Săn đuổi - Chương 06 - Phần 2

Hannah dường như định nói thêm gì đấy. Nhưng rồi bà quay đi. Bà đã mất người con trai duy nhất trong trận Yom Kippur. Năm sau, chồng bà cũng mất. Bà con thân thích đều mất đã lâu. Ông cảm thông bà cố che giấu nỗi đau khổ của mình. Hannah là con người rất can đảm, khiến cho ông phải khâm phục. Bà quay lại nhìn thẳng vào ông, rồi cười nói:

- Mẹ cháu đã để sẵn mọi thứ trong tủ lạnh. Bà ấy biết thế nào cháu cũng về. Xúp đấy, xúp khoai, gan, hành và bánh rán. Đều là những thứ cháu thích cả. Những thứ vợ cháu không quen làm.

Bà kéo một cái ghế dưới bàn ra, ngồi xuống.

- Xin lỗi cháu. Dì không cố ý gợi lại những kỷ niệm của người đã khuất.

Ông kéo một cái ghế đối diện với bà, rồi ngồi xuống.

- Shola không chết, dì Hannah à.

Bà lắc đầu:

- Cô ấy đã sống ở trong nhà này, Davey à. Cô ấy đã làm cho ba mẹ cháu khổ sở chưa từng thấy.

- Không phải hoàn toàn do lỗi của Shola đâu.

Hannah buông một tiếng thở dài nhè nhẹ.

- Thế cháu cho là mẹ cháu sai à, Davey?

- Không phải thế. Không có gì trầm trọng để mà phải nói là ai sai hay đúng. Họ có gấy gổ nhau gì đâu? Không có gì hết! Mà chỉ... Chỉ vì cháu đi luôn. Shola bực là vì thế.

Hannah nhìn ông.

- Nhưng cô ấy phải hiểu chứ. Mẹ cháu không hiểu đã đành. Còn cô ấy "đã biết" công việc của cháu mà.

Ông nhìn khuôn mặt, nhăn nhúm, mái tóc bạc buộc túm ra đằng sau của dì. Bà là người mẹ đã mất con. Ông không muốn làm cho bà đau khổ.

- Davey. - bà lại lên tiếng. - Cháu và cô ấy đều cùng chung một chiến tuyến, chắc là hai người tâm đầu ý hợp lắm!

- Không phải khi nào cũng thế đâu, dì Hannah à.

- Hai người cần có thời gian để hiểu nhau hơn.

- Có lẽ dì nói đúng.

Im lặng một hồi lâu, rồi bà lại nói: - Không có cách nào tái hợp được à?

- Chúng cháu đã ly dị nhau hai năm nay rồi. Mới đấy cháu nghe nói cô ấy đã có người khác rồi.

- Cháu vẫn quan tâm đến cô ấy à?

Ông cười: - Dạ không. Tình cờ mà cháu được tin thôi.

Bà nhìn thẳng vào ông.

- Còn cháu? Không có ai hết ư?

Ông cười lớn:

- Dì lưu tâm đến cháu quá nhỉ? Bộ dì muốn làm mai cho cháu ư?

Hannah đưa hai tay lên giả vờ phản đối.

- Nói thế thì thật tội trời. Nhưng mà này, dì cũng quen biết một hai cô rất đẹp có thể là vợ hiền được đấy. Đã đẹp lại tân tiến chẳng thua gì gái Luân Đôn hay là Paris đâu.

- Như thế này là cháu hạnh phúc lắm rồi, dì Hannah à.

Bà nghiêm nghị nhìn ông.

- Đàn ông nào cũng đều phải lấy vợ hết. Ba mẹ cháu chắc là rất muốn cháu đi bước nữa. Và muốn có cháu nội là một thằng con trai...

- Dì Hannah, dì vẫn y như ngày xưa!

Bà rạng rỡ cả mặt mày.

- Dì biết, dì biết. Dì còn pha cà phê rất ngon được mà.

- Chắc là cháu thèm cà phê rồi đấy.

Bà vội vã đi xuống bếp. - Tel Aviv ra sao cháu? - Bà vừa hỏi vừa quay lại với khay đựng tách và bình cà phê.

Họ uống cà phê kiểu Ả Rập, cà phê đen không bơ không đường.

- Dì biết đấy... Tel Aviv là Tel Aviv... thay đổi hàng ngày. Một số chúng ta bắt đầu chấp nhận quan điểm của thế giới cho rằng anh chàng IRan là ngon lành nhất trong khu vực này.

Bà đưa cho ông một tách.

- Rồi có được yên ổn không, Davey?

