đã không như thế này. Tôi sẽ thường xuyên vào thăm Đàn và chuyện phiếm cho Đàn đỡ buồn. Đàn cần gì tôi sẽ mua giúp Đàn?
Hắn bảo:
- Tôi còn biết cần gì nữa bây giờ ngoài những câu chuyện phiếm của ông?
Bằng cúi xuống, nói nhỏ vào tai hắn:
- Tôi có thể giúp Đàn liên hệ với gia đình, Đàn có muốn nhắn tin cho ai không?
Hắn bảo:
- Thôi, nói chuyện khác đi, ông còn nhớ thầy Quý không?
Bằng gật đầu:
- Thầy Quý bây giờ khá lắm. Thầy bảo vệ xong tiến sĩ rồi, sắp tới có thể thầy sẽ lên làm thứ trưởng. Tôi mới gặp thầy tháng trước.
Hắn hỏi:
- Thầy còn nhớ tôi không?
Bằng bảo:
- Nhớ. Thầy bảo trong số các học trò của thầy, thầy thương Đàn nhất. Thầy còn nói: "Đáng tiếc nhưng đáng tiếc hơn là tất cả chúng ta đều có lỗi mà không biết". Tôi nghiệm ra một điều, cuộc đời mỗi con người là triền miên những lầm lỗi và hối hận, loài người sẽ chẳng thể thức tỉnh vì không ai sống được hai cuộc đời để mà nhận ra những lỗi lầm của mình.
Hắn bảo:
- Tôi có cảm giác ông vào đây mang theo cả một tâm trạng sám hối trong mình. Chẳng lẽ chỉ vì ông gặp một chút thua thiệt nào đó, như không có con chẳng hạn, mà ông sa vào những suy nghĩ u uẩn như vậy?
Bằng bảo:
- Thực ra tôi cũng chỉ là một kẻ ích kỷ thôi. Con người ta ai cũng vậy, chẳng ai muốn chết là chấm hết, là mất tất cả. Ai cũng muốn còn lại một cái gì đó, đấy là con cái. Tôi được hưởng lạc thú quá sớm để rồi cũng lại phải bó tay nhìn lạc thú đi qua trước mắt mình mà không sao lấy lại được. Tôi không còn khả năng ân ái nữa. Sự sống chắc cũng chẳng còn kéo được dài. Tôi sám hối bởi vì tôi còn lắm ham muốn. Con người ta là thế đấy. Sau sám hối sẽ lại là tội lỗi. Cái vòng luẩn quẩn ấy chẳng sao thoát ra được. Ngay động cơ đưa tôi vào đây với Đàn thực chất cũng chỉ là đi tìm một sự giải thoát mà thôi. Giải thoát để làm gì? Để hy vọng một điều gì đó tốt đẹp sẽ trở lại với mình chăng, ví như sẽ khỏi bệnh tật chẳng hạn, sẽ có con chẳng hạn. Nhưng có con rồi thì sẽ lại lao vào kiếm tiền để nuôi con bằng người, hoặc hơn người, và trong công cuộc kiếm tiền ấy ai dám chắc sẽ không phạm phải những lỗi lầm? Ôi, sao cái giống người cứ tưởng vĩ đại lắm mà nhỏ bé, tội nghiệp, đáng thương đến thế!
