Tôi là Coriander - Phần 5 - 26: Dấu răng

Lúc thủy triều lên cao, dòng sông có màu thủy ngân. Như hòn đá của một nhà giả kim thuật, ngày ngày nó biến những kiện hàng trên các tàu buôn thành những túi vàng và bạc, nó là sự giàu có và thịnh vượng của thành phố. Cùng với mỗi đợt thủy triều, nó cuốn trôi mọi tội lỗi của cư dân sống hai bên bờ, đồng thời đem đến niềm hy vọng và những lời cầu nguyện. Bởi vì vị Cha già sông Thames không bao giờ phán xét những đứa con hư hỏng của mình, những kẻ đã phung phí sự màu mỡ của người và làm người vẩn đục với lòng tham của chúng. 
Với mỗi đợt thủy triều rút xuống, dòng nước lại để lộ ra lòng sông dơ dáy, mọi bí mật của nó vốn bị giấu kín dưới những lớp bùn trên bờ. Đôi khi con sông từ chối chở những hành khách bị ném bỏ của nó ra biển, và họ quay trở lại, bập bềnh như những mẩu gỗ mục trên mặt nước, không chịu chìm xuống. Chuyện đó đã xảy ra với thi thể của Tarbett Purman. Ông ta được tìm thấy trôi nổi như một chiếc nút bấc ngay dưới cầu tàu London, và những người lái đò đã kéo Purman từ dưới sông lên thấy mắt ông ta mở trừng trừng và trên người ông ta là hàng ngàn vết thương nhỏ do bộ hàm sắc nhọn nào đó phập vào.

Hôm đó tôi bị đánh thức sớm. Chị Danes với vẻ mặt nghiêm nghị bảo tôi mặc quần áo thật nhanh và xuống bếp. Tôi làm theo, cảm thấy nôn nao trong bụng, bởi vì tối qua khi chúng tôi lên giường thì đã muộn lắm rồi. 
Ông Thankless cũng đã dậy và mặc quần áo, đang đi đi lại lại trong phòng. Gabriel và Hester đang đứng nắm tay nhau. 
- Có chuyện gì vậy? - Tôi hỏi khi thấy mọi người đều có vẻ nghiêm trọng. 
- Tarbett Purman chết rồi. - Gabriel nói. 
- Còn tệ hơn thế nữa kia. Người ta đồn là lão ta đã bị sát hại. - Ông Thankless nói. 
- Sát hại ư? Sao ông biết? 
- Người ta tìm thấy lão trôi lềnh bềnh trên sông. Ông Starling vừa đến báo là ông thanh tra đã được mời đến. Gabriel đã bị kết tội sát hại lão ta vì ghen tuông và chạy trốn cùng vợ chưa cưới của lão.

 

- Không! - Tôi kêu lên. - Ai kết tội anh ấy? 
- Còn ai vào đây nữa? Tất nhiên là Maud và Arise rồi. - Gabriel lầm bầm nói. 
- Nhưng anh đâu có làm chuyện ấy! Tôi đã... 
- Chẳng thay đổi được gì đâu. - Gabriel nói. - Không ai lại đi tin lời một tên thợ học việc hơn lời một nhà truyền giáo đâu. Tôi sẽ bị bắt và treo cổ trước khi các bạn có thể chứng tỏ rằng tôi vô tội. 
Hester òa khóc. Tôi ước gì đầu óc mình không đặc lại vì buồn ngủ đến thế, tôi không thể suy nghĩ một cách rõ ràng được. 
- Ta không để chuyện đó xảy ra đâu, ta cam đoan với cháu như thế. - Ông Thankless nói. - Ta sẽ không để chúng đụng tới cháu. Cháu chẳng khác nào con trai của ta. Khi cha mẹ cháu qua đời, ta đã hứa với họ là sẽ chăm lo cho cháu, ta đã làm thế và sẽ tiếp tục làm thế. Trời đất quỷ thần ạ, chúng sẽ không bắt được cháu đâu. 
Nước mắt lăn dài xuống má ông thợ may khi ông ôm chặt Gabriel. 
- Ông là ông chủ tốt nhất mà cháu có thể có được. - Gabriel nói. - Cháu xin lỗi vì đã gây ra nhiều phiền toái đến thế.