Câu hỏi của bà thật giản dị khiến ông thấy bối rối trong lòng. Ông thành thật đáp: - Có lẽ một ngày nào đấy sẽ yên ổn. Nhưng ngày ấy vẫn còn lâu.

Bà nhìn thẳng vào Morton. Đôi mắt bà bối rối.

- Nhưng nước chúng ta quá nhỏ. Khi I-Rắc chiếm Kuwait, cả thế giới đều cho rằng anh chàng Kuwait "bé nhỏ". Mà chúng ta còn bé hơn nữa.

Ông nhấp cà phê. - Cà phê thật tuyệt. - Ông để tách cà phê xuống bàn. - Chúng ta có tầm cỡ sức mạnh mà kẻ thù không hiểu nổi. Có nhiều vũ khí và có đông người không hẳn đã mạnh. Vấn đề là quyết tâm. Chừng nào mà chúng ta còn có quyết tâm, chúng ta sẽ sống còn, dì Hannah à!

- Nhưng họ đang mạnh lên đấy. Cháu chắc cũng thấy trên tivi hằng ngày. Dì nghe radio thế. Rồi ra sẽ mệt đấy, Davey à. Dì cảm thấy như thế. Mẹ cháu cũng nghĩ vậy.

Ông uống hết tách cà phê, rồi rót thêm tách khác. Tiếng đồng hồ kêu tích tắc trên kệ bên trên máy sưởi.

- Dân tộc này muốn tạo nên một cuộc thánh chiến, dì Hannah à, và họ muốn thực hiện khắp nơi. Nhưng họ biết rằng trước hết họ phải loại chúng ta đi đã. Chúng ta đứng ở giữa họ với thế giới. Vì thế mà người Mỹ sẽ ủng hộ chúng ta, và tất cả những nước ở châu Âu nữa. Chúng ta là vật đệm cho họ.

Mặt bàn gỗ láng bóng phản chiếu ánh sáng ngọn đèn. Hễ mỗi lần Morton ngồi ở đấy là ông lại thấy bóng ngọn đèn in dưới lớp gỗ láng bóng do bà Dolly lau chùi.

- Mẹ cháu thường nói Chúa đem chúng ta đến đấy cũng nhằm mục đích ấy đấy, Davey à. Để chúng ta chịu trận thay cho thế giới.

Ông đẩy tách cà phê ra, rồi nói tiếp: - Vì chúng ta nhất quyết không chịu thua bằng vũ lực, cho nên kẻ thù đã dùng cách khác. Chúng đe dọa thế giới để họ đừng ủng hộ chúng ta nữa. Chúng còn làm cho một số bạn bè của chúng ta phải kinh hoàng để họ xa lánh chúng ta. Rồi chúng sẽ đến.

Hai người im lặng một hồi lâu rồi bà hỏi:

- Khi nào, Davey? Khi nào thì chúng sẽ đến?

- Ước gì mà cháu biết được, dì Hannah. - Morton đáp.

Bà gượng cuời: - Mẹ cháu nói nếu cái gì mà cháu không biết, thì không đáng cho cháu biết. - Bà rót cho mình một tách cà phê mới pha. - Ước gì ba cháu nghe được những gì cháu vừa nói.

- Thật không, dì?

- Thật chứ, - Bà uống nhanh tách cà phê rồi để cái tách xuống, - ít khi dì tranh cãi với ba cháu, Davey à. Dì chưa bao giờ nghe ai giảng giải về lịch sử của chúng ta hay hơn ba cháu. Đáng ra thì ông ấy nên in sách nhiều hơn kia. Mà không chỉ là in bằng tiếng Do Thái. Ông nên in nhiều ở Mỹ hơn. Ông ấy nên đi diễn thuyết khi họ yêu cầu.

- Ba cháu không muốn rời xa chúng ta.

Bà vội vẫy tay. - Ấy, không phải đâu. Ông ấy không thích đi mà thôi... bấy giờ thì... - Bà có vẻ bối rối.

Ông đợi cho bà tìm ra ý. Rồi bà nói tiếp: - Ông thường nói chúng ta phải học cách để thương yêu kẻ thù. Dì hỏi ông đoạn nào trong kinh Torah nói thế? Trong sách nào của ông ta? Nhưng ông ấy chỉ đáp chúng ta phải học để thương yêu họ.

- Ba cháu là người thiếu thực tế rất đáng mến, dì Hannah à. Nếu mọi người đều như ba cháu hết, thì thế giới sẽ tuyệt biết bao!