Hắn nghe Bằng nói chợt nhớ ra là ngày xưa Bằng nổi tiếng ở khoa về khả năng hùng biện. Hắn chẳng bao giờ quên được bài hùng biện đói nghèo và nghèo đói của Bằng trong buổi Xê-mi-na bàn về xã hội đẳng cấp của Ấn Độ cổ đại. Bây giờ Bằng đang nói say sưa về con người và số phận, tội lỗi và sám hối, nhưng không phải với dáng vẻ của một nghệ sĩ tài hoa đang diễn trên sân khấu, mà bằng tất cả những chiêm nghiệm của đời mình. Hắn bỗng thấy thương Bằng. Đây là điều khá buồn cười bởi trời sinh ra Bằng dường như là để nhắc nhở những người khác nhớ về khiếm khuyết của mình. Bằng xuất hiện ở đâu là buông những lời móc máy, xỏ xiên ở đấy. Bằng đại diện cho những gì đủ đầy, tròn trịa, hoàn chỉnh giữa một đám bạn hầu hết đều chưa bước qua khỏi lằn ranh tự ti đói nghèo. Những lúc như vậy, và sau này dù có xa Bằng thì hắn vẫn cho rằng Bằng là một anh chàng đáng ghét, hay nói đúng hơn, đáng ghen tị bởi cuộc sống luôn ưu ái đối với Bằng. Thế mà lúc này hắn lại thấy Bằng đáng thương dù bản thân hắn đang bị coi là thú tính, hiếu sát, côn đồ, đáng bị loại trừ khỏi xã hội. Rất có thể bước ra khỏi cái phòng giam này Bằng sẽ mang khuôn mặt khác, dáng dấp khác, tác phong khác, lối hùng biện khác, người ta sẽ lại chỉ còn thấy Bằng là một luật sư giàu có, hào hoa, đủ đầy, thành đạt. Đúng rồi, trước những đôi mắt bon chen, ganh đua, trong chốn hỗn độn háo danh, thèm lợi ai cũng thích trương ra những cái hơn người của mình. Chỉ đến khi trước một người không còn dám mơ tưởng gì tới cõi đời này nữa thì người ta mới chịu hạ vây, thu cánh, xếp hết những góc cạnh, nanh vuốt lại để an ủi, xẻ chia và thổ lộ những mất mát, đau buồn của chính mình. Hoá ra cuộc đời muôn mặt không dễ gì lý giải và bi kịch chẳng dành cho riêng ai, để cho riêng ai, giáng lên đầu riêng ai mà có ở bất cứ đâu, trong mỗi con người, nằm bên cạnh hai chữ Hạnh Phúc. Nó là cặp bài trùng, là mặt đối lập, là phần âm nếu hạnh phúc là dương, là mùa đông nếu hạnh phúc là mùa xuân, là bóng đêm nếu hạnh phúc là ánh ngày, là tiếng khóc nếu hạnh phúc là tiếng cười, chẳng ai không có, chẳng ai không đeo mang.
Cho đến ngày ra toà Bằng còn đến thăm hắn ba lần nữa. Đúng như Bằng nói, hôm xử hắn, Bằng không có mặt. Vị thẩm phán giữ chân chủ toạ phiên toà hỏi hắn có ý kiến gì về việc luật sư vắng mặt không? Hắn bảo hắn không có ý kiến gì, đề nghị toà cứ xét xử. Hắn không ngạc nhiên khi nghe toà tuyên tử hình. Chỉ có điều, năm đêm liền sau đó hắn toàn mơ thấy những điều hãi hùng. Đêm đầu tiên hắn mơ thấy một người đàn bà độ bốn mươi tuổi. Chị ta rao bán bánh cuốn trên một chiếc xe đạp tuềnh toàng, cũ kỹ. Hắn gặp chị ta ở một con phố nhỏ. Chị ta cứ lượn đi lượn lại trước mặt hắn, nhìn hắn cười, đon đả mời chào. Hắn đói. Hắn ăn bánh của chị ta rất ngon lành. Lúc đầu hắn ăn bằng đĩa. Sau đó hắn bốc ăn. Rồi chị ta vừa dỡ bánh vừa đút vào miệng hắn. Đến khi hắn no quá, không ăn được nữa, chị ta vẫn dỡ bánh đút vào miệng hắn. Hắn