- Phiền toái ư? - Ông thợ may nói. - Cháu không gây ra chút phiền toái nào hết. Chúng ta sẽ làm gì nếu không có cháu? Coriander hẳn đã chết. Hester thì sẽ bị ép lấy lão Tarbett Purman... 
- Thuyền trưởng Bailey! - Tôi kêu lên. 
Tất cả đều quay lại nhìn tôi. 
- Chúng ta phải đến tìm thuyền trường Bailey. Có lẽ ông ấy sẽ giúp Gabriel trốn khỏi trành phố được! - Tôi nói. 
- Một ý kiến rất hay, nhưng quỷ thần ơi, sẽ mất nhiều thời gian để tìm được ông ấy, mà thời gian thì chúng ta lại không có đủ. - Ông Thankless nói. 
- Ông Starling có thể giúp được. - Tôi nói, nhớ lại đêm hôm trước ông chủ thuyền đã tỏ ra có ích như thế nào. - Chắc chắn ông ấy sẽ tìm ra thuyền trưởng Bailey. 
- Đúng vậy. - Ông Thankless nói. - Nhưng dù sao thì cũng không có cách nào biết được thuyền của thuyền trưởng đang ở Rotherhithe hay là đã ra khơi rồi. Ta sẽ phải đi hỏi xem. 
- Không. - Chị Danes kiên quyết nói. - Ông hãy ở nhà và giúp Gabriel trốn tạm đi đâu đó. Tôi sẽ đi và đem Hester theo. Hai người phụ nữa, một già một trẻ, đi hỏi thăm một viên thuyền trưởng thì sẽ ít đáng nghi hơn nhiều. 
- Cô ấy nói đúng đây. - Gabriel nói. 
- Ôi chao, tôi cũng không biết nữa. - Ông thợ may nói, dáng điệu vô cùng lo lắng.

Hester đi lấy áo choàng cho mình với chị Danes. 
- Đừng lo, ông Thankless. - Cô nói. - Chúng cháu sẽ tìm ra thuyền trưởng Bailey và ông ấy sẽ biết phải làm gì. 
- Em hãy cẩn thận đấy. - Gabriel dặn và hôn cô ấy hết sức âu yếm. 
- Đi nào, chúng ta không được để phí một chút nào nữa. - Chị Danes nói. - Phải ra bờ sông và tìm ông chủ thuyền ngay. 
Dường như hai người mới chỉ đi được một chút thì đã có tiếng đấm mạnh lên cửa. 
- Mở cửa ra! Chúng tôi có lệnh bắt Gabriel Appleby. 
- Nhanh lên! - Ông thợ may nói, nhấc một ô cửa sập trên sàn bếp lên. Bên dưới đó là những bậc thang dẫn đến một cầu tàu nơi ông Thankless cất các loại vải vóc. Gabriel không để phí giây nào. Chúng tôi đóng cánh cửa lại bên trên đầu anh, sau đó che nó đi bằng chiếc bàn bếp, lại chất thêm một đống rổ rá lên đó. 
Chuông cửa vẫn tiếp tục réo, như thể chính quỷ sứ đang tìm cách xông vào. 
- Mở cửa ra ngay, nếu không chúng ta sẽ xô đổ nó đấy! 
- Không cần phải vậy đâu. - Ông Thankless nói, chạy lên tầng trên và mở khóa cửa ra. 
Một viên thanh tra bước vào cửa hàng, theo sau là một anh lính, giày của cả hai đều bám đầy bùn.

- Tên học việc Gabriel Appleby của ông đâu? - Viên thanh tra hỏi. 
- Cậu ta mang áo đi giao cho một thương gia. Sao ông lại hỏi cậu ta? Chuyện gì đã xảy ra? 
Viên thanh tra giúi một tờ giấy vào tay ông Thankless. 
- Y đã phạm phải điều răn thứ sáu. Tội sát nhân! - Ông ta nói, chạy lên tầng trên, vào mấy phòng ngủ của chúng tôi, để lại tên lính kiểm tra quanh cửa hiệu. 
- Đây là áo của ai? - Tên lính hỏi, cầm lên một chiếc áo sắp may xong. 
- Áo may cho một phu nhân mộ đạo và khiêm tốn. - Ông Thankless nói. 
Tên lính xé rách chiếc tay áo. 
- Thánh Paul nói chúng ta ăn mặc là vì Chúa, không phải là vì thế giới này. Đây không phải là một chiếc áo phù hợp cho một người phụ nữ sùng đạo. - Hắn nói, và xé toạc những đường viền tuyệt đẹp ra khỏi vạt áo. 
- Xin hãy tha cho cái áo. - Ông thợ may van xin. 
- Váy áo cho những mụ đàn bà phóng đãng. - Tên lính nói, đâm thủng chiếc váy bằng con dao của hắn. - Một người phụ nữ phải ăn mặc giản dị để người đàn ông có thể chú tâm đến Chúa. 
- Nhìn này. - Viên thanh tra nói, lôi Nell xuống cầu thang. - Con mụ này đang trốn ở dưới gậm giường. Mụ ta là ai vậy? 
- Tôi là người giúp việc của ông Thankless. - Nell đáp. 
- Gabriel Appleby đâu?

