Săn đuổi - Chương 11

CHƯƠNG 11

Morton ngồi trong chiếc ghế dựa có lót
đệm ở trong "Phòng Điều Hành" không có cửa sổ kế bên văn phòng của
Karshov! Gặp lúc khủng hoảng, thủ tướng thường làm việc quan trọng trong phòng
này để được ở gần bên văn phòng của ông. Đã hai mươi hai giờ trồi qua kể từ khi
Raza đưa ra các yêu sách.

Trong phòng chỉ có một cái bàn thật rộng
và các ghế dựa mà thôi. Ngoài ra đều là những thiết bị thông tin và nghe nhìn.
Căn phòng này giống như "Phòng Chiến tranh" nằm phía bên kia văn
phòng của Thủ tướng. Từ khi xảy ra vụ đánh bom, phòng Chiến tranh đã được một
toán chiến lược gia sử dụng để làm việc. Trong lúc Morton giám sát công việc
của họ qua máy truyền hình mạch kín, thì ông một mình làm việc trong căn phòng chật hẹp
này.

Trên một bức tường là một dãy máy giám sát. Những máy này
có thể giúp Morton theo dõi những diễn biến ở Luân Đôn, paris và Washington, và
cả Liên Hiệp Quốc đóng ở New York nữa. Những màn hình khác tiếp vận tin tức ở
hãng Interpol và những lực lượng cảnh sát ở châu Âu có nhiệm vụ truy lùng bọn
đánh bom.

Hai chi bộ của Mặt trận IRA ở Hà Lan đã bị phá vỡ cùng
với nhà máy chế tạo bom phục vụ cho bọn khủng bố Thổ Nhĩ Kỳ ở Đức. Nhưng vẫn
không tìm ra dấu vết của bọn đánh bom khách sạn.

Tại Liên Hiệp Quốc, hội đồng thường trực sau khi đã tham
khảo ý kiến nhau, họ nhất trí bác bỏ những yêu cầu đòi Israel phải từ bỏ quyền
làm chủ lãnh thổ của họ và phá hủy hết vũ khí nguyên tử. Quyết định này đã được
đem ra toàn thể Hội đồng để biểu quyết. Hội đồng tranh cãi suốt mười giờ. Đại
đa số đều ủng hộ Hội đồng Thường trực: tám nước Ả Rập không bỏ phiếu.

Ở Washington, paris và Luân Đôn, nội các đều họp sau khi
đã ra những bản thông cáo giống nhau tuyên bố rằng bọn đánh bom sẽ được săn
bắt.

Nhiều quốc gia khai thác dầu và khoáng sản đều nhất loạt
bác bỏ những yêu cầu của chúng.

Bitburg đã xuất hiện trên một màn hình mạch kín để tuyên
bố rằng đấy là lần đầu tiên kể từ sau chiến tranh vùng Vịnh toàn cả thế giới
đều đứng lên chống lại chủ trương khủng bố. Ông cũng kín đáo xác nhận ông đã
sai lầm trong việc xử sự với Raza.

Kể từ khi ấy, kim đồng hồ trên bàn của Morton đã trồi qua
hai mươi bốn giờ, nay đã nhích thêm một giờ nữa. Dưới chiếc đồng hồ, Morton đã
ghi đậm lên một tấm cạc hai chữ: "Hạn cuối lần thứ nhất". Hàng chữ để
nhắc nhở mãi cho ông nhớ thời gian còn lại trước khi Raza tấn công lần hai như
hắn đã hăm dọa. Bấy giờ hắn còn hai giờ nữa.

Trong mấy phút vừa rồi, trên màn ảnh máy giám sát đã xuất
hiện lời tuyên bố của Ayatollah Muzwar có nhan đề: "Phản ứng của người Ả
Rập".

Lời tuyên bố kêu gọi thế giới Hồi giáo hãy thận trọng
trước hình ảnh khiêu khích của bọn ngoại đạo. Muzwaz cứ lặp lại lời kêu gọi tấn
công vào Israel, phương Tấy, vào chủ nghĩa đế quốc và vào tư bản chủ
nghĩa.

