Tôi là Coriander - Phần 4 - 18: Tiếng thét kinh hoàng
Tôi tỉnh lại trong bóng tối dày đặc, người co gập lại, không cựa quậy nổi. Tôi biết mình đã trở lại trong chiếc rương. Bên ngoài có tiếng nói lao xao, rồi tiếng sập mạnh khi cánh cửa phòng làm việc bật tung, đập vào tường.
- Không, ông không được vào đây! Xin ông tránh ra cho! Đây là một ngôi nhà danh giá của những người biết kính Chúa, ông không có quyền xông vào! - Đúng là giọng của Arise Fell, không lẫn vào đâu được.
- Nếu ông còn ngáng đường, ta sẽ gọi cảnh sát. Ta có lý do để tin rằng thi thể Coriander Hobie được giấu trong chiếc rương kia. - Đáp lại là một giọng cộc lốc tôi chưa từng nghe thấy.
- Thuyền trưởng Bailey, - tôi nhận ra giọng ông Thankless, - đây hẳn là cái rương cậu học việc của tôi nói đến.
Rồi tôi nghe thấy một giọng yếu ớt, nghe như giọng Hester:
- Chính là cái rương đó, thưa ngài. Cô ấy bị nhốt ở đó.
- Ngậm miệng lại, con bé đần độn kia! Giữ cái lưỡi của mày ở yên đó! - Giọng của Maud.
- Mở cái rương ra ngay! - Giọng nói cộc lốc ra lệnh.
- Không! Đây không phải rương của tôi, và một nhà truyền giáo không được đụng đến tài sản của người khác, trừ phi đó là thứ báng bổ Chúa.
- Ta đã nghe rằng rất nhiều tài sản của ông Hobie đã bị chính ông tiêu tán đi hết. Giờ mở cái rương ra!
Tôi lấy hết sức thúc vào rương. Tôi phải ra khỏi đây, đi tìm chiếc bóng và cứu Tycho. Không còn thời gian. Mọi chuyện để giải quyết sau.
- Tôi ở trong này! - Tôi kêu lên. - Cho tôi ra!
Maud thét lên một tiếng khủng khiếp.
- Trời đất quỷ thần ơi! Con bé còn sống! - Ông Thankless kêu.
- Chờ chút, chúng ta sẽ cho cháu ra ngay đây! - Giọng cộc lốc nói. - Ông Thankless, ta hãy đi tìm thứ gì đó để cậy nắp rương. Sao các người có thể làm chuyện như thế này chứ? Vậy mà mi cũng dám tự gọi mình là nhà truyền giáo!
Tôi nghe tiếng cửa phòng làm việc đóng sầm lại.
Liền đó là tiếng Maud rên rỉ:
- Ôôôô, ông Arise, hồn ma của con bé quay lại ám chúng ta! Những khúc xương của nó đang than khóc, và chúng ta thế là xong đời.
- Im ngay, mụ kia, nói nhỏ thôi. Nghe ta đây. Chúng ta phải giữ nguyên câu chuyện ta đã bàn. Con bé đã chạy trốn. Chúng ta nghĩ nó đã chạy theo mụ Danes và bị chết đuối. Chúng ta không hay biết là bằng phép yêu và ma thuật, nó đã quay trở lại đây và trốn trong cái rương này.
- Thế thì tại sao cái rương lại bị khóa? - Maud hỏi.
- Vì Chúa Lòng lành muốn như vậy.
- Ông có nghĩ đó là xương của nó không, Arise, cái thứ đang cựa quậy trong rương đó?
- Không, ta không nghĩ vậy.
- Tôi đã bảo ông rồi, ông phải làm theo những gì bà phu nhân ấy nói ngay khi có cơ hội. - Maud nói. - Đáng lẽ ông nên ném xác nó xuống sông cho lũ chuột giải quyết. Nếu nó chết rồi thì chúng ta sẽ không gặp phải những chuyện rắc rối thế này.
- Câm đi, mụ kia! - Arise quát. - Mụ chẳng được tích sự gì. Để yên cho ta nghĩ. Chúng ta phải bình tĩnh mới được.
- Quỷ dữ đang đến tìm chúng ta đấy, ông Arise. Tôi có thể ngửi thấy mùi giá treo cổ ở Tyburn. Ông liệu mà biến những lời đẹp đẽ trong Kinh thánh thành có lợi cho chúng ta, vì chắc chắn họ sẽ tìm thấy một cái xác đã thối rữa trong cái rương kia.
