[Truyện ngắn] Ngôi nhà bên chân núi
Ngôi nhà nhỏ nằm ở chân núi Heizu là nhà của ông bà Hudson. Đó là ngôi nhà tường gạch lợp ngói duy nhất trong số những căn nhà gỗ mái tranh của làng. Trên bốn bức tường màu trắng có rất nhiều những dây leo có hoa màu tím li ti, trên mái ngói đen tuyền nhô lên một ống khói trắng, vẫn nhả khói đều đều mỗi khi mùa đông đến. Trước nhà có một cái cổng vòm bằng gỗ, nối liền với dãy hàng rào thưa. Gia đình Hudson dọn đến đã được năm năm, và họ vẫn luôn sống trong căn nhà xinh xắn đó.
Nhớ lúc họ mới đến, cả làng được dịp xôn xao một chặp. Bình minh hôm đó, mọi người thức giấc sớm hơn thường lệ vì một loạt những tiếng ồn ào rất lớn. Cửa sổ mở ra, những gương mặt đàn ông đàn bà còn ngái ngủ tò mò nhìn ra bên ngoài. Những người ở đối diện nhau hỏi thăm xem trận huyên náo đến từ đâu. Thì ra là, có một gia đình người ngoại quốc sắp chuyển đến sống cùng với họ trong làng, và tiếng ồn xuất phát từ những chiếc xe cơ giới to đang chở vật liệu xây nhà. Thảo nào mà mấy hôm trước, có vài người làm trong cơ quan nhà nước đi cùng hai người da trắng, đến quan sát khoảnh rừng cây sát rìa làng. Xem ra họ đã mua mảnh đất đó và đang chuẩn bị xây lên một ngôi nhà.
Điều khiến mọi người khó hiểu là vì sao lại có người muốn xây nhà ở chân núi, lại là nhà tường lợp ngói. Nó hoàn toàn không phù hợp với khí chất cổ kính của ngôi làng. Trong làng có rất nhiều những ngôi nhà còn trống sau khi người chủ cuối cùng qua đời hoặc con cháu họ rời đi đến khu thành thị sầm uất. Họ có thể mua một trong số những ngôi nhà cổ đó và dọn vào sinh sống, hoặc xây một ngôi nhà gỗ từ chính những cái cây mà họ đốn xuống. Vậy mà họ lại đi xây một ngôi nhà tường lợp ngói.
Đường vào làng phải đi qua một cây cầu dây văng nhỏ hẹp bằng ván mà tuổi thọ đã lên đến con số hàng chục. Nhân công phải chất từng nhúm vật liệu lên những chiếc xe rùa để đẩy vào trong làng. Mọi người nhìn nhau, tự hỏi ai lại làm chuyện phí sức như thế.
Trong suốt thời gian xây nhà, chẳng ai thấy bóng dáng của người chủ nhà, chỉ có người chủ thầu và những công nhân của mình miệt mài chuyển vật liệu và, từng chút một, dựng lên một ngôi nhà xinh xắn kiểu ngoại ô phương Tây. Ngôi nhà tường trắng mái đen đối chọi mạnh mẽ với rừng cây xanh ngát xung quanh, và dĩ nhiên, nó không giống chút nào với ngôi làng bên dưới.
Mà gia đình Hudson cũng không hoàn toàn thuộc về ngôi làng.
Ông Hudson là một người đàn ông cao, to, tóc màu vàng rơm, sống mũi cao và cặp mắt xanh biếc như nền trời. Còn vợ ông thì nhỏ nhắn, tóc nâu và mắt đen tuyền. Dù đã ngoài năm mươi, nhưng ông bà Hudson vẫn rất khỏe mạnh và minh mẫn. Họ đến mang theo một điều mới lạ cho ngôi làng đậm chất truyền thống, nơi được đưa tên vào danh sách những ngôi làng cổ được chính phủ bảo tồn. Và vì ngôi nhà tường lợp ngói của họ được ngăn cách với làng bằng một hàng cây rậm rạp, nên sự khác biệt hiện đại của nó không phá hỏng nét mộc mạc của những ngôi nhà còn lại.
Ông bà Hudson rất ít giao thiệp với người trong làng, chỉ sống lặng lẽ trong căn nhà nhỏ của họ. Hàng ngày người ta chỉ thấy bà Hudson xuống ngôi chợ trong làng một lần vào lúc sáng sớm, khi mà những người bán hàng còn chưa bày biện hết hàng hóa của mình. Bà nhanh chóng mua một ít thực phẩm, thêm một vài món nhu yếu phẩm khác rồi vội vã trở về. Bà không ghé đây đó xem hàng cũng không trò chuyện gì với ai ngoài những câu chào hỏi ngắn gọn. Ngay từ đầu đã thế, và sau năm năm sống ở đây, họ vẫn xa cách như vậy.
Sự tịch mịch của họ làm dấy lên rất nhiều những lời đồn thổi, mà lời đồn sau càng quái dị hơn lời đồn trước. Ngày đầu tiên chuyển về sống, họ đến trên một chiếc xe tải nhỏ, còn đẩy theo một chiếc xe đẩy có thùng gỗ to, nắp được đậy kín. Mọi người đứng dọc theo hai bên con đường chính của làng để chào đón họ, nhưng đổi lại họ chỉ cúi đầu và bước thật nhanh. Sáng hôm sau, vài người trong làng rủ nhau mang những món thổ sản địa phương đến gõ cửa nhà họ. Cánh cửa gỗ nhỏ hé ra một khoảng hẹp, gương mặt mệt mỏi của bà Hudson hiện ra. Bà chào hỏi mấy câu bằng thứ tiếng địa phương lơ lớ rồi lại đóng chặt cửa. Bà không mời họ vào nhà, cũng không nhận một giỏ quà nào.
