Tôi là Coriander - Phần 1 - 02: Con cá sấu nhồi

Tôi không nhớ gì về phiên tòa xét xử vua Charles I. Tôi không biết nội chiến nghĩa là gì. Những sự kiện lớn như thế trong dòng lịch sử chỉ lướt qua tôi. Những gì tôi nhớ được là cảm giác an toàn và được yêu thương, mùi nước hoa của mẹ, được thức muộn cùng cha mẹ trong khi ông bà dùng bữa tối, rồi ngủ thiếp đi trong vòng tay mẹ. Tôi có thể kể cho các bạn nghe rất nhiều về những cái hôn của bà. Còn chuyện cha mẹ tôi nói với nhau thì tôi chẳng kể được mấy, ngoại trừ một điều là rõ ràng nó làm họ buồn. 
Sự thật là tôi không hiểu những sự kiện trọng đại nào đang xảy ra, hay chúng sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng tôi như thế nào. Thế giới của tôi xoay quanh những điều nhỏ bé hơn. Một con cá sấu nhồi, một anh thợ cạo bị chết đuối, một đôi hài bằng bạc đối với tôi cũng lạ lùng như một ông vua bị mất đầu.

Ngày tháng giêng đó có tuyết rơi và dòng sông đã bắt đầu đóng băng. Tôi hăm hở chạy đi tìm chị Danes để báo tin này và thấy chị đang khóc. Riêng điều này đã là bất thường rồi, vì chị Danes không hay khóc. 
- Thật chẳng khác gì là giết người, chị vừa nói vừa lau nước mắt. 
- Ai bị giết hở chị Danes? - Tôi hỏi, lòng đầy tò mò. 
- Nhà vua. - Chị trả lời. - Rõ là một việc làm xấu xa, nó sẽ chẳng đem đến điều gì tốt đẹp hết. 
- Ai đã làm việc gì cơ? 
- Oliver Cromwell và đao phủ của hắn. - Chị Danes đáp. - Thật khủng khiếp! Ai mà ngờ nổi là chúng ta phải sống để chứng kiến cảnh nhà vua của mình bị chặt đầu cơ chứ? 
- Chị nhìn thấy à? - Tôi hỏi. 
- Không, không, nhưng ông thợ may Thankless thì có. Ông ấy bảo đó là cảnh đáng buồn nhất mà ông ấy xui xẻo phải chứng kiến. Chúng giơ cao đầu nhà vua lên cho tất cả thấy và đám đông kêu lên, một tiếng kêu London chưa từng nghe thấy. Chúng ta đang phải sống trong những ngày đen tối, chim sẻ nhỏ của chị. 
Đang là mùa đông nên tôi nghĩ hẳn là chị nói đúng. 
Chị Danes hỉ mũi. 
- Đức vua đã chết. - Chị rầu rĩ nói. - Đức vua muôn tuổi. 
- Làm sao một người lại có thể vừa đã chết lại vừa muôn tuổi được? - Tôi hỏi. Đó có vẻ là một điều rất khó thực hiện.

- Bởi vì, - chị Danes đáp, - con trai người, thái tử Charles vẫn còn sống, và ơn Chúa, thái tử nhất định sẽ kế tục ngai vàng. 

Đó là một mùa đông giá buốt, và tuyết phủ kín London trong tấm chăn màu trắng dày đến nỗi một sự im lặng kỳ quái bao trùm cả thành phố. Những bánh xe nước vĩ đại ở hai đầu cầu thôi không quay ầm ầm nữa và đã lủng lẳng các nhũ băng khổng lồ, trong khi dòng sông bắt đầu đông cứng lại. Cha Già Thames trông như thể đang nuôi một bộ râu dài trắng toát. 
Một khu chợ Sương Giá mau chóng được dựng trên mặt sông đóng băng, với những sạp hàng căng bạt bán đủ thứ tuyệt vời: găng tay, mũ, đăngten, nồi chảo, kim khâu, bi ve, búp bê, con quay, bánh gừng, hạt dẻ rang. Các quán rượu ầm ĩ thì đầy thức ăn và rượu bia, đến tận đêm khuya tôi vẫn còn nghe thấy tiếng ca hát, hò hét ngoài cửa sổ và ngửi thấy mùi bánh nóng lôi kéo những khách bộ hành bước lên mặt băng. 
Ông thợ cạo Mullins sống gần nhà tôi ở Cheapside là một trong những người đầu tiên dám đi lên băng. Ông dựng cái lều nhỏ sọc đỏ và trắng của mình lên và mời chào khách hàng, hứa hẹn họ sẽ có bộ mặt được cạo nhẵn nhụi nhất London. Từ bờ sông, mọi người sợ hãi nhìn ông thợ cạo, tự hỏi không biết lớp băng trên mặt sông đã đủ dày để đi lại chưa.