Khuôn mặt Bitburg xuất hiện ở phía sau màn hình. Đôi mắt
của ông ta nhìn thẳng, thái độ chững chạc. - Chỉ là gấy tiếng vang mà thôi,
David à! Muzwaz đã biết Raza tính toán hết sức sai lầm trong việc đánh sập
những khách sạn ấy. Nếu trước đấy hắn ủng hộ Raza thì nay chắc là hắn không tiếp
tục nữa đâu.

- Tôi thì không tin thế đâu, ông Walter à. Chuyện hắn kêu
gọi nhân dân hắn thận trọng trước sự khiêu khích có thể là Muzwaz đang chuẩn bị
nhân dân hắn bước qua giai đoạn hai đấy. Đấy chính là cái trò của Saddam rêu
rao lên là chính chúng bị tấn công. Khi Raza sắp hành động chuyện gì, Muzwaz
làm như hắn cần phải có quyền tự vệ trước.

- Anh lầm rồi, David à! Muzwaz chắc sẽ nổi cáu lên vài
hôm nữa, vì hắn phải làm thế. Nhưng nay thì mọi người đã cương quyết đứng lên
rồi, hắn biết rằng bất kỳ Raza có hành động gì, hắn cũng sẽ không thành công
được. Cho nên hắn chỉ muốn giữ chất nổ lại để chờ thời cơ khác thôi. Và Raza
chắc không ngờ phản ứng của mọi người trước hành động đánh bom của hắn lại mạnh
như thế. Anh nhìn vào máy giám sát đi. Cả thế giới đều vũ trang. Tốt hơn hết
cho Raza là hắn phải lo mà biến đi.

Morton nhìn chằm chằm vào màn hình có Bitburg. Tại sao
một con người như thế này lại leo cao đến như thế được nhỉ?

- Ông Walter,
hắn vẫn còn vi rút bệnh than trong tay mà.

- Anh vẫn tiếp
tục nói thế à? Tại sao hắn lại không dùng thứ này đi? Thứ này chắc sẽ có tác
dụng nhiều hơn những lời yêu cầu điên cuồng của hắn chứ?

- Tôi đã nói
cho ông nghe câu chuyện người Xi
Ri nói rồi.

Bitburg lắc
đầu một cách từ tốn. - Anh ta đâu có xác định chính xác những khách sạn này,
David. Thì cũng giống như lời đe dọa của Raza về việc hắn sẽ hành động thêm nữa
mà thôi. Mơ hồ lắm. Và bất kỳ chuyện gì hắn đã hoạch định, bấy giờ thế nào chắc
hắn cũng phải dẹp đi mà thôi.

- Chúng ta hãy
chờ xem thôi, Walter!

Bitburg thở
dài thườn thượt. - David, David, tại sao anh cứng đầu thế?

- Vì linh tính
tôi báo cho tôi biết như thế, ông Walter à.

Bitburg vẫn
còn lắc đầu khi mặt ông ta biến dần trong màn hình. Morton nhìn vào màn hình
trống một lúc, rồi ông bấm máy gọi Harry Fuller. Fuller là trợ lý cho ủy viên
chính phủ đặc trách về tội phạm tại vùng New Scotland Yard. Ông đã cùng với anh
ta thực hiện nhiều cuộc hành quân truy lùng bọn tội phạm rồi.

Fuller trả lời
ông bằng máy điện thoại ở trên xe, ông nghe rõ cả tiếng ồn ào náo nhiệt ở khách
sạn Connaught. Ông lắng nghe, không hề ngắt
lời, rồi bình tĩnh nói rằng cũng có phần an ủi vì Steve và Dolly chắc không
thấy đau đớn gì hết. Chắc cả ba mươi bốn nạn nhân đều cũng thế.

Morton gọi cho
bà Hannah. Bà ta khóc như mưa. Khi ông báo cho Karshov biết, thủ tướng la lối
một hồi lâu bằng tiếng Ba Lan. Morton nhớ Steve và Karshov đã từng cầu nguyện
với nhau tại giáo đường Do Thái và cùng nhau tham dự nhiều lễ hội. Thủ tướng
nói ông sẽ cho chiếc Concorde duy nhất của Do Thái đến Luân Đôn mang thi thể
hai người về.

Rồi Morton
quay qua làm việc bình thường. Ông đã nhận được bản ghi âm của báo AP nhận
được, do Matti chuyển đến, rồi ra lệnh cho Lou trở lại Washington để liên lạc với CIA và FBl.