Ban đầu, người ta cho rằng vì họ còn lạ lẫm với nơi ở mới và vì ngôn ngữ bất đồng nên mới thu mình như thế. Nhưng sau vài tháng, ông bà Hudson vẫn giữ khoảng cách với tất cả những người trong làng. Những lời bàn ra tán vào nổi lên xì xào giữa những người nhàn rỗi trong lúc nghỉ trưa trên đồng. Rằng thì là, hai ông bà đó quá khinh người, ỷ vào việc mình đến từ nơi hiện đại, đời sống xa hoa mà xem thường cuộc sống dân dã chốn làng quê. Cũng có người thân thiện hơn, cho rằng họ đơn giản là những người sống khép kín, hoặc đã chán ngán không khí ồn ào nơi phố thị, nên mới có việc chọn đến sống ở nơi chim chóc còn đông hơn con người này. Lại cũng có người, với trí tưởng tượng khá phong phú, khẳng định hai kẻ kia chính là những tên tội phạm đã phạm tội tày trời nào đó rồi lẩn trốn đến đây và không dám ra ngoài vì sợ bị nhận diện. Cả đám cũng không quên chú ý đến cái thùng gỗ được đậy kín mà họ mang theo, nay được giấu ở đâu không ai biết, và cái bí mật trong đó, dù là bí mật gì, cũng đã bị mang đi khuất tầm mắt họ.
Cuộc sống ở làng vẫn bình dị trôi qua mặc cho sự hiện diện của hai con người xa lạ. Đến một ngày nọ, chính xác là một đêm nọ, những người sống trong những ngôi nhà gần sát với hàng cây ngăn cách bị đánh thức đột ngột bởi một tiếng thét vang dội. Tiếng thét nghe như tiếng rít gào của một con thú bị thương, lẫn trong âm thanh khàn đục là sự đau đớn thấu tâm can. Chẳng mấy chốc, sự tĩnh lặng của màn đêm bị xé toạc khi tiếng thét vẫn kéo dài suốt vài phút, lúc này tất cả các căn nhà trong làng đều sáng đèn, mọi người đưa mắt nhìn nhau, hoang mang và lo lắng. Rồi tiếng thét bỗng nhiên ngưng bặt, đột ngột như khi nó bắt đầu, liền sau đó là những tiếng thình thịch nghe như tiếng người đang vật lộn. Vài thanh niên cậy vào sức khỏe và sự gan dạ, rủ nhau chạy đến gõ cửa căn nhà nhỏ, trong tay cầm theo đủ loại cuốc xẻng.
Họ nện nắm tay chắc nịch lên tấm ván cửa, dỏng tai lắng nghe tiếng động phía trong nhà. Tiếng ông Hudson thở dốc xen lẫn trong tiếng động rầm rầm của thứ gì đó nặng nề đang dộng xuống nền nhà. Bà Hudson thì đang khóc thút thít, bà vừa khóc vừa nói gì đó, nhưng tiếng nói của bà nghẹn ngào và lạc lõng. Ngay lúc cả bọn quyết định phá cửa xông vào thì cánh cửa “cạch” một tiếng, mở ra, gương mặt đầm đìa máu của ông Hudson xuất hiện. Ai nấy đều phải hít vào một hơi thật sâu, kinh hoảng, tự hỏi ai hay cái gì đã gây ra những vết thương khủng khiếp này. Những vết cắt dài trông như vết cào của móng vuốt gần như xé nát khuôn mặt ông, máu nhỏ thành dòng xuống cằm khi ông Hudson giương đôi mắt lo sợ và mệt mỏi nhìn đám người ở ngưỡng cửa.
“Ông Hudson, chuyện gì đã xảy ra?” Một người hỏi.
“Không có gì.” Ông Hudson lắc đầu, đưa tay chặn lại một người đang nhóng cổ nhìn vào trong. “Mọi người trở về đi.”
“Nhưng những vết thương này, và những tiếng động…”
“Tôi bị trượt chân mà thôi.”
Rồi không đợi bọn họ phản đối thêm lần nào nữa, cánh cửa một lần nữa đóng sầm vào mặt họ, sự yên lặng đến điếc tai một lần nữa được khôi phục. Đám thanh niên nhìn nhau, nhìn thấy sự nghi ngờ của bản thân phản chiếu trong ánh mắt của những người đi cùng.
Buổi sáng kế tiếp, cả làng nổ tung vì một thông tin vô cùng mới mẻ và giật gân. Ngôi nhà đó, ngôi nhà tường lợp ngói đó, bên trong đó ẩn chứa một bí mật khủng khiếp. Trong quán rượu duy nhất của làng, mọi người vây quanh những người đã tận mắt chứng kiến sự việc chấn động kia, nhao nhao chờ nghe chuyện lạ.
Cuối cùng, sự tò mò của người dân trong làng cũng đã được thỏa mãn khi họ được biết thứ gì được giấu bên trong chiếc thùng gỗ đậy kín nắp kia.
“Mãnh thú? Họ nuôi mãnh thú sao?” Một người trung niên hỏi dồn.
“Đúng vậy, tôi đã thấy những vết cào, gương mặt ông ta gần như tan nát.” Một thanh niên tóc xoăn mở to mắt, kích động nói.
“Và những tiếng động, tiếng thở dốc.” Một người khác tiếp lời.
