Tôi là Coriander - Phần 5 - 27: Sợi dây vô hình

Tôi thường suy nghĩ rất nhiều về những chiếc váy dài và về việc chúng làm cho thế giới của phụ nữa chật chội biết bao. Không bị cản trở bởi những chiếc váy lót, không bị vướng víu bởi những chiếc tạp dề níu chặt người phụ nữ với công việc nội trợ, một người đàn ông có thể làm mọi việc trừ bay lên trời. Sự thực là tôi đang rất thất vọng, tôi đã mong có cơ hội tìm được chiếc bóng khi đã quay lại phố Thames cùng Gabriel. Tôi mong được cải trang thành con trai một lần nữa, bởi vì tôi không nghĩ ra cách gì khác để quay lại ngôi nhà cũ của mình. 
Gabriel và Hester đã đi được tròn một tuần và đêm nào tôi cũng mơ thấy cùng một giấc mơ. Những con chó săn đuổi theo tôi và tôi phải chạy bán sống bán chết. Mặt đất trắng xóa, tuyết đang rơi dày và cánh rừng đen sì, trơ trụi. Con cáo chạy bên tôi, nhìn tôi bằng cặp mắt nâu của nó. Đàn chó và những tên thợ săn vẫn đang bám sát chúng tôi. Tôi chỉ nhìn thấy con bạch mã khi thân hình trắng muốt của nó nổi bật trên nền trời đen. Tôi cảm thấy hơi thở nóng hổi của đàn chó và nghĩ rằng cái chết đang cận kề.

Những con chó đã đuổi kịp và chồm lên người tôi. Răng chúng nhe ra, nước dãi lòng thòng rớt xuống từ những cái miệng đang gầm gừ. Nhưng rồi tôi nhận ra chúng không đuổi theo tôi. Chúng vây lấy con cáo, những cái lưỡi thè ra. Chúng đang sáp lại để hạ thủ con mồi. Tiếng tù và của những người đi săn vang lên, bay qua các cánh đồng, và tôi có thể nhìn thấy máu nhỏ xuống tuyết. 
Tôi tỉnh dậy và hiểu rằng mình không thể tiếp tục lần lữa. Tôi phải tìm lại chiếc bóng và cứu Tycho. 
Tôi không thể nói cho ông Thankless hay chị Danes biết kế hoạch của mình, họ đã có đủ chuyện để lo lắng về Gabriel và Hester rồi. Dù sao, tôi vẫn cảm thấy có lỗi khi nghĩ đến chuyện mình có thể làm mọi việc thêm tồi tệ bằng cách bỏ đi như vậy. 
Suốt cả cái ngày dài buồn tẻ ấy, tôi nghiền ngẫm kế hoạch của mình thật kỹ. 
- Em cứ bồn chồn như ngồi trên lửa vậy [18]! - Chị Danes nói khi hai chúng tôi cùng gấp vải trong cửa hiệu.

Tôi những muốn thổ lộ hết với chị như trước kia, nhưng tôi chỉ có thể đáp: 
- Khi nhà vua quay trở lại, mọi việc sẽ ổn hết. 
- Chị chắc rằng em nói đúng. - Chị Danes nói. - Nhưng khi nào việc ấy sẽ đến thì chị không biết, vì lão bạo chúa già kia vẫn còn khỏe mạnh lắm, và lão gần như đã lên ngôi vua rồi còn gì, chỉ chưa có tước hiệu rõ ràng thôi. Chị nghĩ lão sẽ còn kẹp chúng ta dưới vuốt sắt của lão lâu nữa. 
Tôi không biết phải đáp lại thế nào, sợ rằng nếu nói nhiều sẽ lộ mất. Thú thực là tôi sợ rằng hôm nay có thể là ngày cuối cùng của tôi trên mặt đất này, là lần cuối cùng tôi còn được nhìn thấy chị Danes thân yêu và ông Thankless dễ mến. Tôi cố kìm nước mắt. 
- Có điều gì khiến em buồn bực ư? - Chị Danes hỏi. 
- Không. - Tôi đáp. - Không có gì mà một cái ôm chặt của chị không chữa lành được. 
Người chị Danes toát ra mùi bánh mì mới ra lò và mùi hoa oải hương, thật quen thuộc đối với tôi và tôi muốn nhớ lấy nó, đem nó theo tôi như một bó hoa. 
Lúc chúng tôi đang bày bàn ăn tối, ông Thankless lao vào bếp. 
- Ông Starling đến đúng lúc tôi đang đóng cửa hàng và báo là Hester và Gabriel đã lên bờ an toàn ở La Rochelle. - Ông nói, nắm tay chị Danes và kéo chị nhảy múa quanh bếp. - Phải nâng cốc chúc mừng họ đến nơi an toàn mới được! - Rồi ông đi lấy chai rượu brandy hảo hạng nhất của mình ra.