Bà đưa tách lên môi, nhìn ông, bà hỏi:

- Lần chót cháu gặp ba mẹ cháu là khi nào, Davey?

Ông ngẫm nghĩ rồi đáp;. - Cách đấy cũng mười tháng rồi.

- Còn nói chuyện bằng điện thoại?

- Cũng năm, sáu tuần rồi. Mà sao dì lại hỏi thế?

Bà nhìn chăm chăm vào ông. - Thế mà cháu không biết à?

- Biết cái gì, dì Hannah?

Bỗng ông cảm thấy lo. Rồi dì nói thật nhanh:

- Ba cháu bệnh nặng, Davey à. Rất, rất nặng.

Ông nhìn bà.

- Ba cháu bệnh sao ạ? Sao lại bệnh được? Ba cháu đi nghỉ phép mà!

- Các bác sĩ nói ông ấy còn đi du lịch được.

- Các bác sĩ nào?

- Các bác sĩ ở bệnh viện Brai Nith.

Ông nhìn bà không thốt nên lời, Brai Nith là bệnh viện mới của Israel chuyện trị bệnh ung thư. Hannah để cái tách xuống.

- Ba cháu đã đến đấy một tháng rồi. Họ phát hiện thấy ung thư ở gan và bao tử. Vì biết ba cháu là ai, cho nên họ nói hết cho ba cháu nghe. Không chữa chạy được nữa. Chỉ kéo dài thêm thời gian của ba cháu mà thôi.

- Nhưng ở đấy người ta đã có máy bắn điện tử mà. Chắc là họ có thể bắn...

Hannah lắc đầu. - Đã quá nặng rồi, Davey à...

- Bao lâu? - Ông hỏi nho nhỏ. - Ba cháu bị đã bao lâu rồi?

- Họ không biết.

Ông nhìn khuôn mặt khổ sở của bà dì, cảm thấy lòng mình quặn đau, và bỗng ông thấy ngạt thở. Ông đứng dậy.

- Cháu muốn nói chuyện với ba cháu.

Bà lấy ra tờ giấy ghi lịch trình du lịch, rồi đưa số điện thoại khách sạn Connaught cho ông. Ông bước đến điện thoại, bấm số gọi thẳng đến Luân Đôn. Nhân viên điều phối điện thoại ở khách sạn cho biết ông bà Vaughan đã nghiêm ngặt căn dặn rằng phải để cho hai ông bà được yên tĩnh cho đến sáng mai. Ông để điện thoại xuống, đứng yên một lúc, mắt nhìn đăm đăm vào kệ sách.

Bà già bước đến bên ông, ôm lấy ông như mẹ ôm con.

- Ở lại đấy đêm nay đi, Davey! Sáng mai gọi lại cho ba mẹ cháu. Rồi ra giáo đường cầu nguyên. Mẹ cháu chắc là thích thế.

Morton gật đầu, không hứa, rồi ông bước ra ngoài ban công nhỏ. Khi ông còn nhỏ, ông thường đứng ở đấy hàng giờ trong khi Steve chỉ lên những vì sao. Morton nhìn ra cổ thành rồi nhìn qua đồi Gethsemane. Không khí mát lạnh. Chắc rồi trời sẽ lạnh lắm.

Khi ông bước vào lại phòng, bà Hannah đã đi rồi. Tháo điện thoại ra, ông đem vào phòng mình rồi nối điện thoại vào ổ cắm ở bàn bên cạnh giường ngủ. Ông đã cho thiết kế ở đấy để nhận nghe điện thoại bất cứ vào giờ nào khi ông ở nhà sau ngày Shola bỏ đi.

Ông tháo súng và bao ra để trên bàn. Ông nhắm mắt lại, nghĩ đến Ruth rồi Shola, đến Dolly và Steve... rồi cuối cùng nghĩ đến Nan. Bỗng ông có ý nghĩ nói cho Hannah nghe về chuyện hai người gặp nhau, nan giống như cảnh lâu ngày mở một cánh tủ, tìm thấy một cái sơ mi mình ưa ý và mặc còn vừa vặn. Nhưng rồi ông lại không muốn tâm sự với ai về chuyện Nan hết. Ông tự hỏi không biết những người khác khi yêu có như thế không?

