Săn đuổi - Chương 06 - Phần 1

CHƯƠNG 6

Morton lái xe ra khỏi Tel Aviv. Trước
khi đi, ông đã báo động cho các trạm mật vụ Mossad biết rằng Raza đang sẵn sàng
tấn công. Ông đã gởi bản sao đến cho cơ quan an ninh nội địa Israel và đến các
chỉ huy trưởng các đơn vị biên phòng. Ông đã chuẩn bị cho cả nước chu đáo hết
sức mình.

Vì ở xa Danny, cho nên ông không nói cho
ai biết về cái chết của người Xi Ri. Ông không gởi cho Bitburg bản báo cáo nào
hết. Ra ngoài ranh giới thành phố là đường chạy thẳng đến nơi cắm trại đầu tiên
của người Bedouin. Những tấm lều đen, những khuôn mặt đen cứng cỏi, giọng nói
của họ mất hút vào trong tiếng ồn ào của xe cộ.

Vào giờ phút này, con đường chạy đến
Jerusalem giống như con đường đua xe: xe quân đội, xe chở hàng, xe taxi, xe mộtô.
Không đầy một giờ nữa thôi, trời sẽ tối và những tay Ả Rập bắn tỉa sẽ từ trong
những ngọn đồi xuất hiện, chọn những đối tượng để bắn. Mỗi người chết, là hận
thù càng chồng chết thêm.

Đằng trước, một đoàn lừa chậm chạp băng
qua xa lộ, những người chăn lừa bất cần tiếng còi xe đang inh ỏi vang lên.
Đoàn lừa sẽ đến nghỉ đêm trong trại đóng nơi trạm cảnh sát đã bị đánh sập, trạm
này đã có từ bốn mươi năm cho đến khi một đơn vị cảm tử của Raza xuất hiện từ
bờ biển đã đánh phá. Morton trước đó đã cảnh cáo sự việc sẽ xảy ra. Bitburg gởi
một tờ phúc đáp cho biết ông đã cho canh phòng theo lời cảnh cáo. Bản phúc đáp
đến sau khi cuộc tấn công đã xảy ra.

Vì thế cho nên ông đã không nói cho Bitburg biết về
chuyến hành quân ở La Mã. Thế nào rồi Bitburg cũng viết báo cáo để kiện ông, ông
ấy sẵn sàng kiện ông nếu việc không trồi chảy. Và một việc trừ khử kẻ thù có
thể không được trồi chảy lắm chứ, nhất là việc vạch kế hoạch để giết Mahamoud
Al Najaf.

Michelle vừa mới gọi ông xin phép cho nàng được hoãn lại
hai ngày nữa. Ông bằng lòng ngay. Công việc thanh toán kẻ thù không thể ấn định
giờ giấc chính xác được. Địa điểm rõ ràng và giờ ra tay cần phải mềm dẻo. Đối
với Wolfie và Michelle thì để cho họ hai ngày nữa tốt hơn là đến sớm.

Khi đến trại định cư đầu tiên của người Ả Rập ở bờ Tấy,
Morton giảm bớt tốc độ. Một hàng rào chắn ngang giữa đường, một tiểu đội lính
trong lực lượng phòng vệ, hai chiếc xe jeep và một chiếc xe chỉ huy đậu trong
một khúc quẹo để yểm trợ.

Ông trình thẻ chứng minh cho họ xem, họ để cho ông qua.
Ông từ từ lái một đoạn ngắn, tránh những ổ gà trên mặt đường, cố tránh những
viên đá nằm rải rác khỏi chạm vào bánh xe. Những tên phá hoại đã phá đoạn đường
này. Ông giả vờ không trông thấy những bô mặt gớm ghiếc thù hằn.

Al Najaf đã đến từ một ngôi làng như thế này đấy. Tại một
nơi như thế này, hắn đã học được bài học vỡ lòng về nghệ thuật bạo tàn, và hắn
đã giúp cho người ta viết lên được một chương trình nghị sự về thuật khủng bố
hiện đại. Trên bất kỳ danh sách những tên đáng được trừ khử nào, cũng đều có
tên hắn và Raza cả. Bấy giờ thì ông cảm thấy nhẹ nhõm trong người khi biết được
Al Najaf đang có mặt tại một nơi khá lâu để phanh phui săn lùng. Dùng luật trời
là tuyệt nhất. Những tác phẩm của Steve viết đã dạy cho Morton điều đó.

