Tôi là Coriander - Phần 1 - 01: Một câu chuyện để kể

Đã về đêm. Ngôi nhà cũ bên bờ sông cuối cùng cũng trở nên yên tĩnh. Đứa bé thôi khóc. Nó đã được ru ngủ. Chỉ còn tiếng sóng sông Thames vỗ nhè nhẹ ngoài cửa sổ phòng tôi. London bọc mình trong giấc ngủ say, đợi người gác đêm báo ngày mới đến.

Tôi thắp ngọn đầu tiên trong bảy cây nến dành để viết lại câu chuyện của mình. Trên mặt bàn cạnh tôi, chiếc túi đựng chuỗi ngọc trai của mẹ nằm bên chiếc hộp bằng gỗ mun. Trong hộp cất giữ báu vật mà đến tận bây giờ tôi mới bắt đầu hiểu được. Kế đó, đang tỏa sáng lấp lánh tựa mặt trăng, là một đôi hài bằng bạc. 

Tôi có bao chuyện để kể: tại sao tôi lại có được đôi hài bạc và nhiều chuyện khác. Và bởi vì đây là câu chuyện của tôi, cũng là một câu chuyện cổ tích, nên tôi sẽ bắt đầu bằng: Ngày xửa ngày xưa... 

Tên tôi là Coriander Hobbie [1], con duy nhất của Thomas và Eleanor Hobbie, chào đời trong chính ngôi nhà này vào năm Thiên Chúa 1643. Ngôi nhà nằm gần kề bên cầu London với dòng sông chảy ngang qua dưới khung cửa sổ sau nhà. Phía trước là khu vườn của mẹ, một khu vườn có tường bao quanh từng một thời xiết bao đẹp đẽ và xanh tốt. Cánh cổng vườn bằng gỗ mở ra thẳng với con phố ồn ào bên ngoài. Khu vườn giờ chỉ còn cỏ dại mọc đầy. Nó đã bị bỏ hoang quá lâu. Trước kia, nơi đây ngập tràn hoa và thảo mộc với mùi hương đủ làm thơm ngát cả dòng Thames. Nhưng giờ chỉ còn hương thảo, tầm ma, tầm xuân và mâm xôi thi nhau chiếm làm lãnh địa riêng.

Chính khu vườn lạ lùng này, loại vườn mà chưa có người hàng xóm nào từng thấy, đã dệt nên những lời đàm tiếu đầu tiên về mẹ. Khu vườn là món quà cha tặng mẹ. Ông còn xây cho bà một phòng chưng cất xinh xắn dựa vào tường nhà chính. Mẹ tôi, với dáng vẻ trầm lặng thường thấy của bà, am tường về thảo mộc và công dụng của chúng hơn bất kỳ ai. Cùng chị hầu gái Mary Danes, bà thường dành nhiều giờ liền ở trong phòng chưng cất, tạo ra đủ loại thuốc rồi đổ vào trong những chiếc lọ bé xíu. Khi còn nhỏ, tôi thường trốn trong váy mẹ, nghe lỏm những người bạn hay hàng xóm đến kể lể về bệnh tật như thể đem tới những bó hoa đau đớn, để rồi được chữa lành bằng một trong những phương thuốc của mẹ. Sau này, khi tôi quá lớn để trốn dưới váy mẹ thì họ đến hỏi mẹ tôi về những chuyện khác. Tiếng tăm là một người đàn bà kỳ quái biết ma thuật của mẹ đã lan xa như bông kế bị thổi bởi ngọn gió nóng hổi của những chuyện ngồi lê đôi mách. 

Những ký ức đầu tiên của tôi là về khu vườn và về một thứ nữa: căn phòng cũ của tôi. Căn phòng với những bức tường mà mẹ đã vẽ lên bao khung cảnh thần tiên và những con thú chỉ có trong tưởng tượng. Bên dưới mỗi bức tranh là nét chữ hoa mỹ của mẹ, kể lại một câu chuyện mà lời kể cũng rực rỡ như màu sắc trong tranh. Khi còn nhỏ tôi thường di ngón tay theo từng nét chữ để cảm nhận những dòng chữ mỏng manh trên nền gỗ và thì thầm đọc những cái tên như thể chúng là lời bùa chú giữ không cho tai họa lại gần. Những bức vẽ ấy, cũng như hoa thơm ngoài vườn, giờ không còn nữa. Tất cả đã bị xóa sạch. Chỉ còn lại một chút dấu mờ của nhũ vàng. Chúng vẫn luôn tỏa sáng như ký ức.