- Tới đây thôi! - Ông Mullins kêu lên. - Nó cứng như đá ấy, có thể đỡ cả Quỷ Satăng ấy chứ! 
Để chứng minh cho lời mình, ông nhảy huỳnh huỵch trên mặt băng phẳng lỳ như gương. 
- Ông Mullins khờ quá. - Mẹ tôi nói khi băng trên sông Thames bắt đầu nứt, và chúng tôi nhìn tất cả những người bán hàng khác nhào lên bờ. Ông Mullins không chịu đi. Khi không có người khách nào dám đi trên băng tới chỗ ông, ông gào lên với họ từ lều của mình: 
- Các vị còn chờ gì nữa? Tôi có thứ thuốc tốt nhất thành phố dành cho những cái đầu hói đấy! 
Ông Mullins trở thành đề tài bàn tán của cả phố, không phải vì thứ thuốc chữa hói đầu mà vì cái cách ông ta rơi thẳng qua lớp băng xuống nước, cùng với tất cả xô chậu và dao cạo. 
Tôi hỏi chị Danes ông ta rồi sẽ ra sao. 
- Lão già rồ dại. - Chị nói. - Chắc hẳn lão đã dựng lều dưới đáy sông, lại mở cửa để làm ăn và đưa chuyện rồi. 
Từ đó về sau tôi cứ tưởng tượng ra ông Mullins đang cắt tóc cho các mỹ nhân ngư và tỉa râu cho thủy quái. Với ý nghĩ đó đinh ninh trong đầu, tôi không băn khoăn gì thêm về ông thợ cạo nữa, mà chỉ lấy làm tiếc là ông ta đã không theo cả con cá sấu nhồi.

Con cá sấu của thuyền trưởng Bailey tặng cha tôi. Ông ta mua nó ở tận Trung Quốc. Nó nằm đó, đầy hăm dọa trên nóc chiếc tủ gỗ mun trong phòng làm việc. Chìa khóa đặt giữa bộ hàm trắng ởn với những chiếc răng sắc nhọn. 
Tôi luôn bị mê hoặc bởi những vật báu chứa trong chiếc tủ, nào là vỏ ốc mà khi áp lên tai thì có thể nghe được tiếng đại dương, một chiếc mai rùa tí xíu, nào là những con bướm có đôi cánh màu xanh lơ huy hoàng. Nhưng khi nhìn thấy con cá sấu thì tôi òa khóc, tin chắc nó là con vật sống thực. Trông nó có vẻ rất tức tối và không thích thú chút nào vì đã bị nhồi. 
- Nó chỉ là một con cá sấu con thôi. - Cha nói và cầm nó lên cho tôi xem. - Nó không cắn đâu. 
Tôi không muốn lại gần nó. Tôi biết nó đang bí mật đợi và chỉ chờ chúng tôi ra khỏi phòng là lập tức sống lại. 
Ý nghĩ đó làm tôi kinh hoàng và khiến tôi mơ thấy những cơn ác mộng khủng khiếp đến nỗi chị Danes phải thắp tất cả nến trong phòng vào ban đêm để có thể chắc là con cá sấu không vào được. Nhưng chị không bao giờ gọi tôi là đứa nhát gan, và trong thâm tâm tôi cảm thấy chị cũng sợ con cá sấu như tôi vậy.