Gió chiều nóng bức thổi phần phật vào cánh tay áo của ông
và luồn vào cái gói hàng để bên chỗ ngồi cạnh ông. Mấy tháng trước đấy, ông đã
mua bộ sách đóng gáy da viết về lịch sử của Triều đại thứ nhất của Ai Cập, để
làm quà sinh nhật nhằm lễ thất tuần của Steve. Bộ sách này thêm vào cho vừa đủ
tủ sách lịch sử thế giới cổ đại của ông cụ.

Những bộ sách này, và phương pháp làm sống lại lịch sử
của Steve, đã khiến cho Morton say mê môn khảo cổ học và say mê môn tôn giáo để
đối chiếu, vì thế mà những giáo sư của ông tại trường Cambridge đã yêu cầu ông
đi vào con đường nghiên cứu của trường đại học.

Một chiếc taxi chở khách rồ máy qua mặt ông. Morton giữ
cho xe chạy năm mươi dặm một giờ. Xăng nhớt quý hơn vàng, cho nên ông đã có
thời gian tiết kiệm chúng.

Phía trước mặt ông, một đoàn xe quân sự rẽ vào dãy đồi Du
Đà. Ông biết nơi đến của đoàn xe. - đấy là căn cứ mà ông đã dùng trực thăng để
đi Li Băng nhiều lần vào năm ngoái.

Hai bên đường đã xuất hiện cảnh hoang vu thuộc địa phận
của Du Đà. Khi còn đi học, ông đã nghe giảng rằng Đức Chúa Jesus thường ra đấy
để trầm tư. Ông thừa hiểu lý do của Ngài, vì nơi đấy chẳng có gì để làm cho
người ta phải phân tâm hết.

Ông tự hỏi không biết Raza sẽ chờ đợi bao lâu mới ra tay?
Khi lần đầu tiên hắn có chất nổ Semtex trong tay, hắn không để lâu quá một tuần
mới gấy nên bao cảnh tội ác. Ông chắc chắn là hắn đang hết sức nôn nóng vì nỗi
thất bại nhục nhã vừa rồi của hắn đã khá lâu rồi.

Một ngôi làng Ả Rập khác xuất hiện. Lại những ngôi nhà
tường sơn trắng và những khuôn mặt thiếu thiện cảm đang nhìn. Bên kia ngôi làng,
nắng chiều đang tắt dần. Morton bật đèn lên.

Ánh đèn bắt đầu sáng trong những ngọn đồi, đèn trong lều
của dân chăn cừu Bedouin. Mặt trăng tròn đang vươn lên để gặp những vì sao.
Ruth đã thường nói rằng những giờ phút đầu tiên của đêm, dường như thời gian
ngừng trôi.

Lên đến đỉnh một con dốc, Morton lái xe ra khỏi đường
chính. Không biết bao nhiêu lâu rồi, đứng nơi đấy nhìn xuống thành phố
Jerusalem, ông vẫn thấy nó không giống bất kỳ một thành phố nào khác cả. Không
có nơi nào trên thế giới mà so được với cảnh những đụn đá, những tháp xoắn ốc
và những tháp lớn nổi lờ mờ trong bầu trời đêm. Một lần nữa ông cảm thấy mộ đạo
và thành phố Jerusalem là một nơi độc đáo: một nơi phi thời gian, nơi cùng tồn
tại của Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Thế nhưng cũng là nơi người ta xâu xé nhau
quyết liệt hơn bất cứ nơi nào.

Bên phía trái ông, nằm nép dưới chân đồi khuất gió, những
ngọn đèn dầu đỏ lung linh. Từ lần trước đến đấy, nay đã mọc lên thêm một ngôi
làng Ả Rập nữa, thêm một nơi dung thân nữa cho Raza. Ông cảm thấy những đôi mắt
thù hận đang nhìn ông, những đôi mắt của đoàn người đang lên dốc. Ông vội cho
xe nhập vào đoàn xe đang chạy, rồi hướng về Jerusalem.

Ông cho xe đậu gần cổng Damoscus, và những người bán cao
đơn hoàn tán ùa đến. Mặc dù bấy giờ đang là thời gian không có những ngày lễ
hội, nhưng họ vẫn kiếm cớ để bán nào là hạt linh lấy từ Gethsemane, nào là nước
thánh lấy từ Jordan, đất thiêng lấy từ Calvary. Ông xua họ đi bằng tiếng Anh. Ở
đấy, người ngoại quốc vẫn còn được tôn trọng, nhưng là dân Do Thái thì khó ổn
lắm.

Thế nhưng Steve và Dolly sống ở thành phố cổ này đã trên
năm mươi năm. Căn hộ của hai người nằm trên khu Dolorosa đã chứng minh hùng hồn
rằng sự sống chung vẫn còn thực hiện được.

