Tôi là Coriander - Phần 4 - 19: Những nút thắt thời gian

Cho đến lúc này, tôi đã cố không để ý đến sự thật là có điều gì đó thay đổi ở bản thân. Nhưng rồi trong những ngày dài lê thê đợi Hester hồi phục, tôi dần nhận ra rằng tôi đã đi xa suốt ba năm trời. Và nếu vậy thì có nghĩa là bây giờ tôi đã mười lăm tuổi. Tuy nhiên, lý do vì sao bao sự lạ như vậy có thể xảy ra thì tôi không dám hỏi. Không chỉ mái tóc tôi đã dài hay tôi đã cao lên, không còn mặc vừa quần áo cũ nữa. Cơ thể tôi cũng đã đổi khác. Điều này giống như tôi vừa chuyển vào một căn nhà mới nhưng còn quá sợ hãi, chưa dám khám phá những căn buồng của nó. Dù sao tôi cũng tìm thấy niềm an ủi lớn khi tính ra rằng mình chỉ ở trong thế giới của mẹ một thời gian rất ngắn. Và bởi vậy, có lẽ tôi có nhiều thời gian để giành lại chiếc bóng hơn tôi tưởng.

Ông Thankless nói rằng mọi lý lẽ đều không thể giải thích được cho sự việc này. Tuy vậy, ông vẫn đủ khôn ngoan để giấu các khách hàng những gì đã thực sự xảy ra. Thay vào đó, ông thêu dệt một câu chuyện về vụ mất tích của tôi để trả lời vô số câu hỏi của bất kỳ ai đặt chân đến cửa hiệu. Đây là những gì ông nói với họ: tôi đã chạy trốn khỏi nhà để đi tìm chị Danes. Khi thấy rằng việc đó là vô vọng, tôi bèn đi tới Hertfordshire và được một gia đình Thanh giáo tốt bụng cho ở nhờ. Tôi giúp việc cho họ trong ba năm trước khi quay trở về London để tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với cha tôi. Hy vọng có thể tìm được ông, tôi lẻn vào trong nhà nhưng khi nghe thấy giọng lão Arise Fell tôi bèn trốn vào trong rương và mọi người đã tìm thấy tôi ở đó. 
- Tôi nghe nói con bé đã bị nhốt trong rương suốt sáu tháng liền. - Một người nói.

- Không, lâu hơn kia. - Một người khác xen vào. - Tôi được kể là nó bị nhốt tới một năm cơ đấy. 
Ông Thankless làm tất cả họ ngậm miệng bằng cách quả quyết: 
- Tôi xin đoan chắc với các vị rằng cô bé chỉ ở trong rương vài giờ thôi, không hơn không kém. 
Ông không nói thêm gì nữa, mặc cho bọn họ vặn vẹo. Tôi nghĩ chị Danes hẳn sẽ rất tự hào về ông bạn thợ may của chị. 

Rõ ràng là Gabriel không chịu đựng nổi khi phải xa Hester, và về phần Hester, cô cũng tỏ ra buồn bã khi không có anh ở bên. Điều này có nghĩ là Gabriel không có nhiều thời giờ để làm việc. 
- Cháu xin lỗi, thưa ông chủ. - Gabriel nói, vẻ ủ dột. - Vấn đề là cháu yêu thương Hester. 
Ông Thankless bật cười: 
- Ta không bao giờ để tâm đến chuyện đó, chàng trai ạ. 
Gabriel hạ thấp giọng: 
- Cháu còn sợ là hai kẻ bất lương kia sẽ quay lại tìm cô ấy. 
- Tại sao họ làm thế chứ? - Tôi hỏi. 
- Bởi vì Hester là người duy nhất có thể làm chứng cho những gì chúng đã làm. - Ông Thankless đáp. 
- Không, không phải. - Tôi nói. - Còn chị Joan nấu bếp nữa mà. Chị ấy chắc chắn cũng đã thấy hết mọi việc. 
Ông Thankless đặt bàn tay lên tay tôi:

- Coriander, chị Joan đã chết rồi. 
- Như thế nào? Tại sao chị ấy lại chết? - Tôi hỏi. 
- Chị ấy ngã xuống cầu thang. - Ông Thankless nói. 
- Bị đẩy thì đúng hơn. - Gabriel nói. - Đó chính là điều lo ngại. Cháu nghĩ chúng sẽ tìm cách giết nốt Hester để thoát tội. 
Thật khó khăn để hiểu được những gì Gabriel đang nói. Tôi vẫn còn bàng hoàng khi nghe về cái chết của chị Joan. 
Sau cuộc trò chuyện ấy, Gabriel được phép lên ngồi trông Hester còn tôi làm thay việc của anh trong cửa hiệu. Hester đã bắt đầu ăn uống và má cô đã dần hồng lên. 
Gabriel rất thích đem đến cho Hester đủ loại quà và các thứ linh tinh mà anh tìm được. Hester đặt chúng ở quanh giường và trân trọng ngay cả những thứ nhỏ nhất. Tôi nghĩ trước kia chị ấy chưa từng được tặng món quà nào. 
- Có phải chị Hester đã kể cho ông biết chuyện gì xảy ra với cháu không? - Một tối, khi chúng tôi phải làm việc muộn để khâu cho xong y phục cho một người khách, tôi hỏi ông Thankless điều này. 
- Đúng vậy. - Ông thợ may đáp. - Nhưng bắt đầu là chị Danes. Chị ấy đến thẳng chỗ ta ngay sau khi bị lão Arise đuổi đi. Chị ấy ở trong một tình trạng rất tồi tệ, ta không thể hiểu nổi lấy một lời chị ấy nói, chỉ biết rằng chị ấy đang rất lo cho cháu và có ý định đi tìm ông Hobie để báo cho ông ấy biết chuyện gì đã xảy ra. Ta đã cố thuyết phục chị ấy ở lại, và bảo chị ấy có thể ở trong nhà ta, nhưng chị ấy nói không thể được: không thể để mất thêm một phút nào nữa. Ta rất đau buồn phải nói là ta không bao giờ gặp lại chị ấy nữa.

Ông Thankless chỉ nói có vậy. Ông có vẻ không muốn nhắc đến những gì xảy ra trong thời gian tôi vắng mặt, như thể ông cũng không tin nổi là tôi đã đi xa lâu đến vậy. Tôi cũng không làm mọi chuyện tốt hơn chút nào, vì tôi không kể gì cho ông về cuộc phiêu lưu của mình. Tôi linh cảm rằng giữ im lặng chuyện đó sẽ tốt hơn. Vậy là chúng tôi cứ nói lảng từ chuyện này sang chuyện khác, cho tới khi rốt cuộc cũng hiểu được chuyện gì đã xảy ra trong những năm ấy. Tôi chắp vá những mẩu chuyện mà Gabriel và ông thợ may kể cho thành một bức tranh quá khứ. 
Sau khi chị Danes ra đi, ông Thankless lo lắng vì những gì mình vừa nghe được đến nỗi quyết định tự mình đi xem xét mọi việc. Ông đến phố Thames để hỏi thăm về tôi để rồi bị đuổi ra cùng một bài thuyết giáo của lão Arise ong ong trong đầu. Ông thợ may tội nghiệp, ông hoàn toàn bất lực, không lấy được tin tức gì của tôi, nhưng ông có thể làm gì hơn? Ông không có chứng cớ gì về những chuyện sai trái đã xảy ra ngoài những lời ngồi lê đôi mách của khách hàng, mà những chuyện ấy thì chẳng có ích gì.