“Và cái cách mà ông ta nói,” một người khác đứng lên khỏi ghế, nhại lại giọng nói của ông Hudson đêm trước. “Tôi chỉ bị trượt chân thôi.”
“Có quỷ mới tin. Ông ta trượt chân vào tấm ván đầy đinh nhọn sao?” Một người bĩu môi một cái, cả đám còn lại đồng loạt gật đầu.
Một cô gái có bím tóc thật dày ngồi ở quầy nốc ực một cốc rượu nóng, cô nói bằng cái giọng khó tin và khó chịu nhất:
“Thật kinh khủng! Sao họ có thể làm như thế? Nuôi một con mãnh thú trong nhà, trong suốt năm năm?”
“Đúng vậy, thật kinh khủng!”
“Một con mãnh thú cơ đấy.”
“Những năm năm.”
Những kẻ rỗi hơi lại nhao nhao bàn tán, với họ mà nói thì cái tin có người nuôi mãnh thú trong nhà, dù ngôi nhà đó không thuộc phạm vi của làng, và dù rằng năm năm nay họ chưa từng biết đến sự tồn tại của nó, cũng là một điều quá sốc và quá khủng khiếp. Con mãnh thú kia sẽ đe dọa đến tính mạng và sự bình yên của làng họ. Đó là điều mà không một ai có thể chấp nhận.
Những bô lão trong làng được mời đến, sự sáng suốt và thông tuệ của họ được trưng dụng trong việc đưa ra quyết định cho sự việc trọng đại này. Người trẻ nhất trong số những người đã đến ngôi nhà dưới chân núi vỗ bàn một cái, nói:
“Hãy bảo họ giết chết nó đi, nó là một hiểm họa cho làng ta.”
“Đúng vậy, nó không thể ở đây, nó quá nguy hiểm.” Những người đã tận mắt nhìn thấy những vết thương đẫm máu của ông Hudson đều ủng hộ ý kiến của anh. Đơn giản mà nói đó chính là một con quái vật, sự tồn tại của nó là một điều cấm kỵ.
Một người có mái tóc hoa râm, vừa vuốt chòm râu ngắn ngủn ở cằm vừa nói:
“Tốt nhất là hãy bảo họ dọn đi khỏi nơi này, ngay từ đầu họ vốn không nên có mặt ở đây.”
“Chúng ta không có quyền bảo họ rời khỏi đây.” Một trong số các bô lão nói bằng giọng già nua.
“Nhưng còn con mãnh thú đó? Rõ ràng họ đã không thể kềm chế được nó. Ai biết được lần tới nó sẽ tấn công ai.”
Những người có mặt lại một lần nữa nhất trí, họ đồng lòng, tất cả vì mục đích chung là sự bình yên của làng.
“Hay là chúng ta báo với cảnh sát và sở quản lý động vật hoang dã để họ đến mang nó đi.” Một người trẻ tuổi đánh bạo đưa ra ý kiến,và ngay lấp tức nhận được rất nhiều cái lắc đầu không đồng tình và những ánh mắt khó chịu.
“Phải giết nó.”
“Đuổi họ đi.”
“Họ quá nguy hiểm.”
“Họ và con thú của họ.”
Mãi cho đến khi vị bô lão lớn tuổi nhất lên tiếng thì âm thanh nghị luận ồn ào của mọi người mới lắng dịu:
“Chúng ta sẽ đến nói chuyện với họ, yêu cầu họ loại bỏ con thú đó.”
“Nếu họ không chịu thì sao?” Vẫn có người hoài nghi hiệu quả của phương pháp thỏa hiệp.
Vị bô lão đứng lên khỏi chiếc ghế của mình, vẻ mặt kiên quyết, nói: “Đến lúc đó chúng ta sẽ nhờ cảnh sát can thiệp.”
“Sao phải rắc rối như vậy? Cứ giết quách nó đi là xong.” Giọng một thanh niên cất lên, nghe đầy vẻ bất mãn.
“Im lặng!” Trưởng làng lên tiếng. “Các bô lão đã quyết định như vậy, chúng ta hãy làm theo. Bây giờ,” ông đưa mắt nhìn lướt qua những gương mặt bên dưới. “Ai sẽ đi đến đó nói chuyện với họ?”
“Anh hãy mang theo vài người trầm tĩnh, biết nói chuyện đến đó thuyết phục họ.” Các vị bô lão lên tiếng.
Trưởng làng chọn ra một số người đứng tuổi, được nhiều người kính trọng, cùng nhau đi đến ngôi nhà dưới chân núi.
Hôm sau, trời vừa tờ mờ sáng, khi phiên chợ sớm còn chưa bắt đầu và bà Hudson còn chưa ra khỏi cửa, ông trưởng làng và những người khác kéo nhau đến trước nhà của bà. Ông trưởng làng tiến đến gõ cửa, và sau tiếng gõ thứ mười, cánh cửa nhẹ mở ra. Như thường lệ, bà Hudson ra mở cửa với đôi mắt thâm quầng, hôm nay trên trán bà có thêm một tầng băng gạc, vẫn còn thấy rõ vài giọt máu li ti. Ông trưởng làng ái ngại nhìn bà, tự hỏi sao hai người họ phải làm thế này với bản thân.
“Chúng tôi muốn nói chuyện với ông bà.” Ông nhẹ nhàng nói.
Bà Hudson mệt mỏi thở dài. “Về chuyện gì?”
“Chúng tôi có thể vào nhà không?”
“Không được!” Bà Hudson đột nhiên la to, rồi lại tự bịt miệng mình, ánh mắt kinh hãi nhìn vào trong nhà.