- Tôi xin thề danh dự là tôi không biết, thưa ngài. 
- Mi biết điều gì sẽ xảy ra với những đứa con gái dối trá chứ? - Viên thanh tra nói, cầm lên một chiếc cốc không và ném vỡ nó trước mặt Nell. Chị vặn vẹo đôi tay và tỏ vẻ rất khó chịu vì phải nghe cái giọng như vậy. 
- Nào, hãy vào tìm trong bếp xem sao. - Viên thanh tra nói, rồi ông ta và tên lính bước rầm rập xuống nhà dưới và bắt đầu thích thú phá tan tành căn bếp. 
- Vẫn không biết tên học việc của ông ở đâu hả? - Viên thanh tra hỏi. 
- Không. - Ông Thankless đáp. 
Viên thanh tra đến bên bệ lò sưởi và cầm lên một chiếc cốc vại một khách hàng tặng cho ông Thankless từ trước cuộc Nội Chiến. Ông ta chậm rãi đọc dòng chữ khắc trên đó: 
- Một món quà của Huân tước Sellbury. Sao ta lại thấy cái tên này quen nhỉ? Tất nhiên rồi, ta không bao giờ quên một vụ treo cổ ra trò cả. Nếu ta nhớ không nhầm thì đây là một tên Bảo hoàng đã biến thành cướp đường sau khi đất đai của hắn bị tịch thu bởi nhà lãnh đạo vĩ đại Oliver Cromwell của chúng ta. - Ông ta ném chiếc cốc vại xuống sàn và giơ cao ủng lên trên nó. 
Viên thanh tra lại hỏi: 
- Ông chắc ông không biết tên học việc của mình ở đâu chứ?

Ông Thankless, mồ hôi tươm ướt trán, trả lời: 
- Không. 
Chiếc ủng giậm mạnh xuống và chiếc cốc vại vỡ vụn. Viên thanh tra tiến sát đến bên ông Thankless và gần như nhổ từng tiếng vào mặt ông: 
- Ông biết tội khai man thì sẽ bị xử thế nào rồi đấy. Ông sẽ cùng tên học việc lên giá treo cổ. 
Ông Thankless chỉ im lặng. 
- Cái gì đây? - Tên lính hỏi, đẩy chiếc bàn bếp sang một bên và đá tung những rổ rá đi, để lộ ra chiếc cửa sập. 
- Căn hầm nơi tôi cất các thứ vải vóc. - Ông thợ may nói. 
- Mở nó ra! - Viên thanh tra ra lệnh. 
Ông Thankless chậm chạp nhấc cánh cửa nặng trịch lên. Tên lính xô ông ra và trèo xuống bậc thang đầu tiên. 
Đột nhiên một tiếng kêu vang trên cửa hiệu và một tên lính khác nhảy vào bếp. 
- Nhanh lên! Có người đã thấy y trên phố Cầu, chạy về phía thành phố. 
Ngay lập tức tên lính kia trèo lên thang và xô ông thợ may sang một bên để chạy lên nhà trên, theo sau là viên thanh tra. Ông ta đóng sầm cánh cửa mạnh đến nỗi chiếc chuông rung mạnh và suýt rơi xuống. 
Thật là nhẹ cả người. Chúng tôi không dám mở miệng, cho đến khi những tiếng ồn ào ngoài phố đã lắng xuống. Ông Thankless, Nell và tôi đứng giữa căn bếp lộn tùng phèo, nhìn vào ô cửa sập cho đến khi Gabriel chui lên. Anh nhìn thấy căn bếp bị phá tan hoang và chiếc cốc vại vỡ nát.