Cuối cùng mùa đông cũng qua đi và mùa xuân đến, khiến tất cả mọi người ngạc nhiên thích thú. Những cánh cửa sổ được mở tung, thảm được đem ra đập cho sạch bụi, như thể ngôi nhà của chúng tôi là một tấm chăn lớn đang được rũ cho hết chấy rận. Mọi thứ được cọ rửa và lay chùi, đánh bóng cho đến khi khắp nhà toàn mùi hoa oải hương và sáp ong. Những bó hoa tươi được đặt trong tất cả các phòng. Tất cả quần áo đều được đem hong, đồ vải lanh đem giặt và ông thợ may Thankless được mời đến. Những bộ đồ mới được may, còn đồ cũ thì được sửa lại. 
Giữa tất cả những sự nhộn nhịp ấy, một điều rất lạ đã xảy ra. Một cái gói được đem bỏ ở ngoài xổng vườn. Trên cái gói không có tên và cũng không dấu hiệu nào cho biết nó từ đâu đến. Cái gói bí ẩn được đem vào nhà và đặt trên bàn trong tiền sảnh. Mỗi lần nhìn thấy nó nằm đó là tôi lại nôn nao hồi hộp. 
Cuối cùng thì mẹ cũng mở nó ra, cẩn thận kiểm tra xem có dấu hiệu nào chứng tỏ nó được gửi cho ai không. Bên trong cái bọc là một đôi hài trẻ con bằng bạc tuyệt đẹp. Chúng có những mũi khâu nhỏ xíu bằng chỉ bạc và ở gót có thêu chữ C. Tôi biết đôi hài dành cho tôi.

- Cho con thử được không? - Tôi hỏi, nhảy cẫng lên vì vui sướng. 
Mẹ không nói gì, chỉ đem đôi hài đến bên cửa sổ để xem cho kỹ. Chúng tỏa sáng lấp lánh như được làm bằng thủy tinh. Chúng thì thầm với tôi: "Hãy lồng chúng tôi vào đôi chân xinh xắn của cô đi." 
- Xin mẹ! - Tôi kéo váy mẹ nài. - Cho con thử đi mà! 
- Mẹ nghĩ không được đâu. - Mẹ tôi lặng lẽ đáp. Bà đem đôi hài trở lại bàn và bọc chúng trở lại trước cặp mắt kinh ngạc của tôi. 
Nhìn thấy đôi hài biến mất như thế quả thật quá sức chịu đựng của tôi. Như thể tim tôi chắc chắc sẽ vỡ tan nếu không được chúng. 
- Chúng được dành cho con mà. - Tôi nói một cách tuyệt vọng. - Chúng có chữ C ở đế. C là chữ viết tắt của Coriander. 
- Mẹ đã bảo là không được. - Mẹ tôi nói. Giọng bà có một vẻ gay gắt mà tôi chưa từng nghe thấy. Điều ấy khiến tôi hoảng hốt, bởi tôi không hiểu nổi tại sao một món quà tuyệt vời đến thế lại có thể làm mẹ gắt gỏng như vậy. 
- Mẹ xin lỗi, Coriander. - Mẹ nói, giọng dịu dàng hơn. - Nhưng đôi hài này không phải để cho con đâu. Hãy kết thúc chuyện này ở đây.

Đó không phải là sự kết thúc. Nó mới là đoạn khởi đầu. 
Tôi cảm thấy việc không có được đôi hài giống như bị giày vò bởi một cơn đói không bao giờ dịu. Tôi biết chúng vẫn còn ở trong nhà. Tôi dám chắc có lúc nghe thấy chúng gọi, và mỗi lần tôi đi theo tiếng gọi thì nó luôn dẫn tôi đến cửa buồng làm việc của cha tôi. 
Hóa ra, thứ tôi nên sợ không phải là con cái sấu mà lại chính là đôi hài bạc ấy. Chúng tới từ một vùng đất không con tàu nào tới được, một nơi không có trên bất kỳ tấm bản đồ nào của thế giới này. Chỉ có những người thuộc về nơi ấy mới tìm được nó.