Ngày ông gặp Nan đến nay đã một năm qua rồi, cái ngày mà ông bước lên bục để đọc bảng tường trình hằng năm về chứng tâm động do khủng bố gấy ra trước giới trí thức của trường Đại học Harvard. Khi mọi người nói xong, nàng bèn đứng dậy đến tự giới thiệu với ông: "Tôi là Tiến sĩ Nan Cooper, nhà vi rút học", rồi nàng hỏi ông nhiều câu hỏi đã suy nghĩ rất cẩn thận, và yêu cầu ông trả lời cũng cho thật chính xác. Ông mời nàng đi ăn tối. Ông chắc là cơ quan Mossad sẽ nhận thêm được một nhân tài mới đáng chú ý. Khi uống cà phê nàng trả lời bằng lòng rất giản dị, nàng muốn giúp ông.

Trên xe trở về nhà, nàng nói cho ông nghe đầy đủ về O'Hara, nhà bệnh lý học đã cùng chung sống không được êm đẹp, cuối cùng họ chia tay nhau và O'Hara bỏ đi New York. Ông bán tín bán nghi, vì từ ngày Shola bỏ đi, ông tránh không để cho vướng vào con đường tình cảm. Nàng chìa má cho ông hôn, nụ hôn tạm biệt chân thành.

Nan đã sang Luân Đôn sáu tháng rồi, nàng giữ chức Trưởng đoàn Nghiên cứu một thời gian tại bệnh viện Các Bệnh Lấy Nhiễm. Trong chuyến thăm Luân Đôn vừa qua, ông đã gặp lại nàng.

Ông sang Luân Đôn để báo cáo trước Bộ Nội vụ Anh, về các tội phạm chiến tranh của Đức quốc xã, mà cơ quan Mossad đã phát hiện chúng đang sống bình an phè phỡn tại những nơi như là Hastings và Torquay. Đêm đó ông đến căn hộ của Nan, định mời nàng đi ăn tối như sáu lần trước hai người đã gặp nhau. Nhưng khi nàng mở cửa ra thì trên người nàng chỉ có chiếc áo mặc ở nhà bằng lụa mỏng. Ông còn thấy nàng không mặc đồ lót.

Nàng dẫn ông đến chiếc đi văng, rót sâm banh ra hai ly lớn có chân, rồi với giọng dịu dàng, nàng nói muốn làm tình với ông. Nàng nói nàng đã muốn làm tình với ông ngay từ khi nàng mới gặp ông. Ông thấy người bị kích thích ghê gớm. Ông đã quên bẵng cảm giác khi đụng chạm một cơ thể xa lạ rồi, nhưng lần này khi ông hôn nàng, ông cảm thấy như là lần đầu tiên ông được yêu. Ông cởi áo quần, môi vẫn không rời người nàng. Khi nàng cong người lại, nàng như muốn ông yêu nàng thật nồng nhiệt hơn nữa. Sau đó, nàng nằm yên dưới người ông một hồi lâu, không nói năng gì.

Sau lần làm tình thứ mười vào hôm cuối tuần đó, ông nói với nàng là ông đã yêu nàng. Nàng nhìn ông mỉm cười tinh nghịch, rồi nói ông không nên quá lo về tuổi tác của mình. Một người bằng nửa số tuổi của ông cũng không thể yêu một cách cuồng nhiệt như thế.

Buổi sáng hôm ông về Tel Aviv, hai người cùng nằm trong bể tắm cổ lỗ sĩ, mà ông vẫn thấy vừa đủ cho cả hai người. Hai cơ thể áp vào nhau rồi họ làm tình thêm lần nữa. Ông lại thì thào bên tai nàng là ông yêu nàng. Nàng bước ra khỏi bể tắm, rồi vừa lau mình nàng vừa nói một cách tinh nghịch:

- Davey, đừng có trẻ con như thế. Em không muốn tình yêu. Em chỉ muốn làm tình thôi. Đừng làm rắc rối thêm lên. Nhé?

Vì ông yêu nàng, nên ông chấp nhận. Ông biết ông không biết rõ quá khứ của nàng, khi hai người dan díu nhau thì nàng đã nói cho ông biết. Ông không hề tìm hiểu. Ông chỉ nhớ nàng khoảng ba mươi lăm tuổi, và ông đừng hy vọng nàng còn trinh. Trong vòng một tháng nữa, nan sẽ trở về lại Boston, như thế càng xa thêm. Nhưng chắc ông sẽ tìm cách để đến thăm nàng.

Điện thoại reo.

- David. - Danny nói. - Chúng tôi đã chặn được một tin.

- Phải chăng anh đã nghe giọng nói, Danny? - Morton hỏi, đáng ra ông không cần phải hỏi làm gì.

- Chính xác lắm. - Giọng Raza.

- Tôi về ngay đấy.

Hai mươi phút sau, ông rời Jerusalem, phóng nhanh về Tel Aviv, ông nhắc thầm thế nào cũng phải gọi Steve.