- Cháu đã gây ra chuyện gì thế này? - Anh kêu lên. 
- Không có gì là không sửa chữa lại được. - Ông Thankless nói. - Nhưng không có ai trong thành phố đẹp đẽ này có thể chữa lại một người bị treo cổ. Nào, giờ hãy đưa cháu lên trốn ở gác xép. 
- Đúng là một lũ lợn. Chúng còn đáng tởm hơn cả phân lợn. - Nell nói. - Nhìn xem chúng đã làm gì này! - Chị bắt đầu nhặt các miếng bát đĩa vỡ lên. - Đem bùn đất từ ngoài phố vào, bôi bẩn khắp nơi. Còn tệ hơn cả mấy con cóc thối tha! 
- Suỵt, chị Nell! - Tôi nói, cố nhịn cười. 
- Tôi căm ghét chúng. - Chị ta nói. - Tôi ước gì nhà vua trở lại. Ai cũng được, còn hơn là lão Noll [17] và tay sai của lão. 
Cả ngày hôm đó chúng tôi bận rộn dọn dẹp, sợ lão thanh tra sẽ quay trở lại. Mãi đến tối, chuông cửa mới khẽ rung lên. Chị Danes, Hester cùng thuyền trưởng Bailey nhẹ nhàng lách vào cửa hiệu tối om để xuống bếp. 
- Anh Gabriel đâu rồi? - Hester vừa cởi áo choàng vừa hỏi. 
- Gabriel ổn. - Tôi nói. - Anh ấy đang trốn trên gác xép. Đi theo em. 
Tôi chỉ đưa cô lên đến chân cầu thang dẫn lên gác xép vì Gabriel đã nghe thấy tiếng Hester và lao bổ xuống. Cô chạy tới bên anh. Tôi nghĩ tốt hơn hết nên để họ lại với nhau còn mình thì quay trở lại bếp.

- Chuyện gì đã xảy ra thế này? - Chị Danes hỏi, quay sang nhìn Nell. Chị này đang cầm một chiếc xô trong tay, tóc xõa xượi xuống mặt. 
- Lão thanh tra và tên lính của lão, vậy đấy! - Nell đáp. 
- Chúng muốn kéo sập cả cái nhà này hay sao ấy. Đập phá tất cả những gì chúng vớ được. Cái lũ Đầu Tròn ấy thật là kinh tởm! 
- Ôi, tôi rất mừng được gặp ông, thuyền trưởng thân mến! - Ông thợ may nói. - Tôi cứ sợ hai gã kia sẽ quay trở lại. 
- Nếu vậy thì may mà chúng tôi đã không trở lại sớm hơn. - Thuyền trưởng Bailey đáp. 
Gabriel và Hester cùng bước vào phòng. 
- Tôi không sát hại ai cả, thưa ngài. - Gabriel nói. Mới chỉ trong vòng có một ngày mà dường như anh đã già đi cả chục tuổi vì lo lắng. 
- Và ta tin cậu, chàng trai ạ. - Thuyền trưởng Bailey đáp. - Chúng ta phải hành động ngay thôi. Lấy áo choàng và mũ của cậu đi. Ta sẽ lên đường sang Pháp ngay khi đợt thủy triệu tới rút xuống. Cậu thấy thế nào? 
- Tôi muốn đưa Hester theo cùng, thưa ngài. Gabriel đáp lại. 
- Không được, chàng trai ạ. - Viên thuyền trưởng cười hồn hậu. - Ta chỉ có thể cho cậu theo thôi. Một mình cậu.

- Nếu vậy thì tôi sẽ không đi nữa. - Gabriel nói. - Tôi không thể xa Hester. Cô ấy là cả cuộc đời tôi. 
Nụ cười biến khỏi khuôn mặt thuyền trưởng Bailey. 
- Cô thì sao, Hester? - Ông hỏi. 
- Tôi cũng không muốn phải rời xa Gabriel. Tôi yêu anh ấy bằng cả trái tim mình. 
- Ồ, hai người quấn nhau như đôi sam ấy! - Viên thuyền trưởng nói và nhìn ông thợ may. 
Nhưng chị Danes lại là người lên tếng. 
- Họ sẽ chỉ lùng kiếm một mình Gabriel mà thôi. Sẽ an toàn hơn nếu hai đứa cùng đi với nhau như một cặp vợ chồng. Vả lại, Hester cũng không thể xa Gabriel được. Con bé sẽ héo hon đi mà chết thôi. 
- Tôi cũng đồng tình với chị Danes. - Ông Thankless thêm vào. - Tốt hơn là Hester cũng rời khỏi đây, vì chắc hẳn lão thanh tra sẽ đưa cô ấy trở lại phố Thames nếu bắt được cô ấy. 
- Vậy thì không cần bàn bạc thêm nữa. - Ông thuyền trưởng quyết định. - Cả hai lại đây. Chúng ta sẽ cùng đi và tôi sẽ lo liệu cho hai người kết hôn. 
Tôi chưa bao giờ thấy Hester hạnh phúc đến vậy, và cũng chưa bao giờ thấy một chàng trai nào có vẻ sung sướng hơn Gabriel. Cho dù tương lai của họ có ra sao đi chăng nữa thì ít ra họ cũng có nhau.