Thế rồi chị Joan bị ngã và qua đời. Đến lúc đó thì đủ loại tin đồn khủng khiếp bắt đầu được truyền đi. Ông rất lo sợ vì người ta chỉ thấy có mình Hester đi chợ, còn tôi thì chẳng ai thấy dấu vết gì. Ông chuẩn bị tố cáo Maud với các nhà chức trách thì các bà được Arise truyền giáo ở Ludgate đồn rằng tôi vẫn còn sống và khỏe mạnh và đã được chính Arise Fell đưa trở lại con đường chính đạo, bởi vì trong tôi có một con quỷ cần được chế ngự. Một thời gian sau, Arise Fell với vẻ mộ đạo đã tuyên bố rằng than ôi, tất cả những cố gắng đó chẳng đem lại kết quả gì vì tôi đã chạy trốn để đi tìm chị Danes. Theo lời ông Fell thì chị Danes là một mụ đàn bà xấu xa, một mụ phù thủy, và tôi chính là kẻ học việc của chị. Ông Thankless cũng sẽ chỉ biết có vậy nếu không nhờ Gabriel. Theo như lời ông thợ may: "Cậu Appleby có thể làm rất nhiều thứ nhưng chắc chắn cậu ta sẽ không thể làm một anh thợ may được. Làm người đi do thám lại là chuyện khác. Cậu ta đúng là một tay can đảm, không lẫn vào đâu được. Chính cậu ta đã nhận nhiệm vụ theo dõi ngôi nhà trên phố Thames với một sự nhiệt tình mà cậu ta chưa bao giờ chịu dành cho công việc khâu vá cả".

Lúc đó là tháng tám. Ông Thankless kể lại lúc ấy trời rất nóng và dòng sông Thames bốc mùi chẳng lấy gì làm dễ chịu khi người ta vớt được hai xác người trôi trên sông gần Twickenham. Đám lau sậy đã níu xác dưới lòng sông hàng mấy tháng liền. Ai ai cũng bàn tán không hiểu hai người chết là ai cho đến khi Maud quả quyết rằng đó chính là tôi và chị Danes. Đó là một ngày ảm đạm, ông Thankless kể, trong thâm tâm ông không tin bất kỳ lời nói vớ vẩn nào của họ, và ông bảo Gabriel đi tìm hiểu xem sự thể ra sao. 
Gabriel, trong chiếc áo khoác và mũ đi mượn, đến hội quán ở Ludgate. Ở đó anh ngạc nhiên khi thấy rất nhiều đồ đạc đẹp đẽ hoàn toàn không phù hợp với nơi này. Anh chắc rằng đó là tài sản của cha tôi, nhưng tại sao chúng lại ở đây mà không được bán một cách tử tế thì anh không rõ. 
Sau đó thì mọi sự trở lại im ắng cho đến cái ngày Maud và Arise có một người khách. Người này, theo như Gabriel tìm hiểu được, đi bằng xe khách từ Bristol tới. Ông ta là người duy nhất mà họ tiếp đón, và đó là một dịp long trọng đến nỗi họ để cho Hester đi chợ một mình. Đó là lần đầu tiên Gabriel được nói chuyện với cô, mặc dù cô run rẩy sợ hãi, xoay bên này bên nọ như sợ mỗi bức tường đều có tai mắt để nghe và theo dõi cô. Hester cho anh biết rằng người khách là một luật sư tên là Tarbett Purman. Cô kể cho anh nghe về những nỗi khiếp sợ sâu kín nhất của mình, về những tiếng động quái lạ cô đã nghe thấy trong nhà, những tiếng kẽo kẹt và rên rỉ. Cô chắc rằng hai thi thể vớt được dưới sông không phải là của tôi hay chị Danes, rằng mồ chôn tôi nằm gần ngôi nhà hơn nhiều, ngay trong phòng làm việc của cha tôi.

Gabriel tin là Hester đang gặp nguy hiểm liền trèo vào nhà qua tường của khu vườn, hy vọng gặp được cô. Họ đã gặp và trò chuyện. Sau đó thì Hester biến mất. Gabriel phát điên lên vì tuyệt vọng, nói rằng anh dám chắc cả hai chúng tôi đều đang bị nhốt trong cái rương ấy. Một lần nữa, ông thợ may lại không có bằng chứng gì để hành động, cho tới khi nhận được lá thư của ông Bedwell. Ngày tháng được ghi trên đó rất lâu sau khi hai thi thể nọ được vớt lên. Nhờ đó mà ông biết chắc rằng chị Danes không bị chết đuối, bởi vì nhà Bedwell đã gặp chị và băn khoăn không biết mọi chuyện có ổn không. Họ đang ở Pháp và cũng không thể làm gì hơn ngoài hỏi han tin tức.