 

Tôi cố tỏ ra vui vẻ, nhưng tay chân tôi cóng lạnh, và rượu brandy đắng chát như vị của tội lỗi trong miệng tôi. Tôi không muốn nghĩ đến những gì họ sẽ nói sáng mai, sau khi tôi đã đi rồi. Ý nghĩ này làm tôi lo lắng đến nỗi tôi phải viết mấy dòng để lại trên giường để ông Thankless có thể đọc cho chị Danes nghe. Tôi hy vọng nó sẽ giúp họ khuây khỏa phần nào. 
Khi mọi người đã đi ngủ cả, tôi lại mặc bộ quần áo con trai và bọc đôi hài bạc giấu vào trong áo. Tôi đem chúng theo với hy vọng chúng sẽ giúp đưa tôi trở lại thế giới của mẹ. 
Cuối cùng, khi người canh đêm báo mười hai giờ, tôi nhẹ nhàng đi xuống dưới nhà. Tất cả đều chìm trong im lặng, trĩu nặng mùi vị say nồng của giấc ngủ. Tôi nhìn quanh cửa hiệu một lần nữa trước khi bước ra ngoài, nghĩ rằng mọi thứ sẽ vẫn còn nguyên đây sau khi tôi ra đi. Ý nghĩ ấy khiến tôi thấy can đảm hơn. 
Tôi mừng vì có ánh trăng soi đường bởi ngôi nhà của tôi hoàn toàn tối đen. Không có ngọn đèn nào thắp sáng bên ngoài. Tấm biển có hình cây dâu tằm từng được treo đầy hãnh diện bên trên cánh cổng giờ đã phai màu, sơn tróc ra từng mảng.

Tôi quấn chặt chiếc áo choàng quanh người và nhìn ngược nhìn xuôi để biết chắc không có ai xung quanh. Có một cách để mở cổng vườn mà không cần chìa khóa. Tôi đã nhìn chị Danes làm thế rất nhiều lần. Khi còn nhỏ tôi đã cố thử nhưng không đủ sức. Đêm nay thì việc ấy thật dễ dàng. Tôi lách ngón trỏ vào ổ khóa và kéo chiếc chốt cho cánh cổng mở ra. Dưới ánh trăng, khu vườn có vẻ khô héo và kiệt quệ, tàn tạ vì không được tưới nước và chăm bón. 
Tất cả đều tĩnh lặng như trong mồ khi tôi bước vào nhà. Tiền sảnh, cũng như khi tôi đến lần trước, không được thắp đèn. Trong bóng tối lờ mờ, tôi có thể thấy một đống bàn ghế chất lộn xộn, chắn trước cánh cửa dẫn ra sông. 
Tôi tự hỏi không biết cái Cây Nêu tháng Năm kỳ quặc này có phải là để giữ cho con cá sấu không xông vào không vì tôi không thể nghĩ ra lý do gì khác. Thế rồi tôi cảm thấy một bàn tay nhỏ béo mập túm lấy tôi từ phía sau. 
- Tôi bắt được con bé rồi, ông Arise! - Maud hét với lên tầng trên. - Nó mặc giả trai, nhưng tôi vẫn ngửi ra mùi nó.