không sao bỏ đi được. Một tay người đàn bà túm lấy tóc hắn, tay kia chị ta cứ tống vào miệng hắn từng búi bánh một. Hắn chợt nhận ra những lớp bánh chị ta nhét vào mồm mình không phải làm bằng bột có rắc hành và quệt mỡ mà toàn là giấy bản. Ôi chao, hắn đã xơi đầy một bụng giấy bản, giấy tắc ở họng , chặt cứng ở mồm, và còn đang tiếp tục được đưa vào. Hắn ngạt thở quá. Kinh tởm vì những thứ mình đã nuốt vào bụng, chẳng tiêu được, cứ như cái họng súng được lùa giẻ, hắn quì xuống van xin người đàn bà bán bánh cuốn tha cho hắn. Nhưng chị ta kẹp đầu hắn vào hai bắp chân rắn như thép của mình, tiếp tục tống cái thứ bánh trăng trắng, nhờ nhờ kia vào mồm, luôn miệng bảo: "Mày giết chồng bà, để bà bơ vơ, cơ cực thế này, bà cho mày biết thế nào là chết tức chết tưởi". Thế rồi từ cổ chị ta rơi xuống một sợi dây có đeo hình thánh giá. Chị ta đành buông hắn ra để nhặt lên sợi thánh giá của mình. Lúc này hắn mới nhìn kỹ khuôn mặt người đàn bà và hắn hoảng hồn khi nhận ra đó là vợ Hân. Phải rồi. Sáng nay chị ta ngồi ở dãy ghế dành cho người bị hại. "Chỉ còn vài tháng nữa là chồng tôi được về với tôi. Anh ấy có thể thức thâu đêm xay bột giúp tôi tráng bánh. Anh ấy có làm hại gì chúng nó đâu mà chúng nó nỡ giết anh ấy. Ối giời ơi, anh Hân là anh Hân ơi!". Tiếng khóc và tiếng hờn thê thảm của người đàn bà bán bánh cuốn châm điện vào cột sống hắn. Hắn bật ngồi dậy, choàng tỉnh, thấy ngoài kia tiếng giày của người gác tù vẫn cồm cộp đi lại. Đêm đang tàn. Hắn sờ lên trán thấy mồ hôi túa ra ướt đẫm.
Đêm sau hắn không dám ngủ nữa. Hắn sợ hình ảnh người đàn bà bán bánh cuốn lại hiện về nát hắn. Nhưng gần về sáng thì hắn cũng thiếp đi. Hắn gặp một thiếu phụ đeo tang, ngồi khâu ở trước cửa một gian nhà tập thể cấp bốn tồi tàn. Hắn đi ngang qua và dừng lại xin nước uống. Hắn hỏi chị ta khâu gì? Chị ta bảo khâu chiếc áo lót cho chồng. Rồi chị ta bảo hắn mặc thử xem chiếc áo chị ta khâu có đẹp không? Chiếc áo lót ấy may theo kiểu cổ rộng có tay, bị một vài vết thủng, đã được mạng lại rất khéo. Hắn mặc thử lên người, khi luồn vào thấy rộng nhưng khi mặc xong lại thấy chật. Chật quá. Chẳng hiểu sao chiếc áo cứ thít vào người hắn, nhất là vùng ngực, vùng cổ, làm hắn thấy khó thở. Hắn gào lên, nằm vật ra, giãy giụa nhưng càng giãy càng bị chiếc áo thít chặt cứng vào người. Hắn há mồm, lưỡi thè ra, thở khò khè, mắt trợn lên, thất thần. Thiếu phụ đeo tang vẫn cứ ngồi như hoá đá, mắt nhìn về cuối hồi nhà nơi có con đường dẫn lên đỉnh núi mờ xa. Rồi bỗng nhiên có tiếng trẻ con khóc. Thiếu phụ bước vào trong nhà và lát sau thì bế ra một đứa trẻ độ bảy, tám tháng tuổi. Đứa trẻ đó nhìn thấy hắn nằm trước cửa nhà, lưỡi thè ra, toàn thân cứng đờ thì nín khóc. Mẹ đứa trẻ bảo rằng: "Áo của bố con mẹ khâu xong rồi nhưng bố con còn đi bắt cướp chưa về. Nếu bố con không về thì lớn lên con sẽ mặc chiếc áo ấy của bố nhé?". Đứa trẻ bỗng cười khanh khách. Rồi nó cất tiếng hỏi mẹ: "Cái