Nghe những chuyện này, sao tôi ao ước mình là một chàng trai như Gabriel để có cơ hội tìm lại chiếc bóng và cứu Tycho. Tôi cảm thấy mình thật vô dụng và chỉ biết nói: 
- Tất cả chúng cháu biết làm gì nếu không có ông, ông Thankless? 
- Thật ra thì cháu phải cảm ơn Gabriel hơn là ta. - Ông Thankless nói. - Giờ thì cháu có cho phép ta hỏi cháu một câu không? 
- Tất nhiên là được ạ. 
- Làm sao mà cháu có thể sống sót trong cái rương ấy suốt ba năm trời mà không có thức ăn hay nước uống? 
- Chị Danes đã từng nói với cháu rằng thế giới này là một điều bí ẩn bao bọc bởi lời cầu nguyện. - Tôi đáp. - Xin đừng hỏi cháu đã ở đâu, bởi vì cháu không thể nói ra được. 
- Điều đó chẳng cho ta biết gì hơn. Ta thấy là cháu đã quyết định sẽ giữ im lặng. Nhưng hãy để ta nói với cháu điều này. Ta đã biết, từ cái ngày cháu còn nhỏ xíu và bị lạc gần cửa hiệu của ta rằng có điều gì đó đặc biệt ở cháu. Đôi hài bạc ấy của cháu và các phương thuốc của mẹ cháu. Những phép màu như thế không thuộc về thế giới này, thế giới của cây Thập giá và vị Chúa bị đóng đinh câu rút.

Không lâu sau, Maud Leggs lạch bạch tìm đến hàng thợ may. Mụ đã trở nên to béo đến nỗi phải xoay nghiêng người mới đi lọt cửa. Với cái giọng giống một mụ hàng tôm hàng cá hơn là vợ một thương gia đáng kính, mụ cất giọng chửi rủa ông Thankless. 
- Thưa bà, xin làm ơn. - Ông Thankless nói. - Xin hãy nhớ bà là ai. 
Câu nói đó khiến mụ ngậm miệng trong giây lát, ít nhất cũng đủ lâu để tôi và Gabriel tiễn chân những người khách đang hết sức sửng sốt ra khỏi hiệu và đóng cửa. 
- Tôi muốn gặp con gái tôi! - Maud nói. Giọing mụ to đến nỗi vang khắp nhà và ở giữa cầu cũng còn nghe thấy. 
- Xin bà hãy nói nhỏ thôi. Con gái bà vẫn còn yếu lắm. 
- Tôi không cần biết. Nó đang giả vờ để trốn việc ở nhà. Tôi muốn nó về nhà với tôi ngay lập tức. 
- Không ai sẽ về nhà với bà hôm nay cả, thưa bà, cả ngày mai, cả ngày kia cũng vậy. - Ông Thankless nói. 
- Tôi phải gặp con gái tôi bằng được! - Maud khăng khăng. 
- Thưa bà, đây là cửa hiệu của tôi, và tôi không muốn bà ở đây. Xin đi ngay cho. 
- Hester, con bé khốn nạn kia, mày xuống đây ngay, nếu không tao nện cho một trận bây giờ! - Maud gào lên, không thèm để ý gì đến ông Thankless.