Không có tiếng trả lời. 
- Ông Arise! - Mụ ré lên. - Ông có nghe tôi gọi không? Con bé đã đến, đúng như ông đoán. 
Tôi giật tay mình ra. 
- Không nhanh thế đâu. - Mụ nói. - Lần này mày sẽ không thoát được. 
Maud trông có vẻ thật man rợ, cặp mắt mở trừng trừng. Mụ không đội mũ, mớ tóc mỏng dính xõa xuống như những cái đuôi chuột nhờn mỡ, có thể thấy rõ từng mảng da đầu trọc lốc. Hơi thở của mụ có mùi bơ thiu còn váy áo có vẻ đã lâu không được giặt giũ. 
Đột nhiên, một tia sáng chiếu xuống từ trên cầu thang. Lão Arise đứng đó, tay xách một cây đèn, ánh sáng của nó phản chiếu lại trên cặp mắt kính xanh của lão. 
- Ann! - Lão nói. - Thế là mi đã quay lại với chúng ta. 
Trong khoảng khắc, tôi lại cảm thấy nỗi sợ xưa cũ của mình, nhưng rồi tôi thu hết can đảm và nói: 
- Ann ư? Đó không phải là tên tôi, và ông cũng biết rõ như vậy. 
- Sao mày dám ăn nói như thế với một giáo sĩ! - Maud quát, đưa tay lên đánh tôi. Tôi nhìn thấy mụ làm vậy và suýt nữa lại trở thành một đứa trẻ như ngày trước. Rồi tôi nghe thấy một giọng nói bình tĩnh vang lên trong đầu: "Mi cao hơn bà ta, mi đã là một cô gái trưởng thành. Mi có thể bắt bà ta ngưng lại."

 

Tôi đẩy mạnh mụ ra và nói: 
- Bà còn đụng tới tôi, Maud Jarret, thì sẽ phải hối tiếc rất nhiều đấy. - Giọng tôi vang lên mạnh mẽ, mạnh mẽ hơn tôi nghĩ nhiều. 
Tôi ngạc nhiên thấy Maud lùi lại. 
- Ông Arise! - Mụ nói. - Hãy giết nó đi, như thế ít ra chúng ta cũng có gì đó để đưa cho... 
- Im đi, mụ kia! - Arise nói và bước xuống cầu thang đi về phía tôi. Tôi vươn người lên thật cao. Mình thà chết còn hơn phải chịu khuất phục lão gù này, tôi thầm nhủ. Khi lão tới gần, tôi ngửi thấy mùi rượu, và tự an ủi mình rằng lão không cao như tôi vẫn nhớ. 
- Mi đến đây làm gì? - Lão hỏi. 
- Để tìm thứ mà ông cũng đang tìm. - Tôi đáp. 
- Và đó là cái gì? - Lão cười khẩy hỏi. 
- Bóng tiên. - Tôi đáp. 
- Đừng nghe lời nó! - Maud nói. - Nó chính là Quỷ dữ đang tìm cách lừa chúng ta! 
- Không phải. - Tôi nói, và nói thật rõ ràng. Tôi cất lời thay cho Hester, cho chị Joan và chị Danes. Tôi cất lời cho cha tôi và cho tôi, Coriander. - Chính các người mới nghe theo lời Quỷ dữ. Chính các người đã phạm tội sát nhân và lừa đảo, tất cả là vì lòng tham của các người. 
Lão Arise cười, một tiếng cười trống rỗng không lấy gì làm vui vẻ, và giơ tay lên. 
Tôi vẫn đứng vững. Tôi nói:

- Ông chính là con Quỷ duy nhất ở đây. 
Đúng lúc đó, đống bàn ghế lắc lư rồi đổ rầm xuống sàn. Cánh cửa dẫn ra sông bật mở. Bàn tay của lão Arise rơi thõng xuống, lão lùi lại mấy bước và bám lấy cái lan can. Bởi vì kia, giữa đống bàn ghế, là một con cá sấu khổng lồ, đáng sợ. Tôi đứng nguyên tại chỗ trong khi Maud chạy tới bên Arise, bám lấy lão và van xin lão làm một điều gì đó. 
Lão dùng bàn tay thịnh nộ đập mạnh lên người mụ. Nhưng mụ vẫn không chịu buông ra. 
- Xin hãy cứu tôi! - Mụ thét lên. Nhưng bàn tay cứu rỗi vẫn nắm chặt cây đèn đang chao đảo, ánh sáng và bóng tối chiếu qua khuôn mặt khiếp hãi của hai người. 
Tôi nhìn chúng đứng đó và cảm thấy sự căm ghét dâng lên. Tôi biết mình không có gì phải sợ con cá sấu. Nó đi vào tiền sảnh và dừng lại bên cạnh tôi, như thể nó đang đi tìm tôi vậy. 
- Hãy làm đi! - Arise hét. - Giết nó đi, giết nó như mi đã giết Tarbett Purman ấy! 
Con cá sấu chậm rãi quay đầu lại nhìn tôi. Tôi biết nó đang nghĩ gì và khẽ gật đầu. Con thú lao vùn vụt về phía cầu thang. 
Maud đẩy Arise ra để trốn khỏi con thú và chạy thoát được lên cái chiếu nghỉ thứ nhất. 
- Không! - Lão Arise thét lên. - Con bé kia!

Lão chỉ một ngón tay với cái móng dài ngoẵng về phía tôi. Con cá sấu vẫn tiến tới phía lão. Tôi đi theo sau nó. 
Con cá sấu túm được cổ chân lão. 
Arise buông ra một tiếng thét kinh khủng và cố kéo chân ra. 
- Hãy đến giúp ta! - Lão gọi với lên cầu thang. 
Con cá sấu buông lão ra. Chiếc tất của Arise ướt đẫm máu. Lão tập tễnh đi lên cầu thang và đẩy Maud sang một bên để vào buồng cha tôi, cuống cuồng lục tìm chùm chìa khóa. Maud lạch bạch chạy theo lão, nhưng Arise đóng sập cánh cửa trước mũi mụ và khóa chặt nó lại. 
- Cho tôi vào! - Maud gào thét và đấm mạnh cánh cửa. 
- Không, mụ kia. - Arise đáp. - Ta không cần biết chuyện gì xảy ra với mụ. 
Maud quay lại nhìn tôi và rên rỉ: 
- Rosmore sắp đến đây rồi, lúc ấy thì cả hai chúng mày sẽ xong đời. 
Con cá sấu trườn về phía Maud. Mụ đứng sững lại ở đầu cầu thang. 
Con cá sấu chỉ cần dùng những móng vuốt đầy vảy của nó xô một cái là cánh cửa buồng ngủ đổ xuống. 
Căn buồng trống rỗng, chỉ có chiếc đèn. Lão Arise đã trèo lên bệ cửa sổ, bàn tay thịnh nộ đưa ra phía trước, bàn tay cứu rỗi bám chặt lấy chốt cửa. 
- Hãy tránh xa ta ra, đứa con của yêu tinh kia! Tránh xa ra! 
- Tên ta là gì? - Tôi hỏi.