thằng người nào nằm kia hả mẹ?". Mẹ nó bảo: "Đâu? có thằng người nào đâu? Mẹ chẳng nhìn thấy gì cả". Đứa trẻ vẫn cứ một mực bảo: "Có. Có thằng người nằm kia kìa, trông lạ lắm, thân nó cứng đơ, lưỡi nó thè ra, mắt nó mở trừng trừng, mẹ dựng nó dậy cho con chơi với nó". Mẹ đứa trẻ bảo: "Con tôi nhớ bố quá, lại mắc bệnh rồi, thôi để mẹ đi thắp hương nhé". Người thiếu phụ bước vào nhà, tiến tới bàn thờ nơi đặt một tấm ảnh có hình một người đàn ông đội mũ, đeo sao, mặc sắc áo vàng, châm hương. Hắn giật mình khi nhận ra người đàn ông trong tấm ảnh ấy. Người này đã lao vào hang bắt hắn và hắn đã vung khẩu súng K54 lên nhằm thẳng vào anh ta bóp cò. Đúng rồi. Bây giờ thì hắn nhận ra người thiếu phụ đeo tang ngồi khâu áo kia rồi. Chị ta cũng ngồi trên hàng ghế dành cho người bị hại. Trời ơi, hàng ghế ấy còn nhiều người lắm. Hắn lăn lộn gào thét để thoát khỏi tình trạng căng cứng toàn thân. Đến khi người gác tù đập vào vai hắn, hắn mới tỉnh. "Ôi, nước, nước!". Hắn thấy háo kinh khủng. Tu hết ca nước lạnh hắn mới hoàn hồn trở lại. Trời đã sáng từ lâu. Hắn đưa hai tay lên đấm bình bịch vào đầu. Tại sao đầu hắn lại chứa những hình ảnh buồn thảm, kinh khiếp thế? Tại sao những cơn mộng mị cứ kéo về hành hạ hắn thế? Không rét mà hắn thấy người mình run lên.
Đêm thứ ba hắn vừa chợp mắt thì lại gặp một đứa trẻ lên tám. Đứa trẻ ấy đang chơi trò gì đó ở trên một cánh đồng lúa vừa gặt, có gốc đa to. Thằng bé cứ chạy lên chỗ gốc đa rồi lại chạy xuống dưới cánh đồng. Hắn đến và đứa trẻ bảo: "Chú có thích chơi trò giang hồ tàn khốc không?". Hắn nghe thấy lạ quá, liền hỏi: "Trò giang hồ tàn khốc là trò gì?". Đứa trẻ bảo: "Chú để cháu đắp đất ruộng lên người, nặn thành một hình nhân thì sẽ biết". Hắn đồng ý để thằng bé lấy đất nặn lên người. Nặn xong nó lôi hắn tới chỗ gốc đa. Ở đấy đã có bốn, năm hình nhân bằng đất được dựng ngay ngắn. Đứa bé chỉ vào đống đồ đã để sẵn ở dưới chân, bảo: "Đây là máng gỗ, đây là cuốc, đây là dao dựa, đây là dây thừng, cháu phải chuẩn bị tất cả để lên bãi vàng trả thù cho bố cháu". Hắn hỏi: "Bố cháu làm sao mà phải trả thù?". Đứa bé bảo: "Bố cháu bị các nhóm giang hồ ở trên ấy sát hại. Đây là thằng Đàn, đây là thằng Hùng quăn, đây là thằng Thành dê, còn đây là thằng Tùng chột. Bố cháu bị bọn này lừa lên trên đấy đào vàng nhưng thân đi thì có thân về thì không, bây giờ chẳng biết gửi nắm xương tàn ở chỗ nào. Cháu sẽ lên đó hỏi tội bọn chúng nó. Cháu sẽ hỏi tội như thế này này...".Đứa bé đang nói bỗng rút cuốc bổ vào đầu một thằng hình nhân nặn bằng đất ruộng. "Cháu sẽ hỏi tội như thế này, như thế này...", đứa trẻ luôn miệng "hỏi tội" và tay thì dùng dao và cuốc cứ thế phang tới tấp vào các hình nhân. Lạ thay các hình nhân nặn bằng đất đó lại có máu. Máu phun ra ướt đẫm vạt cỏ dưới gốc đa già. Đến hình nhân cuối cùng, thằng bé bỏ dao, bỏ cuốc, nhảy lên trên không, đưa tay vặn đầu thằng người đất từ đằng trước ra đằng sau. Từ thằng người