Morton đã ra
lệnh cho Lester Finel, người điều hành máy vi tính của Mossad tuyển những chuyện
viên lập chương trình máy tính, để nhận diện cho ra những tên đánh bom. Chantal
Bouquet, trưởng phòng tình báo hải ngoại, đã được vời đến để sưu tra xem vì chỉ
có mình nàng mới biết được mạng lưới rộng lớn của bọn đánh bom. Tại sao tình
báo Anh, pháp, Mỹ lại không tìm ra được một manh mối nào nhỉ? Nhân viên tồi ư?
Hay là có gì đấy chứ? Trước vụ Lockerbie, người Đức đã ém nhẹm những tin tức
sống động về bọn đánh bom, và cả tin tức có đề cập đến những hoạt động của
chính họ.

Ban tâm lý
chiến đã được lệnh chuẩn bị bản báo cáo về khả năng chọn lựa của những nhà lãnh
đạo Ả Rập chính thống. Họ có ủng hộ Muzwaz không? Và tập đoàn tôn giáo đã cảm
thấy thời cơ mở một cuộc chiến đã đến chưa?

Ban mật vụ đã
được chỉ thị đưa ra danh sách một số ít ứng viên để lồng vào trong tổ.

Trong lúc đó
thì Fuller đã gọi về ba lần nữa, để báo cáo các vụ nổ ở các khách sạn Savoy, claridge's
và Berkeley. Đấy là vụ bị tàn phá nặng nhất ở Luân Đôn sau vụ ở Blitz.

Lacouste, phó
giám đốc cơ quan tình báo Pháp, đã cho biết đầy đủ các chi tiết về cảnh hư hại
ở Paris. Năm tầng lầu của khách sạn Maurice đã sập, đã tìm ra được bốn mươi tử
thi. Tại khách sạn Georges V. đã tìm thấy hơn năm mươi tử thi. Mặt tiền khách
sạn Grant đã rơi đúng vào hai chiếc xe lớn chở khách đi tham quan trong thành
phố vừa mới trở về. Một trăm người đã được xem như bị chết. Số thương vong tại
khách sạn Crillon đã lên đến bảy mươi và sợ còn tìm ra nhiều hơn nữa.

Lacouste cho
biết đấy là cái giá, vì đã cho phép nước Pháp biến thành nơi trú ngụ cho bọn
khủng bố. Morton hiểu được nỗi giận dữ của ông ta.

Khi máy giám
sát cảnh tượng ở Paris lại hiện hình ảnh ra, nét mặt khắc khổ thanh cao của
Lacouste vẫn toát ra nét giận dữ ấy. - Chúng tôi đã hạn chế việc miêu tả bọn
đánh bom của các nhân viên ở khách sạn còn ghi nhớ, là bọn Ả Rập ăn mặc thật
sang, đăng ký vào ở với hành lý thật đắt tiền. - Ông ta nói.

- Ông Fax hết
đến cho Finel được không? Chúng tôi sẽ so với những hình ảnh chúng tôi đang có
tại đấy. Điều chắc chắn là bọn khủng bố của Raza luôn luôn biết cách hòa đồng
với môi trường tại chỗ.

Lacouste càu
nhàu. - Chúng tôi đã gặp một người gác cửa, ông ta nhớ có một người Ả Rập đi ra
mấy giờ trước đó thì xảy ra vụ nổ ở khách sạn Maurice. - Một chị lao công cho
biết chị nhớ có trông thấy có hàng chữ "xin đừng quấy rầy" gắn trước
cửa phòng của người Ả Rập ấy. Chị ấy nói có cái gì đó kỳ lạ lắm đang xảy ra ở
trong phòng.

- Nhiều chuyện
như thế đã xảy ra ở những khách sạn khác, pierre à. Những tên đánh bom đăng ký
vào ở, gài dấy điện trong phòng để làm nổ vào giờ giấc đã định trước, rồi chúng
lẻn đi. Cơn ác mộng của các chủ khách sạn đã thành hiện thực. Chuyện kỳ lạ là
trước đấy có bao giờ xảy ra như thế đâu.

Lacouste lại
càu nhàu. - Cuộn băng có giúp gì được không?