“Thưa bà.” Giọng ông trưởng làng vẫn rất điềm đạm. “Tôi nghĩ chúng ta phải nói chuyện nghiêm túc với nhau. Về chuyện tối hôm qua.”
Bà Hudson vẫn giữ vẻ căng thẳng, thanh âm bà nhỏ hơn nhưng cũng gấp gáp hơn:
“Chẳng có chuyện gì cả, chúng ta không có gì để nói với nhau. Các vị mau về đi.”
“Không được!” Một người đi theo trong nhóm lên tiếng. “Nếu bà không cho chúng tôi vào thì hãy ra ngoài nói chuyện với chúng tôi.”
Một người khác lại hỏi:
“Chồng bà đâu? Hãy gọi ông ta ra đây nói chuyện.”
“Chồng tôi đã ngủ rồi.”
Ông trưởng làng nói:
“Vậy bà hãy ra đây nói chuyện với chúng tôi.”
Bà Hudson lại thở dài, đưa ánh mắt lo lắng nhìn vào phía trong nhà một lần nữa trước khi bước ra và khép lại cánh cửa sau lưng.
Trước khi ông trưởng làng hay bất kỳ ai kịp lên tiếng, bà đã nhanh chóng nói:
“Chẳng có chuyện gì xảy ra cả, các vị hãy mau về đi và đừng đến đây nữa.”
Nhìn vẻ mặt dân làng cũng có thể thấy họ không chấp nhận được câu trả lời của bà Hudson, một người nói:
“Rõ ràng có chuyện gì đó đang xảy ra trong ngôi nhà này. Đêm qua chúng tôi nghe những tiếng gào thét, và chồng bà thì bị những vết thương như vết cào đầy mặt.” Ông ta liếc mắt nhìn vết thương chỉ được xử lý qua loa trên trán bà Hudson. “Và cả bà nữa. Đừng nói là không có chuyện gì xảy ra, bởi vì chúng tôi sẽ không tin đâu.”
“Đúng vậy.” Một người khác tiếp lời. “Trong nhà ông bà có thứ gì đó rất nguy hiểm và chúng tôi yêu cầu được biết sự thật.”
Bà Hudson trợn trừng mắt nhìn đám người trước mặt, ánh mắt đầy sợ sệt, như thể bà bị bắt quả tang vừa làm điều gì đáng xấu hổ.
“Có phải ông bà đang nuôi một con mãnh thú hay không?” Ông trưởng làng hỏi.
“Không phải.” Bà Hudson lắc đầu nguầy nguậy.
Một người lớn tiếng hỏi:
“Vậy cái gì đã gây ra những vết thương cho chồng bà?”
“Ông ấy… bị… bị trượt chân.” Người phụ nữ đáng thương lắp bắp trả lời.
Sau lưng ông trưởng làng, một người đàn ông mái tóc xơ cứng cười lạnh một tiếng, đôi chân mày rậm rì của ông nhíu lại nhìn bà Hudson. Ông nói:
“Nực cười! Bà tưởng chúng tôi là lũ ngốc sao? Rõ ràng những vết thương đó là do móng vuốt động vật gây ra.”
Những người khác gật đầu đồng tình. Chỉ liếc mắt thôi cũng có thể thấy ông Hudson đã bị một con thú dữ tấn công một cách tàn bạo. Một người tóc xám trắng nói:
“Con quái vật đó đã khiến ông bà bị thương như vậy mà ông bà còn bao che cho nó?”
“Nó không phải là quái vật!” Bà Hudson kích động hét lên.
“Thấy không?” Người đàn ông tóc xám nói tiếp, xoay lại nhìn những người khác với vẻ mặt tôi-đã-nói-mà: “Trong nhà họ đúng là có nuôi thứ gì đó. Và dù nó là thứ gì thì nó cũng không nên có mặt ở đây. Nó sẽ mang đến nguy hiểm cho làng chúng ta.”
Cả bọn nhao nhao đồng ý, ánh mắt chán ghét nhìn người phụ nữ nhỏ bé trước mặt.
Sau một lúc giằng co, ông trưởng làng lên tiếng, tuy lời nói vẫn hòa nhã như trước nhưng giọng ông đã trở nên cứng rắn:
“Thưa bà, chúng tôi có lý do để tin rằng thứ bên trong nhà ông bà là một mối đe dọa với chúng tôi, và rõ ràng nó cũng là hiểm họa cho ông bà. Vì vậy tôi đề nghị bà hãy nói rõ để hai bên có thể thương lượng cách giải quyết.”
Hai hàng chân mày thanh tú của bà Hudson cau lại, vẻ mặt bà vô cùng khổ sở. Bà vặn vẹo hai bàn tay vào nhau, giọng khẩn thiết nói với dân làng:
“Xin mọi người, chúng tôi có thể giải quyết được việc này. Đêm qua… Đêm qua chỉ là một sự cố nhỏ mà thôi.”
Một ông cười khẩy, vẻ mặt nhìn bà rất không tín nhiệm:
“Có thể thấy đêm qua ông bà đã không kiểm soát được nó. Ai biết được lúc nào nó sẽ xổng ra và chạy xuống làng. Đề nghị ông bà hãy giải quyết nó đi.”
“Giết nó đi! Giết nó đi!” Những người có mặt đồng thanh hô lên.
Bà Hudson cuống quýt xua tay, bảo mọi người hãy bình tĩnh. Ngay lúc đó, một tiếng động thật lớn phát ra từ ngôi nhà sau lưng bà. Mặt bà Hudson tím tái đi vì lo sợ, mà những người khác cũng nhìn nhau đầy căng thẳng.