- Ann. - Lão trả lời. 
Con cá sấu há miệng ra. Những chiếc răng sắc nhọn như dao của nó lóe sáng trong ánh trăng. 
- Tên ta là gì? - Tôi hỏi lại. 
- Coriander! - Arise thét lên, để rơi chùm chìa khóa xuống sàn. Lão đẩy mạnh những tấm kính đã nứt vỡ dưới sức nặng của lão. Với một tiếng rắc, cánh cửa sổ bật ra và lão truyền giáo rơi thẳng xuống dòng sông bên dưới. 
Tôi chạy tới bên cửa sổ và nhìn xuống. Tôi không thấy gì ngoài làn nước sông đen ngòm. Tôi hết sức hy vọng rằng lão truyền giáo thế là xong đời. 
Tôi nhặt cây đèn cùng chùm chìa khoá lên và đi theo con cá sấu xuống dưới nhà và vào phòng làm việc. Tôi mở khóa. Căn phòng này cũng rỗng không y như buồng ngủ ở tầng trên. 
Con cá sấu đứng trước cái tủ bằng gỗ mun và lại há cái miệng khổng lồ ra. Tôi nhìn bộ răng ấy, đôi hàm trắng lóa ấy, và nhớ lại rõ ràng cái lần tôi phải thò tay vào đó lấy chiếc chìa khóa của cái tủ gỗ mun để có thể được đi đôi hài bạc. 
Tôi biết mình phải làm gì. Tôi quỳ xuống. Ánh sáng của cây đèn chập chờn rồi tắt ngấm, tôi cảm thấy làn gió lạnh buốt phả ra từ đôi cánh của con quạ lúc nó bay vào phòng, theo sau là Rosmore. Tôi đứng bật dậy. Hàm răng con cá sấu ngậm lại.

- Ồ, Coriander, vậy là chúng ta lại gặp nhau. 
Rosmore khoác một chiếc áo choàng bụi bặm nom như được dệt bằng mạng nhện. Gương mặt mụ thật độc ác và khắc nghiệt. Cronus đậu xuống cánh tay mụ. 
- Con chim xinh đẹp của ta, hãy xem chúng ta có gì ở đây nào? 
- Một công chúa, không hơn không kém. - Con quạ đáp lại. 
- Công chúa này giống ai nhỉ? 
- Còn ai vào đây nữa. - Con quạ lại đáp. - Công chúa Eleanor, con ghẻ của lệnh bà. 
- Ôi, đúng là con chim tinh khôn của ta. - Mụ thì thầm. - Hãy cho ta biết ta nghĩ gì về công chúa Eleanor nào. 
- Công chúa đã trái lời lệnh bà và chạy theo một tên người trần. 
- A! - Mụ nói. - Ta thật đau lòng khi phải nhớ lại chuyện ấy. Nhưng giờ những sai trái cô nàng gây ra có thể được sửa chữa lại nhờ cô con gái. Lại đây, nhóc con, trả lại ta vật thuộc về ta. 
Trong khi mụ nói, nửa với tôi, nửa với con quạ, tôi nhìn thấy một bóng người sau lưng mụ. Như một con chuột cống khổng lồ bước vào từ cánh cửa dẫn ra sông, đó chính là Arise, người ướt lướt thướt, chiếc kính xanh đã rơi mất, để lộ ra đôi mắt nhợt nhạt có màu như vảy cá. 
Con quạ kêu lên một tiếng to và Rosmore quay phắt lại, Arise quỳ sụp xuống khi một tia chớp xanh bắn ra từ bàn tay của mụ.