Ở bên trong những bức tường thập tự quân, những người bán
đồ dạo lại chìa ra những Thánh giá thật, những móng tay móng chân của Chúa Cứu
Thế phục sinh, lông đuôi của con thú thiêng, những mảnh vỡ lấy trong đền
Herod.

Khi còn bé, ông rất yêu thành phố này: ông từng nói
chuyện với những ông già ngồi trước những ngưỡng cửa còn già hơn họ nữa, đi
theo những người phụ nữ trùm kín người, đầu đội bình nước hay giỏ đựng hàng
hóa, và theo những ông giáo sĩ Do Thái giáo, những vị linh mục của Giáo hội Hy
Lạp và Nga chính thống, cứ giữ tình trạng đạo hạnh trong sáng, đã sống cuộc
sống lạc lõng với thế giới trước mắt vì mải hướng về quá khứ.

Những con đường ở đấy rất nguy hiểm. Thanh niên lởn vởn
trước ngưỡng cửa, yên lặng và dòm ngó, múa may đe dọa. Âm nhạc oang oang khắp
nơi: Những bản tình ca Ả Rập, giọng hát trẻ trung the thé; lại thêm nhạc Hy Lạp
chói tai. Và khắp nơi nhạc Beattles, nhạc Rolling Stones vang lên ầm ĩ. Loại
nhạc này trường tồn ở đấy hơn nơi nào hết.

Ông đã đi khỏi nơi đấy lâu lắm rồi. Steve đã nói phải học
ngay ở trường trung học công lập Anh. Năm năm học ở Clifton đã làm cho ông
trưởng thành ra, rắn rỏi lên. Mỗi lần nghỉ lễ ông trở về, Dolly lại reo lên:
Anh chóng lớn quá, anh nói tiếng Anh nghe hay quá! Ruth lại chọc ghẹo ông về
các cô gái. Steve cười rạng rỡ, nụ cười của người cha kiêu hãnh.

Khi Morton đi Cambridge để học, Steve đã đưa ra một danh
sách dài tên những giáo sư để giới thiệu. Hầu như ông cụ đã quen hết phân nửa
số giáo sư kèm cho ông. Cho đến lúc ấy, ông mới nhận ra người cha danh tiếng
của ông đã rất nổi tiếng trong giới học giả.

Một toán tuần tra quân đội chạy dọc theo đường phố, hai
chiếc xe jeep đã ép người ta vào chân tường. Morton cảm thấy nét giận dữ nơi họ
do những người lính đã gấy ra, ông thấy mắt họ nẩy lửa. Nhóm tuần tra vội nhìn
ông. Một người lính nói bằng tiếng Do Thái:

- Tên ngoại quốc hiếu kỳ!

Morton giả vờ không nghe thấy, rồi ông đi vào khu
Dolorosa. Ngày ông rời Cambridge trở về, trên tờ giấy thông báo ghi ông đạt
hạng nhất hai môn, đó là lịch sử và khoa học chính trị, và ghi ông đã gia nhập
cơ quan Mossad, Steve nhìn ông một hồi lâu rồi hỏi có thật ông muốn thế không.
Ông trả lời tức khắc: Vâng. Vấn đề này không bao giờ đề cập đến nữa.

Căn hộ nằm trong tòa nhà được xấy từ thời đế quốc Thổ Nhĩ
Kỳ. Mặt tiền xấy bằng đá trơn tru cao đến đầu người, do hàng triệu người đi
hành hương đã tựa người vào đứng nghỉ khi họ đi tìm lại dấu chân của Chúa Cứu
Thế; Morton dừng lại một chốc, cảm thấy như ông chưa bao giờ rời xa chốn này.
Rồi ông leo lên các bậc cấp đá để vào tầng nhất.

Ông có chìa khóa riêng, ông tra vào ổ khóa, cánh cửa
trước nặng nề, đóng bằng đinh sắt lớn. Ông cầm gói quà giấu sau lưng. Ông muốn
làm cho họ ngạc nhiên, muốn nghe Dolly reo lên vì sung sướng, muốn thấy Steve
đứng bật dậy khỏi ghế, đưa hai tay niềm nở chào đón ông. Morton nhẹ nhàng mở
cánh cửa ra.

Căn nhà chìm trong bóng tối. Nhờ ánh sáng ở đầu cầu thang
chiếu vào hành lang mà khung cảnh bớt thê lương. Ông bèn bật đèn ở phòng trước
lên, đóng cửa lại, rồi đi từ phòng này qua phòng nọ, bật đèn lên. Tất cả cửa sổ
cửa chớp, màn trong nhà đều đóng kín mít.