“Nó lại sắp xổng ra rồi.” Một người trong đám la to. Một tiếng rống khác vang lên, lần này là giọng của ông Hudson, nghe như ông đang bị đau đớn kinh khủng.
“Ôi không!” Bà Hudson bật khóc nức nở.
“Cho chúng tôi vào.” Ai đó nói to.
Bà Hudson lắc đầu liên tục, trông bà đang cực kỳ khốn khổ và khiếp sợ.
“Nó đang tấn công ông ấy.” Ông trưởng làng nói. “Hãy để chúng tôi vào giúp.”
Nhưng bà Hudson vẫn từ chối mở cửa, bà tựa người sát vào cánh cửa, kiên quyết không cho ai đi qua.
“Nó đã được nhốt lại rồi.” Bà nói, nước mắt lăn tròn trên đôi má nhợt nhạt. “Nó sẽ không tấn công ai cả. Tôi xin các người hãy trở về đi.”
“Không được.” Những người khác hét lên. “Hôm nay chúng tôi phải làm rõ xem nó là cái gì. Nếu bà không mở cửa, chúng tôi buộc phải gọi cho cảnh sát.”
Bà Hudson gần như đổ gục xuống bậc cửa mà cầu xin dân làng. “Các người đừng nói lớn tiếng, đừng kích thích nó thêm nữa.”
Trong lúc mọi người còn đang lúng túng thì người đàn ông tóc xám đi đến, ông ta nắm lấy cánh tay bà Hudson, kéo mạnh bà ra khỏi chỗ bà đang gục xuống. Trước sự bàng hoàng của bà Hudson và sự bất ngờ không kịp phản ứng của những người khác, ông ta xoay nắm đấm, giật cánh cửa mở ra rồi lao vào hành làng. Cả đám dân làng nhìn nhau, rồi họ quyết định theo ông ta đi vào bên trong ngôi nhà mà họ vẫn luôn muốn đặt chân vào, mặc cho sự van xin của bà chủ nhà.
Khi đã vào đến trong nhà, người tóc xám xoay ngang xoay dọc, cố tìm nơi phát ra cái âm thanh gầm gừ đáng sợ kia. Ông ta chạy dọc theo hành làng, chạy qua nhiều cánh cửa và nhiều căn phòng, cuối cùng dừng lại trước một cánh cửa sắt đang hé mở. Phía bên kia cánh cửa, tiếng rít gào như của một con thú bị thương chốc chốc lại phát ra. Đang lúc ông ta nhón chân định nhòm qua khe cửa thì cánh cửa mở ra, ông Hudson đầu bù tóc rối đi ra. Cả gương mặt ông gần như bị bịt kín trong lớp băng gạc trắng. Ông Hudson trợn mắt nhìn người đang đứng trước mặt, rồi ông đột nhiên xông tới tóm lấy cổ áo người kia, ghé đến rít vào mặt ông ta:
“Tại sao ông lại ở đây?” Ai cho phép ông vào đây? Đi ra ngoài!”
Bên trong căn phòng sau lưng ông, tiếng dây xích sắt vang lên loẻn xoẻn, xen lẫn tiếng thở nặng nhọc và tiếng gầm nho nhỏ.
Với hình thể to khỏe, người nọ dễ dàng gỡ nắm tay ông Hudson ra và đẩy ông sang một bên. Cũng không nói tiếng nào, ông ta nhìn vào bên trong căn phòng, muốn xem đến tột cùng thì nó cất giấu bí mật gì. Cái bí mật bên trong căn phòng giương mắt nhìn lại ông.
…
Những người khác theo vào sau, còn đang đứng lóng ngóng ở hành lang không biết nên làm gì thì nghe một tiếng thét chói tai. Tất cả đều cảm thấy tứ chi rụng rời, là tiếng thét của người vào trước họ. Sau tiếng thét là một loạt tiếng bước chân hỗn loạn gõ trên nền gỗ. Người nọ xuất hiện sau một góc hành làng, hai mắt trợn trừng, mặt cắt không còn giọt máu. Ông ta lao ra với tốc độ điện xẹt, không dừng lại để gặp những người kia mà phóng thẳng ra khỏi cánh cửa trước đang mở rộng. Mọi người nghe thấy, trong cơn hoảng loạn, ông ta vừa chạy vừa gào: “Quái… Quái... Quái thú!”
Ông trưởng làng và các bô lão đang có mặt trong nhà người đàn ông nọ, những người khác thì tụ tập bên ngoài, dỏng tai lên nghe ngóng.
Sau khi ra khỏi nhà Hudson, ông ta chạy như bay về nhà, mở tung cửa phòng ngủ và lao lên giường. Khi mọi người đến, ông ta vẫn còn quấn chăn và run lập cập.
“Mắt đỏ ngầu, toàn thân đầy lông, và móng vuốt, những móng vuốt dài nhễu đầy máu tươi.”
Mọi người trấn an ông ta, một lúc lâu sau ông ta mới thôi nhìn trừng trừng bức tường đối diện mà cất giọng thì thào:
“Nó là một con quái thú. Một thứ nửa người nửa thú dữ.”
“Anh chắc mình nhìn thấy đúng chứ?” Ông trưởng làng hỏi.
Ông ta gật đầu:
“Tôi đã thấy nó. Họ xích nó bằng những sợi dây xích thật to ở hai tay và hai chân.”
Những người khác trong phòng trao đổi những tia nhìn kinh sợ.
“Vì sao họ lại nuôi một thứ đáng sợ như thế trong nhà?” Một bô lão thắc mắc.