- Ngậm cái miệng ngu ngốc của mụ lại! Mọi chuyện để ta lo.
Tôi nghe thấy tiếng người ùa vào phòng và họ gấp rút cậy chiếc khóa, nhấc nắp rương lên.
Thoạt đầu, ánh sáng bên ngoài chói mắt đến nỗi tôi không nhìn ra những người giải cứu mình. Cả phòng lặng ngắt như tờ. Tôi đứng dậy nhưng không bước ra khỏi rương. Tôi không dám chắc mình có thể đi vững được.
Rồi tôi nhìn thấy khuôn mặt thân thuộc của ông Thankless.
- Ôi ông Thankless, thấy ông cháu mừng quá! - Tôi kêu lên.
- Ta mừng là cháu còn sống. - Ông thợ may ân cần. - Và cũng hết sức bối rối không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Đúng là không thể giải thích được!
- Cô không biết tôi, tiểu thư. - Giọng nói cộc lốc vang lên. - Tôi là Bailey, thuyền trưởng một trong những chiếc thuyền buôn của cha cô. Tôi chưa từng gặp người nào tốt bụng và đáng kính hơn ông ấy.
Lời gợi nhắc ấy khiến tôi nhớ đến cha.
- Ông có biết cha tôi đang ở đâu không? - Tôi hỏi.
- Ông ấy vẫn còn sống, còn hiện giờ ông ấy ở đâu thì tôi không thể cho cô biết. - Thuyền trưởng Bailey đáp.
Mắt tôi giờ đã quen với ánh sáng và tôi nhận ra rằng căn phòng, bằng một phép lạ nào đó, đã thu nhỏ lại. Cả Maud cũng thế, bởi nếu tôi không nhìn nhầm thì tôi đã cao hơn bà ta. Tôi cao gần bằng lão Arise và chỉ thấp hơn ông thuyền trưởng một cái đầu. Sao lại như thế thì tôi không hay, nhưng rõ ràng vẻ ngoài của tôi khiến tất cả mọi người trong phòng hoàn toàn kinh ngạc. Nếu không có Hester, hẳn tôi đã chú ý hơn đến vẻ kinh ngạc của họ. Nhưng khi nhìn thấy thân hình mảnh dẻ, rúm ró của cô sụp xuống dựa vào tường, tôi hoảng hốt đến nỗi trong một thoáng, tôi không chắc đó có phải là Hester không. Cô quá gầy, mắt trũng xuống và da tái mét.
- Chị tưởng họ đã giết em rồi. - Hester nức nở. - Mà chị không làm gì được.
- Tao đã bảo mày thế nào, con bé ngu độn kia! Im ngay! - Maud quát và giơ tay lên định tát cô.
Tôi bước ra khỏi rương. Tôi nhìn Hester và cảm thấy bị thế giới này ràng buộc trở lại, trách nhiệm đè nặng lên vai. Tôi biết mình không thể để chị ấy như vậy.
Thấy tôi bước tới, Maud lùi lại, tìm cách nấp sau lưng Arise còn lão thì giơ tay ra. Giọng lão run run:
- Đây đúng là bằng chứng của phép yêu thuật. Mi đúng là mầm mống của quỷ dữ!
Tôi cúi xuống với Hester, cô quàng tay ôm cổ tôi và nói:
- Chị xin lỗi không giúp được em sớm hơn. Có Chúa chứng giám, chị đã cố hết sức.
Ông Thankless nhẹ nhàng đỡ Hester dậy. Tôi có thể thấy chỉ đứng lên thôi cũng khiến cô đau đớn.
- Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra trong cái nhà này. - Ông Thankless nói và quay sang lão Arise. - Nhưng tôi có thể nói với ông rằng con quỷ duy nhất ở đây chính là ông. Đi nào, tiểu thư Coriander! Cháu và Hester không thể ở lại đây thêm phút nào nữa
- Cháu không thể, thưa ông. - Hester nói, yếu ớt rút tay lại. - Cháu rất tiếc, thưa ông. Cháu bị ốm. Tốt hơn hết là để cháu lại đây thôi. - Và cô trượt xuống dọc bức tường rồi ngã vật ra sàn, như con búp bê Beth của tôi ngày xưa.
- Hester! - Tôi kêu lên. - Chúng đã làm gì chị thế này?
Thuyền trưởng bồng cô lên nhẹ nhàng như thể cô chỉ là một bọc bông. Ông quay sang lão Arise:
- Sao mi dám tự gọi mình là người biết kính Chúa cơ chứ?