này bỗng vang lên tiếng kêu "a...a" đau đớn, quằn quại, dàn trải khắp cánh đồng, thúc vào tai hắn từng đợt từng đợt như sóng triều cuộn táp. Đứa trẻ bảo: "Bố cháu ra đi không về, mẹ cháu bỏ đi lấy chồng khác, giờ chỉ còn cháu bơ vơ giữa cánh đồng này. Nhà cháu ở dưới gốc đa. Thức ăn của cháu là lúa, ngô, khoai, sắn và chuột! Chú hãy sống ở đây với cháu, bao giờ cháu lớn cháu sẽ dẫn chú lên bãi vàng để tìm xác bố cháu và dạy cho lũ giết người kia một bài học". Hắn bỗng thấy trong người lạnh toát. Hắn bảo: "Thôi, cho chú đi về, chú không thể ở đây với cháu được". Đứa trẻ bảo: "Chú về cũng được, nhưng trước khi chú về chú phải trả bố cháu về cho cháu". Hắn quì xuống van xin đứa bé: "Cháu tha cho chú, cái chết thì không thể lấy lại được". Đứa bé lại bảo: "Thế thì chú phải tìm mẹ về cho cháu". Hắn lại khẩn nài: "Chú biết tìm mẹ cháu ở đâu bây giờ? Thôi, cháu cứ ở dưới gốc đa này, giữa cánh đồng này rồi một ngày kia mẹ cháu sẽ về đón cháu đi. Chú chẳng giúp được gì cho cháu đâu". Đứa trẻ bỗng hét lên một tiếng rồi vung máng gỗ đập thẳng vào đầu hắn. Chiếc máng gỗ như một tấm bê tông vẫn dùng cho xây dựng các khu nhà lắp ghép từ từ rơi xuống đầu hắn. Hắn khiếp đảm, cố chạy để tránh nhưng không sao chạy được. Toàn thân hắn đã được đắp đất ruộng và bây giờ thứ đất đó chôn cứng hắn nơi gốc đa như những hình nhân bên cạnh. Đúng lúc chiếc máng chạm vào đầu hắn thì hắn tỉnh. Hai bên má hắn nước mắt đầm đìa. Hắn nhớ là hắn đã khóc khi đứa trẻ kêu gào đòi bố. Con suối lở loét nơi bãi vàng Lũng Sơn vùi lấp bao nhiêu xác chết, có xác chết nào là bố của đứa trẻ không? Có xác chết nào do chính tay hắn cầm máng gỗ bổ vào đầu không? Có xác chết nào bị mổ bụng vì nghi nuốt vàng vào ruột không? Có xác chết nào bị mất một cánh tay vì hỗn chiến không? Hắn đập đầu bình bịch xuống nền nhà, cố xua đuổi những hình ảnh chết chóc, chém giết rất thảm khốc, tang thương cứ len lén len lén tìm về trú ẩn trong tiềm thức. Đến nỗi cán bộ trại giam tưởng hắn tự tử phải mở khoá vào phòng giữ chặt hắn lại. Hai đêm sau hắn còn tiếp tục mơ thấy những khuôn mặt ngồi ghế bị hại. Số những người này nếu cứ tiếp tục xuất hiện để hành hạ hắn bằng những cơn mộng mị quái đản thì có cho hắn gấp đôi thời gian kháng án cũng vẫn không hết. Rất may, sau ngày xử phúc thẩm, những cơn mơ như thế không đến với hắn nữa. Có thể thời gian này hắn nhận được nhiều thư từ thăm hỏi của người thân nên tâm trạng đỡ căng thẳng hơn, thần kinh trở nên ổn định và tâm hồn thư thái trở lại. Mẹ hắn là người viết thư cho hắn nhiều nhất dù bà không biết chữ. Bà đã tìm đến ở nhờ nhà một người nào đó cách nơi giam hắn không xa và nhờ người ta viết thư để gửi vào cho hắn. Khác với mọi lần trước đây, bà không hề khóc, cũng không lu loa chửi mắng hắn hay kêu trời, kêu đất, than thân trách phận gì cả. Qua thư hắn hình dung ra bà chỉ lặng lẽ ngồi ngắm nhìn ảnh hắn. Rồi bà kể cho hắn nghe những câu chuyện thủa ấu thơ, khi