- Cầm lấy. - Ông Thankless trao cho Gabriel một túi tiền. - Cái này sẽ giúp được các cháu. 
- Cháu không thể nhận tiền của ông được, ông chủ. - Gabriel nói. 
- Cháu có thể, và cháu sẽ nhận nó. Và ta muốn hai cháu hãy quay về nhà khi mọi việc đã được giải quyết ổn thỏa. Hiểu không? Giờ thì cháu đã là một người thợ thạo việc có thể đi làm tự do được rồi. 
Ông Thankless đi cùng họ với cây đèn trong tay để biết chắc rằng họ đến cuối cầu một cách an toàn vì một màn sương dày đã phủ xuống. Mọi người đều biết rằng sương là tấm màn che giấu tốt nhất cho cuộc chạy trốn này. Chúng tôi đứng nhìn theo và thở phào nhẹ nhõm khi ông Thankless trở về, báo rằng chiếc phà chở hai người giờ hẳn đã đi quá tháp London rồi. 
Chúng tôi không còn bị lão thanh tra hay tên lính nào tới thăm viếng nữa. Có rất nhiều người thề sống chết rằng họ đã nhìn thấy Gabriel, hoặc trong thành phố hoặc ở khu phố cổ. Một thông cáo đã được yết lên, nói rằng Gabriel Appleby, một thợ học việc ở phố Cầu, đang bị truy nã. 
Mọi chuyện không kết thúc ở đó. Ông Thankless nhất quyết muốn những lời buộc tội Gabriel phải bị hủy bỏ. Cả ông lẫn chị Danes phủ niềm hy vọng ấy cho cả cái cửa hàng trống trải.

Ngài cảnh sát trưởng đã cho gọi đến một người khám nghiệm tử thi, một bà tên là Parfitt. Tôi luôn thấy rằng đó là một nghề nghiệp khốn khổ, phải ở bên xác mà tìm hiểu xem người này người nọ đã chết như thế nào. Nhưng bà Parfitt có tiếng là rất giỏi trong lĩnh vực ấy, và những kết luận của bà rất được coi trọng. Bà nói rằng, bà không nghĩ Tarbett Purman đã bị đâm chết bằng dao, mà là nạn nhân của một tai nạn khủng khiếp nào đó. Kết quả là thi thể của ông ta vẫn chưa được đem đi chôn, và chị Danes cùng ông Thankless coi đó là một dấu hiệu tốt. 
Dịch bệnh đã thôi hoành hành ở thành phố. Những người đi sơ tán bắt đầu rục rịch từ nông thôn lên, hăm hở muốn nghe những chuyện ngồi lê đôi mách mới. Cái chết kỳ dị và bất ngờ của Tarbett Purman khiến nhiều người hết sức tò mò. Trong số đó có một thầy thuốc đã yêu cầu được xem tử thi, mặc dù tôi chắc rằng mùi của nó giờ không dễ chịu chút nào. Ông ta tuyên bố rằng những dấu vết trên người Tarbett Purman không phải là do bị đâm bằng dao găm hay đoản dao. Đó là những vết thương thuộc về thế giới loài vật hơn là vùng đất của con người. Ông ta còn nói thêm vẻ ám muội rằng theo ý kiến cá nhân ông, đó chính là việc làm của quỷ dữ và đây là bằng chứng cho việc quỷ dữ đang săn đuổi thế giới này, nếu như quả thực người ta cần có bằng chứng.

Con cá sấu không phải là quỷ dữ. Nhưng tôi có biết một con quỷ, và hắn có tên là Arise Fell. 

[17] Old Noll - là biệt danh những người thuộc phái Bảo hoàng đặt cho Oliver Cromwell