Ông quay trở lại phòng khách. Đồ đạc trong phòng đều y
nguyên như trước. Chiếc bàn ăn bằng gỗ sồi nặng, với bốn chiếc ghế dựa kê ở
cuối phòng. Chiếc bàn và cái giá thắp nến bằng đồng đều được Dolly chùi bóng
láng. Chiếc ghế bành của Steve kê trong một góc, chiếc của Dolly kê ở góc kia.
Giữa hai chiếc ghế là một cái tủ quân đội, có ngọn đèn đọc sách. Họ đã mang cái
tủ từ bên châu Âu về.

Cái ghế dài mà Morton và Ruth thường ngồi khi còn nhỏ, kê
sát chân tường, nơi họ ngồi để xem ti vi, cái ti vi đen trắng. Khi lãnh tháng
lương đầu tiên, ông đã mua một cái ti vi màu. Dolly đã sung sướng rầy ông hoang
phí.

Những kệ sách cao đến trần nhà, đầy cả sách không còn một
khoảng trống. Những sách bình luận về tín đồ Cơ đốc, về người Ả Rập, một cuốn
kinh Koran, một cuốn Phúc Âm nguyên bản, một cuốn tiểu sử bằng tiếng Nga viết
về Alexander Đại đế nằm giữa những bản dịch bằng tiếng Xi Ri. Thư viện chạy vào
tận trong phòng ngủ của Steve và Dolly, những kệ sách choán cả ba mặt tường, bao
quanh chiếc giường bằng đồng rộng lớn.

Ông đi theo một hành lang ngắn dẫn đến phòng của Ruth và
phòng trước đấy của ông. Ngày ông còn ở đấy, hành lang cũng đã kê các kệ chất
đầy sách. Morton bước đến phòng của Ruth. Cái bảng ghi tên của cô ấy còn đóng
trên cửa. Ông nhớ cái hôm ông đã đóng tấm bảng lên. Khi ấy Ruth đã mười hai
tuổi.

Phòng của ông vẫn y nguyên kể từ khi ông ngủ ở đấy lần
cuối. Chiếc giường khung bằng gỗ sồi kê sát một bức tường, một tủ nhỏ và tủ áo
quần kê sát bức tường kia. Ông vẫn còn một ít áo quần ở đấy. Chiếc kệ sách, chất
đầy sách về anh hùng thời thơ ấu: Just William, Biggles, Rockfist Rogan.

Morton trở về lại phòng khách, để xem có dấu hiệu gì cho
thấy Steve và Dolly đã đi xa. Trên cái giá để đồ ở dưới điện thoại, ông thấy
một chồng sách và tập san quảng cáo du lịch. Steve luôn luôn hứa với Dolly rằng
hai ông bà sẽ đi du lịch một chuyến cuối cùng sang châu Âu. Sang Luân Đôn để
xem một vở kịch. Đến Paris để thưởng thức thực phẩm và rượu vang đúng theo cách
nấu và cách phục vụ. Về Đức, để mà nhớ.

Ông cũng nhớ, tại sao hai ông bà không gọi điện thoại báo
cho ông biết họ đi đâu. Ông luôn luôn nói khó có cách để tìm cho ra ông. -
ngoại trừ gặp khi có chuyện hết sức quan trọng. Cũng vì thế mà ông đã đưa cho
hai ông bà số điện thoại của Danny. Lúc nào Danny cũng biết ông đang ở đâu. Và
Danny thế nào cũng gọi báo cho ông biết.

Để gói quà trên bàn, Morton đi vòng quanh rồi tắt đèn.
Trở lại phòng ngoài, ông lại để ý nhìn một mảng tường nhỏ trên cửa không sơn
quét. Đấy là dấu để tang nhắc nhở những ai còn sống hãy nhớ đến cảnh tàn phá
ngôi đền Jerusalem cách đấy đã hai thiên niên kỷ. Ông đã may mắn được những
người mộ đạo và có lòng tốt như thế này nuôi dưỡng. Bỗng ông muốn nói cho họ
biết thế quá.

Morton chợt nghe có tiếng động ở bên ngoài cửa. Có hơi
người thở, như là có một ai đó đang áp tai vào gỗ, nghe ngóng. Morton nhẹ nhàng
lấy khẩu Browning ra khỏi bao súng đeo ở vai, rồi nép người đi ra cửa. Ông tắt
đèn ở phòng ngoài rồi quỳ xuống. Ông cúi người chờ đợi, một tay sẵn sàng trên
nắm cửa, tay kia đưa khẩu súng lên ngang vai. Hơi thở khò khè to hơn. Rất nhanh
và rất gọn, ông giật mạnh cánh cửa rồi chĩa súng ra.