Một người khác lại cảm thấy khó hiểu:
“Tại sao suốt năm năm nay chúng ta không nghe một tiếng động nào?”
“Đó không phải là vấn đề đáng quan tâm.” Bô lão lớn tuổi nhất nói. “Điều chúng ta cần làm bây giờ là báo cảnh sát để họ đến và đưa con vật đó ra khỏi đây.”
Hội bô lão nhất trí với nhau là họ cần đến sự can thiệp của cảnh sát, và một thanh niên trong đám người nhiều chuyện bên ngoài được cử đi thông báo.
…
Đối với dân làng Kanwa mà nói, đêm đó là một đêm dài nhất và căng thẳng nhất. Trong đình giữa làng, các vị bô lão ngồi trong những chiếc ghế dựa, vẻ mặt trầm ngâm. Phụ nữ và trẻ em được bảo ở lại trong nhà, khóa chặt cửa chính và cửa sổ. Những người đàn ông và thanh niên thì đứng đầy xung quanh đình, trong tay cầm gậy gộc, cuốc, xẻng, hồi hộp chờ đợi. Những ngọn đuốc lớn được thắp lên, đêm nay cả làng không ngủ. Ai cũng mở trừng mắt nhìn về phía trước, không khí xung quanh đặc quánh một nỗi lo âu gần như sờ thấy được. Tưởng chừng như chỉ một tiếng động nhỏ cũng sẽ chọc thủng cái không gian bị ép chặt này và khiến cơn ác mộng tràn vào.
Chính lúc thần kinh mọi người căng như dây đàn, họ nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhưng gấp gáp vọng lại từ phía chân núi. Lát sau, dáng người nhỏ nhắn của bà Hudson hiện ra trong vùng chiếu sáng của những ngọn đuốc. Chỉ nhìn lướt qua cũng có thể thấy người phụ nữ mỏng manh này đã phải trải qua nhiều đau đớn cả về thể xác và tâm hồn. Hai mắt bà thâm đen, môi nhợt nhạt, và cổ tay mảnh khảnh của bà trông lại càng gầy yếu hơn bao giờ hết.
Bà Hudson dừng lại trước bậc tam cấp bước vào đình, và trước sự ngỡ ngàng của mọi người, hai chân bà khụy xuống nền đất cứng. Bà quỳ ở đó, những giọt nước mắt tròn trĩnh cứ lặng lẽ lăn ra từ hai hốc mắt đỏ hoe. Ông trưởng làng bước đến định nâng bà dậy, nhưng bà lắc đầu. Bà đưa mắt nhìn những bô lão ngồi khuất dưới mái hiên đình, giọng nghẹn ngào nói với họ:
“Xin… Xin các vị hãy dừng lại. Xin đừng làm điều này. Xin hãy tha cho nó.”
Vị bô lão ngồi ở giữa đứng dậy khỏi ghế, chống cây gậy gỗ bước xuống bậc thang đến trước mặt bà Hudson. Ông cất giọng khàn khàn:
“Hãy cho chúng tôi một lý do để tha cho nó.”
Bà Hudson ngẩng phắt dậy, hai mắt bà mở lớn nhìn người trước mặt. Sau vài phút im lặng nhìn nhau, bà Hudson quẹt nước mắt trên má, nói với vị bô lão:
“Chúng tôi sẽ mang nó rời khỏi đây, và sẽ không bao giờ quay lại.”
Vị bô lão lắc đầu, thở ra một hơi già nua và mệt mỏi. Ông nói với người phụ nữ đang quỳ trước mặt mình:
“Đó không phải là cách giải quyết tốt nhất. Nghĩ mà xem, nếu bà mang nó đến một nơi khác chẳng khác nào mang cái mầm tai họa này đi gieo cho những người khác. Chỉ là đối tượng khác nhau mà thôi, kết quả vẫn chỉ có một.”
Đôi vai yếu ớt của bà Hudson rũ xuống, và bà khóc nấc lên, tiếng khóc đau đớn và da diết xoáy vào tai những người đang có mặt, khiến họ cảm thấy thật xót xa.
Lúc này, một vị bô lão khác đứng dậy, đi đến mép bậc thang, nhìn bà Hudson với ánh mắt hiếu kỳ.
“Rốt cuộc thì nó là cái gì?” Ông hỏi.
Ngay lúc đó, tất cả nghe thấy tiếng còi xe cảnh sát vọng lại từ xa. Bà Hudson ngước lên nhìn về nơi đầu làng, vẻ mặt ngỡ ngàng. Những người đứng xung quanh cũng kích động, vài người không giấu được tiếng thở dài nhẹ nhõm. Bà Hudson nhào đến bên chân vị bô lão, túm lấy áo ông mà khẩn xin:
“Xin đừng làm như vậy. Xin đừng để họ bắt nó đi. Đừng để họ bắt con tôi.”
Lời của bà vừa dứt, xung quanh bỗng lặng ngắt như tờ, không một ai lên tiếng, cũng không có người nào dám hít thở, chỉ có tiếng gió thổi qua tán cây xào xạc và tiếng còi hụ xa xa. Những người có mặt cùng trải qua một loạt những cảm xúc cực kỳ khó chịu. Họ kinh ngạc khi biết kẻ đáng sợ mà ông bà Hudson một mực che giấu lại chính là con của họ, đồng thời họ cảm thấy thương tiếc thay cho ông bà và cũng không khỏi hoang mang vì thông tin như sét đánh này.