Tôi đi theo thuyền trưởng Bailey và ông Thankless ra ngoài phố. Một chiếc xe ngựa đang đợi sẵn ở đó.
Khi chúng tôi đã ngồi trên xe, ông Thankless quay sang tôi vẻ hoang mang:
- Trời đất quỷ thần ơi, ta không thể tin nổi mắt mình nữa, Coriander ạ.
- Làm sao ông tìm ra cháu?
- Cậu học việc Gabriel Appleby của ta để ý theo dõi ngôi nhà của cháu và Hester đã dũng cảm báo cho cậu ấy biết. Nhưng ta không đoán nổi chuyện gì xảy ra nữa. Theo lẽ tự nhiên thì cháu phải chết rồi mới phải.
Ông quấn một chiếc chăn quanh Hester. Xe ngựa lọc cọc đi hết phố Thames và lên cầu.
Bên ngoài hiệu may, một chàng trai trẻ đang bồn chồn đi lại. Tất cả những gì tôi có thể nghĩ là ông Thankless có thêm một cậu học việc và băn khoăn không hiểu sao Gabriel không ra đón chúng tôi.
- Các vị không đến muộn quá chứ? Cô ấy chưa chết chứ? - Chàng trai hỏi với vẻ đặc biệt lo lắng trong khi giúp ông Thankless đỡ Hester xuống xe.
- Chưa đâu! - Thuyền trưởng Bailey đáp.
- Gabriel, đi mời bác sĩ ngay. - Ông Thankless nói. Nhanh lên!
Và Gabriel chạy vụt đi như thể cả mạng sống của anh phụ thuộc vào điều đó.
Tôi nhìn theo anh ta và bối rối. Lần cuối tôi gặp Gabriel, anh ta vẫn còn là một chú bé, tuy có lớn hơn Hester chút ít nhưng không phải là một chàng trai thế này. Mình giống như một thủy thủ vậy, tôi tự nhủ, trở về nhà sau một chuyến đi xa, không rõ mình đã đi bao lâu, không biết giờ đang là mùa nào, năm nào.
Hẳn tôi trông có vẻ hoang mang, vì ông Thankless nắm lấy cánh tay tôi và thân mật nói:
- Lại đây, Coriander, giúp ta đưa Hester vào trong.
Chúng tôi đưa Hester lên gác. Chị hầu gái Nell giúp tôi cởi đồ cho cô. Cả hai đều choáng váng khi thấy những lằn roi trên người cô. Đến cả ông bác sĩ cũng vậy. Ông ta sợ rằng cô sẽ không qua được đêm đó, và giận dữ nói rằng ngay cả với con chó của mình ông ta cũng không đối xử như vậy, và rằng London giờ đây đầy rẫy bọn lăng băm, bọn bịp bợm ngụy trang dưới lớp vỏ chính thức của các nhà truyền giáo hay các giáo đồ.
Sau khi bác sĩ đắp cao vào những vết thương trên người Hester và cho cô uống thuốc, chúng tôi tắm rửa cho cô rồi đặt cô lên giường. Tôi ngồi bên cạnh, nắm bàn tay cô và cố sắp xếp lại trong đầu những gì đã xảy ra.
Chắc hẳn tôi đã ngủ thiếp đi vì tôi giật mình thức dậy như bị ai đó lay. Tôi nhìn quanh phòng và thoáng thấy một khuôn mặt phản chiếu lại trên ô cửa kính. Trong thoáng chốc, tôi ngỡ mẹ đang ở trong phòng và tim tôi đập rộn lên. Tôi tin rằng mình nghe thấy lời mẹ dặn phải làm gì. Nhưng rồi tôi nhận ra rằng khuôn mặt đang chăm chú nhìn lại tôi chẳng phải ai khác ngoài hình ảnh phản chiếu của tôi, chính tôi chứ không phải ai khác.
Tôi gọi Gabriel lên ngồi với Hester trong khi tôi đi xuống dưới nhà. Ở đó, ông Thankless và thuyền trưởng Bailey đang ngồi trò chuyện.
- Tôi đã nhìn thấy nhiều điều kỳ lạ trong đời. - Thuyền trưởng nói. - Nhưng thánh thần ơi, đây đúng là điều kỳ lạ nhất. Nếu ông hỏi thì tôi xin phép nói là một phép thuật kỳ lạ nào đó đã xảy ra.
- A, Coriander! - Ông thợ may nói khi thấy tôi. - Ta giúp được gì cho cháu?