- Người đã không giữ đúng lời hứa. - Rosmore nói. - Lòng tham vô đáy đã khiến người mờ mắt. 
- Tôi không biết rằng bị nhốt trong rương mà con bé lại không chết. 
- Đồ ngu! - Mụ cất tiếng cười. - Ngươi đã dám liều lĩnh làm trái ý ta. Người tưởng ngươi có đủ khôn ngoan để qua mặt hoàng hậu của các vị tiên. Ta đã cảnh cáo ngươi là không được xía vào những việc mà ngươi không hiểu rõ kia mà! 
Một tia chớp xanh nữa giáng lên người lão, nhấc lão lên khỏi sàn nhà và quay lão vòng vòng trong không khí, nước sông nhỏ xuống từ cái áo khoác đen bóng của lão. 
Maud định lẻn trốn lên gác xép. Nhìn thấy mụ, Rosmore lại cất tiếng cười. 
- Xin đừng! - Maud rên rỉ. - Xin đừng làm gì tôi! 
Đúng lúc ấy con cá sấu mở miệng ra. Tôi quỳ xuống và nhanh chóng lôi từ những chiếc răng của nó ra tấm tơ óng ánh bạc - cái bóng của mẹ tôi. 
- Giỏi lắm, nhóc con. - Rosmore nói khi mụ nhìn thấy vật tôi cầm trong tay. 
- Xin hãy tha cho ông ấy! - Maud van vỉ, tiến đến gần Rosmore và kéo chiếc áo choàng bằng tơ nhện của mụ. - Chúng tôi không đáng bị như thế này. Xin tha cho ông ấy và chúng tôi sẽ đi khỏi đây. 
- Im ngay! - Rosmore ra lệnh. - Ta không cho phép kẻ nào đùa giỡn với ta. Ta đã nói trước cho các ngươi biết điều gì sẽ xảy ra nếu dám trái lời ta.

- Tôi chỉ dám ước là bà đừng bẻ gãy xương ông ấy. - Maud lại nói. 
- Lại một điều ước nữa! Ồ, một ân huệ! Chẳng phải ta đã bảo ngươi hãy cẩn thận với những điều ước hay sao? - Rosmore lại cười lớn. - Nó có thể trở thành sự thật đấy. Ngươi muốn lão gù chứ gì? Được thôi, ngươi sẽ có lão. 
- Không! - Arise thét lên. - Mụ ta không muốn thế đâu! 
Những tia sáng màu xanh lục phát ra từ bàn tay của Rosmore, xoay vòng và cuộn quanh Arise đang bị treo lơ lửng trong không khí. Tay lão bám lấy những sợi ánh sáng và lão rơi xuống như đang ở trên giá treo cổ tại Tyburn vậy. Thân thể lão co giật và quằn quại hồi lâu. Cuối cùng lão nằm cứng đờ ra. 
Tôi biết Arise Fell đã chết. 
Maud cứ thét và thét mãi. 
- Im đi, mụ ngựa già! - Rosmore quát. - Im đi, nếu ngươi không muốn đi gặp lão. 
Maud đứng nhìn cái xác trên sàn nhà và đưa nắm tay béo mập của bà ta lên miệng. 
Rosmore quay sang tôi và thì thầm với Cronus: 
- Hãy bảo con bé đi, con chim xinh đẹp của ta, hãy bảo nó đưa vật ấy cho ta. Hãy bảo nó đi. 
Tôi nhìn chiếc bóng trong tay mình và ngắm ánh bạc đang ngấm vào da tôi và tan biến đi. Tôi thấy con quạ đang chậm rãi đập đôi cánh rộng của nó, và thấy một con cá sấu nhồi bé xíu nằm trên sàn.

Tôi nói, giọng như từ xa xôi vọng lại. 
- Đây là chiếc bóng của mẹ ta. Nó thuộc về ta. 
Căn buồng bắt đầu mờ nhạt đi. Rosmore biến thành một tấm màn mỏng. Tôi chỉ còn nghe được tiếng mụ đang rít lên: 
- Ta sẽ giết ngươi! Ngươi không thể trốn thoát được đâu! 
Giọng mụ nhỏ dần đi và biến mất. Tôi cảm thấy như một con chim đang nhìn từ trên cao xuống thành phố bên dưới, đầu tiên là căn nhà ở phố Thames, sau đó là toàn bộ thành phố London cũng mờ dần rồi biến mất, và tôi biết giờ tôi đang ở đâu. 
Vậy là phần truyện thứ năm của tôi đã được kể lại, và cùng với nó, một ngọn nến nữa đã tắt. 

[18] Nguyên văn: bồn chồn như một tấm chăn đầy rận ấy