Một bà già to mập co rúm người lại vì hốt hoảng, hai tay
che lấy mặt, chiếc chìa khóa rơi khỏi tay rớt xuống đất. Bà nhìn ông sững sờ,
lắp bắp muốn nói. Khi bà ta nói nên lời thì giọng của bà lai đủ thứ tiếng Do
Thái, tiếng Do Thái Quốc tế và tiếng Anh.

- Davey! Xin
Chúa tha tội cho anh! Anh chĩa súng vào mặt tôi kìa!

Ông thở phào.
Hannah Meir là bạn thân nhất của Dolly. Bà là người đầu tiên và là người duy
nhất mà Ruth và ông đã gọi bằng "dì". Bà cũng là người duy nhất vẫn
còn gọi ông là Davey.

- Dì Hannah, cháu
thành thật xin lỗi dì. - Ông đứng lên, cất súng vào bao. - Chỉ vì... cháu thật
không ngờ là dì... - Morton lượm chiếc chìa khóa lên, đưa cho bà.

Bà lắc đầu:

- Vậy cháu nghĩ
là ai? Một tên khủng bố à? Bộ cháu tưởng có ai đến giết ba mẹ cháu à?

Morton cười:

- Dì nói đúng.
Nếu có hai người Do Thái nào được bình an trên thế giới, thì đấy chính là ba mẹ
cháu. Mà cháu cứ tưởng mẹ cháu đang ở dưới bếp, chuẩn bị bữa ăn mừng sinh nhật
đấy.

Ông vẫn gọi
Dolly là Mẹ và Steve là Ba. Hai ông bà thích thế.

Bà già liếc
xéo ông. - Anh muốn đứng đấy nói chuyện hay là vào trong?

- Xin lỗi, dì
Hannah. - Morton đứng sang một bên.

- Xin lỗi, đủ
rồi. - Bà vừa nói vừa bước qua trước mặt ông. - Tôi mong là anh không có cơ hội
như thế này nữa. Mẹ anh nói công việc của anh rất nguy hiểm, anh phải cẩn
thận.

- Mẹ cháu quá
lo đấy thôi. - Ông đóng cửa lại.

Bà bước vào
phòng khách. - Mẹ anh thương anh. Ba anh lại còn thương anh hơn nữa. Đương
nhiên là họ phải lo cho anh.

Ông theo bà
vào phòng, bà quay lại nhìn ông, nhìn như ông còn là một chú bé. Bà thở
dài.

- Dì đã nói
hai ông bà nên gọi điện thoại cho cháu biết.

Bà lôi trong
túi áo ra một mảnh giấy, vuốt cho thẳng. Morton nhận ra nét chữ của Steve, nét
chữ của một học giả, nhỏ, ngay ngắn, cách đều nhau. Hannah đọc to lên:

- Ngày đầu
tiên và ngày thứ hai, ở Luân Đôn. Tại khách sạn Connaught.
- Ngày thứ ba, thăm quê hương Shakespeare. Ngày thứ tư, đáp máy bay tốc hành
Phương Đông đi Paris.
Ở tại khách sạn Maurice.

- Hôm nay là
ngày mấy, thưa dì Hannah? - Ông hỏi.

- Hôm nay vẫn
còn là ngày đầu tiên, Davey à. Hai người đi sáng nay, ăn mặc khỏi chê, chi
phiếu du lịch đầy đủ để cho ba cháu thỏa mãn một ao ước lớn lao là thết mẹ cháu
sâm banh trong mấy bữa ăn. Ông ấy còn hứa đem về biếu dì một chai để trả công
dì trông nhà nữa đấy.

Hannah bỏ tờ
giấy ghi lịch trình vào túi áo. Bà thấy món quà của Morton, bèn bước đến cầm
lên xem.

- Của cháu à?

- Dạ. Một cuốn
sách.

Bà gật đầu.

- Năm nào dì
cũng nói hãy tặng ba cháu một chiếc áo sơ mi mới nhưng ba cháu chỉ muốn sách
thôi. Cháu biết ba cháu đã có cả một đống sách rồi chứ? Ông ấy vẫn muốn đọc
hàng trăm cuốn nữa. - Bà để cuốn sách xuống bàn trở lại. - Dì đã nói cháu sẽ
đến. Không có đứa con nào lại quên ngày sinh của ba mẹ mình hết.