Mọi người lặng lẽ nhìn nhau, không ai biết phải làm sao hay phải nói gì trong tình cảnh này. Tin tức về con quái thú vẫn còn mới nguyên trong đầu họ, và bỗng nhiên họ hiểu được. Vì sao ông bà Hudson phải từ bỏ cõi phồn hoa về sống ẩn dật ở chốn này. Vì sao họ không giao thiệp với ai và cũng không mời người nào vào nhà làm khách trong suốt năm năm. Lý do hai vợ chồng họ luôn xuất hiện với vẻ mệt mỏi và e dè.
Bà Hudson vẫn van nài trong lúc mọi người bận tiêu hóa cái tin tức khủng khiếp vừa được ném tới. Từ phía đầu làng vọng lại tiếng bước chân của nhiều người, ánh đèn pin lấp lóa trên con đường gồ ghề. Chẳng bao lâu sau, một thanh niên của làng chạy đến trước đình, theo sau là hai nhân viên cảnh sát mặc đồng phục. Phía sau họ còn có hai người đàn ông cầm thứ dụng cụ như cần câu cá, nhìn qua trang phục có vẻ là nhân viên trạm kiểm soát động vật. Và vật mà họ mang theo trông giống như dụng cụ chích điện mà những người huấn luyện thú thường dùng trong các chương trình tạp kỹ trên TV.
Vừa nhìn thấy những người mới đến bà Hudson liền lao đến, túm lấy một viên cảnh sát. Những lời cầu xin của bà là những lời lẽ đáng thương nhất, làm xao động ngay cả tâm hồn cứng cỏi nhất. Tưởng chừng như, nếu có thể thì máu cũng sẽ chảy ra nơi khóe mắt bà. Vị cảnh sát trông bối rối thấy rõ trước cơn xúc động của bà, nhưng những tiếng an ủi của anh cũng chỉ là những âm thanh sáo rỗng trước sự thương tâm đến cực độ của người mẹ.
Ngay cái lúc mà mọi thứ đang rối bời thì một tiếng rống điếc tai vang lên, cắt ngang mọi cảm xúc hỗn độn đang nảy sinh trong lòng mọi người. Tất cả cùng xoay nhìn về phía chân núi, nơi ngôi nhà tường trắng đang sáng đèn. Ngay lập tức mọi người lại bị đẩy vào trạng thái căng thẳng tột độ, mọi giác quan đều căng lên đầy cảnh giác. Khi mọi người đang nín thở chờ đợi thì từ phía ngôi nhà của ông bà Hudson lại vang lên những tiếng động rầm rầm, tiếng bước chân thình thịch và tiếng ông Hudson đang gào to. Mọi người đồng loạt giơ lên vũ khí trong tay, hai viên cảnh sát cũng rút súng ra, và dụng cụ trong tay hai nhân viên nọ cũng trong trạng thái sẵn sàng.
Tiếng bước chân ngày càng lớn hơn, đang hướng về nơi mọi người tụ tập. Chỉ giây lát sau, một bóng người cao, to, thô kệch xuất hiện thấp thoáng khi ánh trăng rọi qua kẻ hở những tán cây. Kẻ lạ mặt mang đến một cảm giác hoang dã và cực kỳ nguy hiểm, khiến ai nấy đều bất giác rùng mình. Thời gian như ngừng lại khi kẻ kia chạy ra khỏi tầm che phủ của những cành cây và xuất hiện trong vùng được soi sáng bằng những ngọn đuốc trong tay dân làng.
Người dân làng Kanwa nhìn thấy đó là một kẻ khắp người đầy lông đen thô cứng, đôi tay gân guốc với những móng tay dài, cong như móng dã thú, tóc đen rối nùi và đôi mắt đầy những đường gân máu. Con quái vật nửa người nửa thú nhìn chằm chằm những người trước mắt, khóe miệng cong lên để lộ ra hàm răng ố vàng.
Một khắc im lặng trôi qua rồi không gian nổ tung vì những tiếng la hét. Những người phụ nữ và những đứa trẻ đã lén hé cửa sổ nhìn ra ngoài, lúc này đang thét đến khản giọng vì kinh sợ. Tiếng động này thu hút sự chú ý của con quái vật, nó nghiêng đầu nhìn vào một ô cửa sổ. Từ sau lưng nó, ông Hudson vừa trờ tới, một bên tay của ông bị thương, máu đang chảy thành dòng xuống cánh tay.
Trong một tích tắc con quái vật bị phân tâm, hai nhân viên kiểm soát động vật vung lên dụng cụ trong tay, hướng về thân người nó. Bà Hudson hét lên một tiếng kinh thiên động địa và con quái nhảy phắt sang một bên. Dụng cụ trong tay hai người nọ đâm hụt vào khoảng không khiến họ bị lảo đảo và nhanh như cắt, con quái vật nhảy chồm lên vồ lấy một người. Cả thân hình đồ sộ của nó rơi xuống đầu người nọ, đè anh ta nằm lăn ra đất, chỉ có thể giãy giũa chứ không gượng dậy được. Hai viên cảnh sát cùng móc súng ra hướng về phía con quái vật, nhưng một người đã bị bà Hudson chụp lại cánh tay. Tiếng động ồn ào khiến con quái vật ngẩng đầu lên, trong đôi mắt đỏ ngầu của nó ánh lên sát khí nồng đượm.
Bà Hudson lao đến phía trước, hai chân bà cuốn vào nhau, vấp váp. Bà đứng chắn trước đứa con của mình, vẻ mặt khủng hoảng nhìn mọi người. Lúc này ông Hudson cũng ôm cánh tay chảy máu ròng ròng lao đến bên cạnh vợ mình.