- Không biết ông có còn giữ các phương thuốc của mẹ cháu ở đây không?
- Có chứ. Chúng đang nằm an toàn ở dưới hầm.
- Cháu nghĩ rằng ở đó có thứ giúp được Hester.
- Vậy để ta đưa cháu đi xem. - Ông Thankless nói và dẫn tôi xuống hầm.
Những chiếc lọ nhỏ được đóng cẩn thận trong những chiếc giỏ rơm. Trông chúng giống hệt nhau.
- Rắc rối đây. - Ông Thankless nói. - Mấy cái lọ này không có nhãn. Chẳng biết cái lọ nào dùng để chữa bệnh gì, mà cô Danes thì không có ở đây.
- Cháu phải tìm một cái lọ có bông hoa màu tím bên trong, - Tôi nói. - Chỉ nó mới cứu được Hester.
- Ta sợ là ta đã cứu cô gái quá chậm. - Ông thợ may nói. - Lẽ ra ngay cái lần đầu tiên Gabriel kể cho ta Hester đang bị hành hạ thế nào, ta đã phải tìm đến nhà cháu. Thôi, giờ cháu tìm trong một giỏ còn ta tìm giỏ khác. Nếu quả có cái lọ như thế, chúng ta sẽ thấy nó.
Chúng tôi xem kỹ từng chiếc lọ một, nhưng chẳng ích gì. Chẳng lọ nào có bông hoa tím bên trong.
Tôi đứng đó, hoàn toàn bối rối. Thế rồi tôi nghĩ rằng điều tốt nhất có thể làm lúc này chỉ là tin tưởng. Tôi nhắm mắt, với lấy một cái lọ.
- Nếu cháu có nhầm đi chăng nữa thì cũng có khác gì đâu! - Ông Thankless an ủi tôi.
- Ông chủ! Gabriel kêu lớn. - Ông đến đây ngay! Cháu nghĩ cô ấy đang hấp hối!
Tim tôi tưởng nhảy ra khỏi lồng ngực trong khi tôi lao lên gác. Ông Thankless chạy theo sau.
Hester đang trắng bệch ra và mỗi khi thở lại phát ra những tiếng khò khè đáng sợ. Thuyền trưởng Bailey nói ông từng nhiều lần nghe thấy âm thanh ấy từ những người sắp về chầu Trời.
Không suy nghĩ thêm, tôi mở nắp lọ và nhẹ nhàng nhỏ từng giọt thuốc vào miệng Hester, cẩn thận không để rớt giọt nào như tôi từng thấy mẹ và chị Danes làm trước kia.
Rồi tôi ngồi xuống nắm lấy một bàn tay Hester. Gabriel đang âu yếm bàn tay kia.
Mặt trăng cũng đã đến trông chừng cho cô và tỏa xuống nhà một bể ánh sáng lung linh. Suốt đêm tất cả chúng tôi cứ ngồi như vậy bên Hester. Đến khoảng gần sáng, tôi ngủ thiếp đi rồi thức giấc bởi tiếng kêu của lũ móng biển.
Gabriel cũng đang ngủ, đầu gục xuống giường, còn ông Thankless thì thiu thiu trên chiếc ghế kê cạnh cửa. Thuyền trưởng Bailey không còn ở đó. Ông đã báo với chúng tôi rằng thuyền ông sẽ nhổ neo ngay khi thủy triều rút.
Hơi thở của Hester đã trở lại đều đặn. Khi tôi buông tay cô ra để đóng cửa chớp lại, cô yếu ớt gọi:
- Coriander?
- Ôi chị Hester! - Tôi đáp. Thấy cô mở mắt, tôi bật khóc. - Chị vẫn còn đây.
- Chị còn có thể ở đâu khác được? - Cô dịu dàng hỏi.
Nghe thấy tiếng Hester, Gabriel ngẩng đầu lên.
- Lạy Chúa Lòng Lành, đúng là một phép màu! - Và anh hôn bàn tay Hester, vừa cười vừa khóc.
Trong khi ngắm Gabriel và Hester, tôi nghĩ chắc chắn mình đã xa nơi đây một thời gian rất dài bởi khi tôi đi thì Hester thậm chí còn chưa biết Gabriel Appleby.
Ông Thankless thức giấc. Ông bước đến bên bàn nơi tôi đã đặt cái lọ thuốc rỗng. Ông cầm nó lên và giơ về phía ánh sáng.
- Nhìn này, Coriander! Trong lọ có một bông hoa màu tím đây này.