Trước kia tôi thường tin rằng cuộc đời mẹ cũng bắt đầu cùng với sự ra đời của tôi. Trước khi tôi xuất hiện trên đời, chẳng có gì tồn tại cả. Chẳng còn gì, cho đến cái ngày hạ chí khi cha tôi, Thomas Hobie, lần đầu gặp mẹ tôi đứng dưới một cây sồi bên con đường quê. 

Đây là câu chuyện cha kể cho tôi, cũng là câu chuyện mà tôi thích nhất. Khi còn là một thương nhân trẻ đầy mơ mộng, cha dồn hết số tiền khó nhọc kiếm được cùng tài sản ông nội để lại vào một con tàu tới Constatinople. Ông hy vọng nó sẽ quay về cùng hàng súc tơ lụa. Nhưng than ôi, cái ông nhận được là tin con tàu đã biến mất trong một cơn bão biển khủng khiếp, và giờ ông chẳng còn gì ngoài bộ đồ đang mặc trên người.

Tuyệt vọng, cha rời thành phố và đi bộ gần mười dặm về nông thôn xem may ra có thể vay mượn chút gì một người họ hàng xa, ngài Stoop. Tới nơi, cha mới biết ông Stoop đã từ bỏ những vật lộn không ngừng của cuộc đời, bước vào thế giới tĩnh mịch của người chết, để lại người vợ góa và bầy con nhỏ. 

Cha không còn bụng dạ nào hỏi xin bất kỳ thứ gì. Sau khi chia buồn với bà quả phụ, ông rầu rĩ lên đường về London, phó mặc số phận. 
Trời đã muộn khi ông gặp một người đàn ông lạ lùng với bộ râu dài thắt lại thành búi, tay xách một chiếc đèn lồng tròn như mặt trăng. Người lạ mặt nói với cha tôi rằng ông ta vừa bị một kẻ cướp đường lột sạch và chỉ còn lại có chiếc đèn. Cha tôi rất thông cảm với ông và đưa ông chiếc áo khoác để chống chọi cái rét thấu xương. Ông lão nhận chiếc áo vẻ đầy biết ơn. 
- Con trai, vàng bạc châu báu cũng không quý bằng đi trên đường đời với một trái tim luôn biết rộng mở và yêu thương. - Ông ta nói, - Ngày mai, lòng tốt của con sẽ được đền đáp xứng đáng. 
Cha tôi chúc ông lão mạnh khỏe và không gặp phải điều bất trắc nào nữa. Rồi cha tiếp tục hành trình vô định, chỉ có ánh trăng soi đường. Một cơn sóng mỏi mệt đổ ập tới, cha nằm xuống và ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau, chưa đi được bao xa thì cha nhận ra mình bị lạc. Trong ánh bình minh, mọi vật đều có vẻ khác lạ. 
Tôi đã nghe câu chuyện này nhiều lần đến nỗi có thể tự nhắc lại từng từ một. Và cứ tới đoạn này, bao giờ tôi cũng ngắt lời cha: 
- Nhưng cha đang đi đúng đường mà! 
Ông bèn cười và đáp: 
- Con đường đó dẫn cha đến với mẹ con, làm sao là đường sai được? 
Trong suy nghĩ trẻ con của tôi thì dường như cha đã gặp và cưới mẹ chỉ trong vòng có một ngày. Họ quay về thành phố sau lễ cưới để rồi được chào đón bởi cái tin đáng kinh ngạc: con tàu của cha đã cập bến an toàn với đầy tơ lụa hảo hạng. 
Từ ngày ấy trở đi, cuộc đời của cha như được phù phép trong tình yêu và vận may. Không có tàu của nhà buôn nào thuận buồm xuôi gió đến thế. Không cướp biển, chiến tranh hay bão tố, tàu của cha căng buồm trên mặt biển yên bình mà không hề gặp cản trở, đem về những của nả xứng cho một vị vua. Không lâu sau, cha đã đủ giàu để xây cho chúng tôi ngôi nhà bên bờ sông này, nơi gia đình tôi sống trong xa hoa với một đầu bếp và nhiều người hầu, còn có cả Sam, người học việc trung thành của cha nữa.