Ông ta và
Fuller đã chuyển bản sao đến cho Morton những cuộn ghi băng do Hiệp hội báo chí
Press Association ở Luân Đôn thu, và ở Paris thì do cơ quan báo chí Pháp Agence
France Presse thu. Những bản này đều giống bản do Associated Press gởi về.
Morton đã nghe nhiều lần. Ông đã gởi tất cả sang cho Ban Phân Tích Tiếng Nói.
Các kỹ thuật gia của ban này đều rất giỏi về mặt này.

- Chưa có tin
tức gì. Khi có tin, tôi sẽ báo cho anh hay. - Morton đáp.

- Cám ơn anh,
David. - Khuôn mặt nhăn nheo của Lacouste có vẻ trầm tư. - Ông có nghĩ là Raza
sẽ tấn công lại không?

- Có
chứ.

- Tôi cũng
thế. Mà ở đâu?

- Anh cho là ở
đâu đấy?

Cả hai đều
cười nhạt, căm tức.

Một lát sau
máy giám sát nhờ vệ tinh để liên lạc với Washington kêu bíp bíp. Morton đè một
nốt khóa trên tủ máy điện tử và mặt của Lou Panchez hiện ra trên màn hình; anh
đang nhìn xuống tờ ghi chép.

- Cơ quan FBI
xác nhận nhịp âm của lời gọi đến tại trụ sở AP, họ nói lời kêu gọi này nằm ở
ngoài lục địa Hoa Kỳ. Địa điểm gọi cách vào khoảng từ năm đến tám ngàn dặm.

Morton quay
sang bên nhìn vào bản đồ trên tường ở sau lưng ông. Ông quay trở lại nhìn vào
màn hình.

- Như thế có
lẽ nằm vào khoảng giữa Philippins ở Thái Bình Dương và cả khu vực Nam Âu và sâu
vào nội địa châu Á. Chúng không thể nào phát ra nghe rõ hơn nữa chứ, Lou?

- Tôi đang tìm
hiểu đấy.

- Nói cho họ
biết người Pháp và người Anh tin rằng chúng đã gọi đi trong nội địa châu Âu
đấy.

- Tôi sẽ cho
họ biết thế.

- Có nghe tin
gì ở tòa Nhà Trắng không, Lou?

- Không có gì
cụ thể. Nhưng ở đấy hình như người ta đều nhất trí cho rằng Raza chắc sẽ rút
lui, vì hắn đã động đến tổ ong vò vẽ rồi.

- Họ sai rồi,
Lou à. - Morton quả quyết nói rồi ông tắt máy.

Đồ Bitburg mắc
dịch. Anh chàng này quá thụ động trước một tình trạng rất sôi động như thế này
ư? Morton quay lại máy vi tính. Ông đã yêu cầu hệ thống máy cho một danh sách
những mục tiêu có khả năng bị Raza tấn công. Máy đưa ra trên mười lăm ngàn mục
tiêu ở châu Âu, bắc Mỹ, châu Phi, châu Á và châu Úc. Morton loại ra những mục
tiêu xem ra quá lộ liễu hay không có tầm quan trọng, hay không có đủ nét đặc
biệt nào để dùng làm nơi cho chúng đánh bom ở khách sạn trong đợt tấn công sắp
đến đấy.

Ông gõ vào một
phím máy vi tính Honeywell để ra lệnh tìm các mục tiêu bất thường bậc trung
nhưng có tầm quan trọng, rồi ông đi gặp Thủ tướng.

Karshov đang ở
một mình, ông đọc lướt nhanh nhiều tin nhắn để trên bàn làm việc. Từ phòng
ngoài văn phòng của ông, có tiếng của những nhân viên phụ tá lễ phép từ chối
những lời gọi đến. Ngài Thủ tướng nhìn lên.

- Bỗng nhiên
cả thế giới đều muốn trấn an tôi rằng mọi việc rồi sẽ tốt đẹp thôi. Và Walter
cũng thế. Còn anh thì sao, David? Anh có muốn làm cho một ông già hạnh phúc
không?

Morton nhìn
vào khuôn mặt có sẹo. Ông đáp: - Ước chi tôi làm được, thưa Thủ tướng.