hắn còn trong vòng tay vỗ về của bà. Lúc đầu hắn không chịu nổi những lá thư như thế, hắn nghĩ mẹ hắn đang cố tạo ra một không khí vui vẻ gượng gạo. Hắn không muốn sự gượng gạo đó. Nhưng rồi hắn nhận ra là mẹ hắn đang làm cái việc của một người mẹ đi nuôi con mắc bệnh hiểm nghèo ở bệnh viện. Biết rằng con sẽ chết, người mẹ chỉ biết ngồi bên giường bệnh kể chuyện cổ tích cho con nghe mà thôi. Bây giờ thì hắn cũng có khác gì đứa trẻ đó. Và mẹ hắn đang ngồi ngoài song cửa sắt ru cho cục máu u buồn của mình trước khi đem đi hoá. Hắn đọc xong rồi gối đầu lên hai bắp đùi mình tưởng tượng ra giọng kể của bà. Dần dần hắn trở nên thèm khát những cánh thư ấy, câu chuyện ấy, cách kể ấy từ người mẹ già đáng thương kia. Những câu chuyện của bà có ý nghĩa như một sự cứu rỗi. Linh hồn hắn rồi đây sẽ có bến bờ neo đậu, những câu chuyện của bà chính là nẻo về sau cái sự siêu thoát tàn khốc nay mai. Lần nào hắn cũng khóc. Khóc ngon lành. Mẹ hắn không khóc được như hắn. Bà chỉ khóc dấm dúi khi sau lưng không còn ánh mắt nào dõi theo nữa. Những lúc ấy bà khóc như cây rung gió giật, khóc đến kiệt sức, lả mình trong sự cô đơn. Trời bắt bà phải thế, thôi thì nín lặng mà đau, nín lặng mà xót, nếu có thể thì nín lặng mà chết, chẳng để người đời biết đến làm gì, chỉ thêm buồn thêm tủi.
Người thứ hai gửi thư cho hắn là Dịu. Chỉ một lá duy nhất. Hắn đã được gặp lại Dịu trong phiên toà sơ thẩm. Dịu hầu như không thay đổi. Vẫn chiếc áo cổ lá sen, trước ngực có xẻ hình quả bầu. Dịu có đôi mắt buồn vô cùng, gợi những cánh cò xa xăm trên đồng lúa xạc xào gió thổi. Dịu cứ nhìn hắn bằng đôi mắt dập dìu hương lửa, bát ngát trăng sao, lung linh sóng nước. Đôi mắt Dịu gợi nhắc trong hắn toàn những điều trong trẻo, tinh khiết, xa ngái. Trong những giây phút gặp nhau ngắn ngủi hắn hỏi: "Sao Dịu không lấy chồng đi?". Dịu chỉ cười nhẹ. Nụ cười phảng phất buồn, hơi chua xót và nhẫn nhục. Hắn tin là Dịu không còn yêu hắn. Nếu hắn có thoát được cái án tử hình thì Dịu cũng chẳng bao giờ còn là của hắn nữa, chỉ có điều Dịu quá tôn thờ tình yêu, quá hết mình cho một lần lỡ dở, quá cạn kiệt lòng mình cho một lần bùng cháy, nên chẳng thể làm lại được nữa. Dịu không trách hắn đâu. Hắn nhìn vào đôi mắt kia của Dịu là hắn biết. Nhưng đôi mắt ấy dội mưa axít vào lòng hắn. Hắn đã phụ tất cả những gì tốt đẹp nhất mà một đời thiếu nữ có thể dâng hiến: Thời gian, nhan sắc, trinh tiết, tình yêu. Bây giờ Dịu trả cho hắn đôi mắt. Hắn không dám nhìn vào đôi mắt ấy. Vị tha thế mà sao đớn đau. Nhân ái thế mà sao cay đắng. Đẹp đẽ thế mà sao u buồn. Trung thực thế mà sao tủi hổ. Nhiệt huyết thế mà sao nguội lạnh. Đừng nhìn hắn bằng đôi mắt như thế nữa. Hắn van Dịu đấy. Dịu hãy lấy chồng đi. Điều ấy sẽ làm cho hắn thanh thản vì dù sao thì hắn cũng chả là gì trong ngăn tủ cuộc đời của Dịu. Kiếp này hắn nợ Dịu quá nhiều. Nhưng Dịu đừng để cái bóng của hắn trong túi riêng của mình làm gì. Tội tình lắm Dịu ơi!