- Nếu bà không đi ngay, tôi sẽ cho gọi ngài thanh tra. - Ông Thankless nói. Tôi chắc hẳn ông ấy sẽ vui lòng có một đôi lời với bà. 
- Thế thì đi đi! - Maud thách thức. - Đi mà gọi lão thanh tra đến. Ta không thèm sợ một gã thợ may quèn như mi đâu! 
- Tôi hy vọng là không. - Ông Thankless nhã nhặn. - Và xin bà cũng đừng sợ phải nói cho ngày thanh tra biết tất cả đồ đạc và rượu vang hảo hạng của ông Hobie đã biến đi đâu. 
Maud ngậm cứng miệng. 
- Gabriel! - Ông Thankless gọi. - Cậu đi mời ngài thanh tra đến đây ngay. 
- Chờ đã. - Maud nói. - Đừng vội như vậy. Không cần phải mời ai cả. Như ông cũng biết, Chúa rất kỹ lưỡng khi lựa chọn đồ đạc. Người sẽ thấy bị xúc phạm vì những cái chân bàn vểnh ra và các kiểu trang trí tương tự. Arise Fell nói rằng chúng chẳng khác nào đồ đạc ở Sodom và Gomorrah [12], và Chúa sẽ biết. 
- Tôi dám chắc rằng ông ta biết. - Ông Thankless nói. - Và hẳn các chai rượu vang cũng làm trái ý ông ta? 
- Ô không. - Maud nói. - Chúng tôi đã uống chỗ rượu ấy. Tôi muốn nói là... 
- Và hẳn Chúa Lòng Lành cũng không phản đối chuyện bà đánh đập và bỏ đói con gái mình, nhốt con riêng của chồng mình trong rương chứ?

- Đồ quỷ dữ! - Maud hét. - Ông đã bóp méo lời tôi! 
- Không, thưa bà. - Ông Thankless nói. - Chính bà mới là kẻ méo mó, chứ không phải là lời nói của tôi. Giờ tôi muốn bà đi ngay cho. 
Maud thở phì phì rồi giậm chân thình thình lên sàn. 
- Tôi sẽ còn quay lại, quỷ tha ma bắt ông đi, tôi sẽ quay lại. Ông không có quyền gì đối với tôi và những thứ của riêng tôi cả. - Mụ thét lên và đóng sập cửa lại. Chiếc chuông treo trên cửa rung rất lâu sau khi mụ đã đi rồi. 
Ông Thankless và tôi lên gác thì thấy Hester đang ngồi dậy trên giường, tái mét và run rẩy. 
- Cháu thà chết còn hơn là quay lại đó. - Cô nói. 
- Ta sẽ không để chuyện đó xảy ra đâu. Đây là nhà cháu. - Ông Thankless ân cần. - Ai muốn hành hạ cháu như thế thì phải bước qua cái xác của ta. 
- Tôi sẽ giết chết chúng nếu chúng còn đụng đến em. - Gabriel tuyên bố một cách giận dữ đến nỗi chúng tôi đều phá lên cười. Ngay cả Hester cũng mỉm cười, trong khi Gabriel đỏ bừng mặt. 
Sau đó, khi tôi ngồi xuống cạnh cô, Hester nói: 
- Chị đã nghĩ là chữ viết có những quyền lực thật to lớn, to lớn hơn lời nói nhiều.

- Em nghĩ là chị nói đúng. - Tôi trả lời. 
- Lão Arise có thể thắng trong bất kỳ cuộc tranh cãi nào bằng những lời lấy ra từ Kinh thánh. Bởi vì những lời ấy thật khôn ngoan. Chúng có thể có nghĩa này khi nói theo cách này, nhưng người ta cũng có thể khiến cho chúng có những ý nghĩa hoàn toàn khác. 
- Từ ngữ có thể bị xuyên tạc. - Tôi nói. 
- Nhưng sẽ khó xuyên tạc hơn nếu chúng được viết ra. 
- Đúng thế. - Tôi đồng tình. - Sẽ khó hơn nếu chúng được viết ra. 
- Em có bằng lòng viết ra những lời chị sắp nói đây không, để chúng làm lá chắn cho những lời nói dối đã được thốt ra và những điều sai trái đã xảy ra? Em sẽ làm điều đó giúp chị nhé? 
- Còn hơn thế ấy chứ! - Tôi đáp. 
Hester gật đầu và nằm ngả xuống gối. 
Và đây là những lời của Hester, câu chuyện của Hester. 

[12] Tên hai thành phố nổi tiếng trụy lạc trong Kinh thánh