Khuôn mặt của
Karshov có vẻ hoang mang. Ông nói:

- Anh biết họ
bắt đầu nói sao không? Nếu chúng ta biết điều, thì mọi việc sẽ tốt đẹp hết. Họ
bắt đầu rỉ tai, này, xén đi một dúm đất được không? Có thể cắt dải Gaza đi? Hay
là bờ Tấy lại tốt hơn? Trao cho người Ả Rập một miếng, hay cả hai đi. Họ nói cứ
làm như thế đi, chúng tôi sẽ bảo đảm Raza không còn gấy khó khăn cho quý vị nữa
đâu. Không có chuyện khủng bố xảy ra ở các nơi ủng hộ ta nữa. Không có chuyện
đánh bom xảy ra nữa đâu. Họ nói: thôi, hãy quên đi! Vẫn còn tùy thuộc vào chúng
ta đã chứ. Luôn luôn thuộc quyền chúng ta đã chứ, David. Luôn luôn mà.

Morton đã quên
không biết ông đã đứng ở đấy bao nhiêu lần, chia sẻ cùng Thủ tướng nỗi giận dữ
khi thấy thế giới cứ chực chờ để trách Israel.

- Còn Luân Đôn
và Washington thì sao?

- Họ muốn trao
đổi qua điện thoại trong vòng hai giờ nữa. Tổng thống Mỹ cần có thì giờ để tham
khảo ý kiến nội các. Ít ra thì Thủ tướng cũng không cần làm như thế. - Karshov
nói lớn.

Việc truyền
thanh sẽ được nối thẳng từ phòng thu thanh đến văn phòng của Thủ tướng. Karshov
bước ra cửa sổ. Ông đưa mắt nhìn lên bầu trời đêm. Sao giăng đầy trời, li ti,
lấp lánh, xa xôi, khó với tới quá.

- Anh có biết
không, David, tại buổi thảo luận ở Liên Hiệp Quốc, có một nước ở châu Phi nói
rằng giải pháp đơn giản nhất là đưa người Do Thái ra ngoài không gian? - Ông
quay lại nhìn Morton. - Nhưng nơi đấy thật sự là quê hương duy nhất của chúng
ta từ lâu rồi. Tôi đã chiến đấu trong ba trận giặc để bảo vệ đất nước này. Tôi
đã chứng kiến nhiều người tốt đã hy sinh cho mục đích ấy. Điều mà tôi biết chắc
là bất kể Raza sẽ làm gì, nước Israel vẫn tồn tại.

- Tôi rất sung
sướng khi nghe ngài nói thế, thưa Thủ tướng. Nhưng áp lực vẫn còn gia tăng. Như
ngài đã nói đấy. Mọi người đều muốn ngài phải nhượng bộ.

Giọng nói của
Karshov bỗng vang lên đầy giận dữ. - Chúng ta sẽ không nhượng bộ một tấc đất.
Chúng ta đã đổ biết bao xương máu. Dân tộc ta. Máu của ta. Đất đai của ta.
Nhưng không còn nữa!- Ông ta đi rảo bước, mỗi bước đi, ông càng thêm giận dữ. -
Raza và bọn người như hắn đã hăm dọa chúng ta hơn bốn mươi năm nay rồi. Trong
suốt thời gian ấy, chúng ta đã mất người vì chiến dịch khủng bố này nhiều hơn
cả các nước trên thế giới gộp lại. Trong một năm đã có nhiều người Do Thái bị
giết chết nhiều hơn là mười năm ở Bắc Ai Len, Munich, Vienna, La Mã, paris...
không có một thành phố nào mà lại không có máu của người Do Thái đổ ra. Và mỗi
lần như thế, chúng ta lại nói chúng ta sẽ không bao giờ để cho ai đẩy ra khỏi
nơi đấy hết. Đấy là mảnh đất của Chúa, của tôn giáo chúng ta, của dân tộc ta.
Không ai giành mảnh đất này được hết. Không có ai hết.

Morum đứng yên
lặng. Không những ông đã hiểu và đồng ý với những gì mà Thủ tướng vừa nói ra,
mà ông còn hoàn toàn biết chắc rằng Karshov sẽ ủng hộ những gì ông sẽ nói
ra.

- Thưa Thủ
tướng. - Ông thận trọng nói. - Chúng ta phải khuyến khích Raza tin vào điều
này. Có thế, hắn mới xuất đầu lộ diện. Sau đó chúng ta mới kết liễu đời hắn
được.