Người thứ ba gửi thư đến cho hắn là anh Dương. Thư anh Dương không khác những điều anh nói với hắn trong buổi gặp ở phiên toà sơ thẩm. Anh bảo: "Anh không muốn cho chị và các cháu gặp em trong hoàn cảnh này. Những bài báo viết về em anh cũng giấu biệt đi, không cho các cháu biết, sợ ảnh hưởng không tốt đến nhận thức của chúng nó. Anh gặp em lần này, chỉ muốn nói với em một điều rằng, cũng còn may cho dòng họ Phạm nhà mình là anh đã sinh được một cháu trai nối dõi. Mệnh em ngắn ngủi, đến đây là dừng, thôi thì cứ yên tâm, không phải lo nghĩ gì."
Hắn hỏi:
- Công việc của anh thế nào?
Anh Dương bảo:
- Tốt. Nhìn chung là những việc em làm không ảnh hưởng đến con đường công danh của anh. Anh vừa được đề bạt phó giám đốc. Anh đón mẹ ra ở với anh, để mẹ ở một mình một phòng trên tầng ba. Mẹ già rồi, bây giờ lại sùng đạo, suốt ngày tụng kinh gõ mõ. Nhiều lần mẹ bỏ anh về lại quê cũ, anh lại phải cho xe đón mẹ ra. Anh bảo mẹ bán cái nhà cũ ở quê đi nhưng mẹ bảo phải giữ lại, biết đâu em có đường sống còn có mái nhà mà ở. Sự thể đã thế này thì chắc là mẹ chả giữ nữa. Tháng sau về quê anh sẽ bán. Cả đất, cả nhà, chắc cũng chẳng được bao nhiêu!
Hắn bảo:
- Em chả đáng làm thằng em của anh. Anh chẳng nhớ đến em cũng được, nhưng anh đừng nghĩ về mẹ đơn giản như thế. Về già người ta cần nhiều thứ hơn là ăn ngon, mặc đẹp. Nếu mẹ chưa muốn thì anh cũng đừng ép mẹ phải bỏ hẳn quê quán. Dù sao thì ngôi nhà đó cũng đã từng gắn bó với cuộc đời mẹ. Hơn nữa, ở quê còn có mộ bố.
Anh Dương bảo:
- Ối dào, mộ bố anh xây lại từ mấy năm nay rồi, to, đẹp, chả kém gì ai. Còn mẹ, về già không theo con cái thì theo ai? Không thể cứ chiều các cụ theo cách ấy được. Việc của mẹ bây giờ là nghỉ ngơi và an dưỡng tuổi già. Mấy lần mẹ đi tìm em mà không nói với anh là anh bực lắm đấy. Nhưng thôi, chuyện của em mẹ buồn một thời gian rồi sẽ dịu lại. Anh cũng thương em nhưng mà cứ nghĩ đến em là giận. Bây giờ thì thương hay giận thì cũng thế thôi. Coi như gốc nhà ta có một nhánh bị sâu ăn. Việc em làm, em chịu. Chả trách ai được!
Tự nhiên hắn thấy buồn. Buồn quá thể. Buồn đến đông cứng cả người lại. Anh Dương đã khác xưa rất nhiều, đầu hơi hói, bụng phệ ra, dáng lạch bạch, quần áo bảnh choẹ nhưng suy nghĩ vẫn là anh Dương của cái thời thích ăn cơm với ruốc của người yêu và mơ có được một chiếc mũ nồi đen. Nói chuyện với anh Dương hắn luôn có cảm giác ơn ớn như ăn phải thịt mỡ. Ừ thôi thì cái nhánh ấy sẽ nảy mầm xanh tốt, sẽ lá cành xum xuê cho dòng họ Phạm của hắn tiếp tục bám rễ với đời. Còn hắn, một nhánh cây bị sâu ăn mọt rỗng, sẽ đổ ngang thân, sẽ bị lia cụt, sẽ vĩnh viễn không xanh lá tốt cành, không đâm hương kết trái. Cây cột đang chờ hắn. Một cá nhân bị cộng đồng loại bỏ. Chả đáng để ai phải bận tâm. Ngay cả với anh Dương cũng đang phải đơn giản hoá cái chết của hắn đi cho nhẹ lòng mà sống. Hắn bỗng mong đến cái ngày ấy. Cái ngày được bước chân đến cây cột định mệnh.