Người nhân viên còn lại gượng lại được sau cú đâm hụt, anh xoay người và đâm dụng cụ chích điện trong tay vào lưng con quái vật trong nỗ lực giải cứu đồng nghiệp của mình. Con quái vật rống lên một tiếng thảm thiết và toàn thân co giật. Ông bà Hudson cũng bật khóc nức nở cùng đứa con mình, trông họ chênh vênh như những người chỉ còn bám víu ở bờ vực sự sống bằng một hơi thở.
Sau cú giật điện cực mạnh có thể làm bất tỉnh một con gấu, con quái vật kia vặn vẹo cả người, phát ra tiếng ư ử như tiếng rên của một con cún con. Nó bò xuống khỏi người nhân viên kia và bỏ chạy, bước chân lảo đảo. Những dân làng ban đầu còn vây quanh người nhà Hudson lúc này lập tức tản ra nhường đường cho con quái vật. Khi nó chạy được một quãng ngắn hướng về phía đầu làng, một viên cảnh sát nâng cao họng súng và bóp cò.
Hai tiếng súng điếc tai vang lên và thân hình đồ sộ phía trước đổ gục xuống.
Bà Hudson nấc lên một tiếng và ngất lịm.
…
…
…
Đã một tháng trôi qua kể từ cái đêm kinh hoàng ấy, người dân làng Kanwa đã khôi phục lại nhịp sống thường ngày. Ánh mặt trời vẫn chiếu lấp lánh trên mặt nước con suối dưới cây cầu văng, gió vẫn luồn qua những tán lá cây và chim vẫn hót ríu rít trên những mái nhà cao.
Sáng nay trong quán rượu của làng, những người già tụ tập với nhau cùng uống chén rượu nóng để làm ấm người. Những câu chuyện vãn vô thưởng vô phạt trôi qua nhẹ nhàng, từ chuyện hôm qua con dâu nhà này mới sinh con gái đến chuyện ông cụ nhà nọ vừa mừng thọ tám mươi tuổi. Cuộc sống vẫn vậy, bình dị và êm đềm.
Không một ai nhắc tới biến cố xảy ra vào đêm hôm đó, nhưng trong lòng họ mãi mãi không bao giờ quên.
Bảy ngày sau khi nổ súng, hai viên cảnh sát lại đến, mang theo một tập hồ sơ mỏng. Trưởng làng mời họ vào nhà, rót cho họ hai tách trà nóng và cho mời các bô lão đến. Mọi người yên lặng lắng nghe câu chuyện hai vị cảnh sát thuật lại.
Ông bà Hudson vốn là những thương nhân giàu có ở một thành phố lớn, gia tài của họ nhiều đến mức không mơ thấy nổi. Mỗi người làm chủ nhiều công ty và bất động sản của họ trải dài khắp các miền đất nước. Hai người cưới nhau khi đã qua tuổi ba mươi và đang ở đỉnh cao sự nghiệp. Sau nhiều năm chờ đợi, cuối cùng bà Hudson cũng hạ sinh một đứa bé trai, đặt tên là Hans. Hans không giống như những đứa trẻ khác, khi bé ra đời trên người đã phủ một lớp lông đen cứng như lông thú, bé không thể nói và hình thể to bất thường. Chạy chữa không biết bao nhiêu bác sĩ danh tiếng, ông bà Hudson gần như táng gia bại sản nhưng vẫn không thể trả lại hình hài một con người hoàn chỉnh cho con mình. Càng lớn Hans càng trở nên hoang dã, có những lúc cậu bé không khác gì một con dã thú. Họ phải giữ cậu trong nhà và thường xuyên cho cậu dùng thuốc an thần, bà Hudson nghỉ việc để có thể kề cận chăm sóc cho con. Có một ngày, người giúp việc đến khi bà Hudson vừa đến tiệm thuốc ở đầu phố. Những tiếng động ồn ào đã kích thích Hans và cậu bé đã tấn công người giúp việc nọ. Sự việc đó được xem xét như một tai nạn không mong muốn, và Hans bị buộc đưa vào bệnh viện tâm thần chuyên biệt.
Chuyện sau đó ai cũng ngầm hiểu, bởi vì không một cha mẹ nào có thể rời xa con mình, dù cho nó có mang hình hài quỷ dữ. Họ bán hết cổ phần và bất động sản, tìm đến một đất nước xa xôi, xây một căn nhà ở một ngôi làng hẻo lánh. Họ đã giữ cho cậu bé bình yên và ngoan ngoãn suốt năm năm, cho đến một đêm, một con mèo đã lẻn vào phòng khi ông Hudson mang cơm tối đến cho con trai mình. Chú mèo nhỏ khiếp sợ trước quái vật to lớn và những tiếng kêu của nó đã kích thích cơn cuồng loạn trong người Hans. Ông bà Hudson bị thương khi cố ngăn cản cậu chạy ra khỏi nhà. Cái đêm mà cảnh sát và nhân viên kiểm soát động vật được mời đến, có lẽ Hans cũng cảm nhận được nguy hiểm đang đến gần nên đã bứt xích tháo chạy ra ngoài.
Hans chết khi chưa tròn mười sáu tuổi.
Sau khi an bài nghi thức hỏa táng cho con mình, ông bà Hudson cũng rời khỏi làng Kanwa. Không ai biết họ đi đâu, không biết bây giờ họ ở nơi nao và đang sống thế nào.
Căn nhà dưới chân núi vẫn nằm im lìm giữa rừng cây xanh ngát, nhưng những bông hoa tím đã phai màu, ống khói trắng không còn nhả khói và cánh cửa chính cũng không bao giờ được mở ra lần nữa.
Hết