Karshov chăm
chăm nhìn ông một hồi. - Tại sao anh lại dám nói chắc chắn như thế?

- Những gì tôi
biết về Raza là hắn có yếu điểm, hắn quá tự tin. Hắn đã tỏ ra như thế tại Luân
Đôn và Bá Linh. Những kẻ khủng bố khác không bao giờ dám làm như thế. Raza thì
phải thế... vì hắn buộc phải chứng minh cho người ta thấy thế. Những trận đánh
bom khách sạn này đã cho người ta thấy thế. Bấy giờ thì hắn lại còn muốn làm
cái gì phi thường hơn nữa kia.

- Như cái gì?
Đánh sập điện Vatican sao? Đánh sập lâu đài Buckingham à? Phá sập cầu Golden
Gate ư?

- Có thể lắm.
Nhưng tôi không nghĩ đến những nơi ấy. Có khả năng hắn sẽ làm những chuyện bất
thường lắm. Và việc có thể thắng hắn là phải bí mật tìm cho ra những nơi hắn
hoạt động.

- Nhưng bằng
cách nào? - Karshov lập lại.

Morton lắc đầu.
- Ngay bấy giờ thì tôi không biết. Nhưng tôi đã yêu cầu máy vi tính Honeywell
rà tìm rồi.

- Trong lúc đó,
anh cần tôi phải làm gì?

- Ngài phải
luôn luôn cương quyết như mọi khi. Ngài cứ ở trong tình trạng báo động quyết
chiến. Ngài hãy tuyên bố cho mọi người biết rằng nước Israel không bao giờ chịu
khuất phục. Như thế là đủ lôi Raza chường mặt ra rồi. Một người xuất đầu lộ
diện ra như thế sẽ dễ cho ta hạ hắn hơn.

Không khí
trong phòng trở nên im lặng kéo dài từ lúc Karshov quay nhìn ra cửa sổ cho đến
khi ông quay lại nhìn thẳng vào mặt Morton.

- Được rồi.
Tôi sẽ làm những gì anh đã nói. Walter không thích thế đâu, nhưng tôi sẽ làm
việc với Walter. Nhiều người sẽ không thích thế đâu. Nhưng tôi cũng sẽ cư xử
với họ như thế.

- Xin cám ơn
Thủ tướng.

Karshov dừng
lại một chốc. Morton lắng nghe ông nói tiếp:

- Tôi cũng đã
ra lệnh cho các phòng thí nghiệm bắt đầu chế tạo nhiều chất men PEG rồi. Nhưng
ta phải giữ bí mật để tránh gấy ra cảnh hoảng sợ. - Karshov vuốt một bàn tay
lên mặt. - Và tôi cũng muốn anh có mặt ở đấy để nghe điện đàm thượng đỉnh
luôn.

- Dĩ nhiên là
tôi sẽ có mặt ở đấy.

Morton bước về
phòng họp khẩn lại. Máy Honeywell vẫn đang dò tìm. Ông điều chỉnh máy vi tính
để máy báo động vào máy bíp của ông khi nó làm xong nhiệm vụ, rồi một lần nữa
ông lại bước ra khỏi phòng.

Lila đứng trên
bờ của bể nước, chị nhìn chai nước hoa chị buộc vào một mảnh gỗ nhẹ đang từ từ
trồi theo dòng nước đến cửa ống cống. Khi chị không còn thấy cái chai nữa, chị
bèn bước lui, leo lên chiếc xe thuê, lái băng qua thảo nguyên hướng về
Johannesburg.

Trời đã xế
chiều, và chị vẫn còn dư thì giờ đến phi trường để đáp chuyến bay mười giờ đi Nairobi. Từ đấy, chị sẽ
đi tiếp trên chiếc Luthansa đến Athens.
Việc thay đổi chuyến bay một mạch của hãng Olympic này như người quản lý khách
sạn đã nói, chỉ là một đề phòng theo thường lệ mà thôi. Gặp trường hợp này thì
cũng chả sao. Chỉ trong vòng vài giờ nữa thôi, sẽ không còn ai sống sót ở
Trekfontein để có thể miêu tả hình dạng của chị cho thế giới biết nữa.