Tôi không hề thấy ngạc nhiên là tất cả những chuyện ấy đã xảy ra quá nhanh. Chưa bao giờ tôi có ý nghĩ hỏi xem gia đình mẹ tôi nghĩ gì khi con gái họ lấy một anh chàng không xu dính túi hay thậm chí liệu mẹ có một gia đình để nghĩ tới hay không. Tất cả những câu hỏi này cũng bao điều thắc mắc khác chỉ đến với tôi sau này, khi chẳng còn ai để hỏi nữa. 

Cha tôi có hai bức chân dung nhỏ vẽ hình cha và mẹ ít ngày sau đám cưới. Chân dung mẹ vẽ bà vận y phục màu kem được thêu rất đẹp, dính vô số hạt ngọc trai nhỏ xíu lấp lánh. Tôi tưởng tượng mẹ trông cũng giống như khi cha tôi nhìn thấy bà lần đầu tiên vào cái ngày mùa hạ dưới bóng cây sồi ấy. Tóc mẹ cài những bông hoa dại và trên tay bà cầm một chiếc lá sồi. 

Khung cảnh trong tranh luôn làm tôi mê mẩn. Nó giống như bạn là một con chim từ trên cao tít nhìn xuống mặt đất trải dài phía dưới. Kia, trong một rừng sồi, là một khoảng rừng trống với một tòa nhà lớn và khu vườn được trồng trọt, cắt tỉa theo đúng kiểu. Xa xa, một ngọn tháp cao vượt hẳn những ngọn sồi. Tôi có thể thấy một dáng người trên đỉnh tháp nhìn xuống cảnh vật bên dưới như đang tìm kiếm một vật hay một người nào đó. Bên bìa rừng là một đám người đi săn cùng đàn chó. So với ngôi nhà và ngọn tháp, trông họ to lớn một cách kỳ lạ. Một con chim ưng đậu trên cánh tay của một trong số các kỵ sĩ. Tôi ngắm bức tranh rất nhiều lần trước khi nhận thấy có một con ngựa trắng và một con cáo trốn trong bụi rậm. Bởi một nguyên nhân nào đó mà tôi không sao giải thích nổi, phát hiện này làm tôi lo lắng vô cùng. Nó khiến tôi thấy bất an, như thể không có gì là yên ổn vậy.

Trong bức chân dung, cha tôi trông trẻ và đẹp trai. Mặt cạo nhẵn nhụi, ông mặc quần ống bó và một chiếc áo sơmi bằng vải lanh được thêu giống như váy của mẹ. Cảnh vật phía sau ông thì không mấy khác lạ. Đó là quang cảnh một thành phố với dòng sông chảy ngang qua như một dải băng màu xanh ngọc. Bạn có thể nghĩ đó là London cũng được, chỉ khác một điều là những ngôi nhà được sơn màu rất rực rỡ, dưới nước có những mỹ nhân ngư cùng thủy quái chen giữa một hạm đội tàu lớn với cánh buồm vàng rực căng gió. 

Ngay từ ngày ấy, tôi đã thấy hai bức chân dung nhỏ cổ đến lạ lùng, như thể chúng được vẽ từ lâu, rất lâu trước kia, trong một thế giới hoàn toàn khác. Giờ thì tôi đã hiểu ý nghĩa của chúng. Tôi đã hiểu tại sao mẹ im lặng, và tại sao, trong thời khắc đen tối nhất của tôi, quá khứ của bà đã kêu gọi tôi, dẫn tôi trở về với một điều không thể chối bỏ lâu hơn.

 

[1] Coriander có nghĩa là cây rau mùi