Săn đuổi - Chương 22 - Phần 2

Màn hình ở Washington trống đi. Morton cảm thấy không khí quanh ông đều căng thẳng. Nhiều người có thể bị sa thải vì gặp phải chuyện như thế này lắm. Bỗng một nút trên tủ máy của viên sĩ quan Trung tâm truyền tin bật sáng lên. Viên sĩ quan nhấc lên, lắng nghe rồi quay qua Morton:

- Trưởng Tham mưu Tòa Nhà Trắng đấy. Họ đang nối đường dấy đến phòng ngủ của Tổng thống.

Morton càu nhàu. Một lát sau, mặt của Tổng thống Mỹ xuất hiện trên màn hình. Mặc dù mái tóc bị bờm xờm, nhưng ông ta vẫn nhắc Morton nhớ đến Jack Kennedy. Tổng thống đang mặc áo ngủ. Ông ta nhìn ra ngoài màn hình.

- Ông Morton, tôi đoán chắc có chuyện tối quan trọng, ông mới đánh thức tôi dậy khuya khắt như thế này.

- Tôi xin lỗi đã thức ngài dậy, thưa Tổng thống. Tôi gặp phải một vấn đề khó khăn mà chỉ có ngài mới giải quyết được. Và tôi cần ngài giải quyết ngay bấy giờ.

Tổng thống mím môi. - Chuyện gì thế?

- Chuyện về Appleton. Ông ta đã chen vào công việc của tôi. Tôi đã gọi điện thoại gặp ông ấy, xin ông ta dừng lại rồi. Nay tôi xin ngài chặn ông ta lại giúp tôi.

Morton nhìn khuôn mặt trên màn hình. Nét mặt giận dữ vì Tổng thống không hay biết gì hết.

- Ông cho tôi biết chuyện gì xảy ra thế, ông Morton. Kể hết đi.

Morton kể cho ông ta nghe. Im lặng một hồi rồi Tổng thống lên tiếng. Giọng ông nghe lạnh lùng:

- Được rồi, ông Morton. Tôi tin chắc ông Appleton đã có ý đồ đen tối rồi đấy. Tôi xin cam đoan với ông là ông ta sẽ không làm cho ông bị phiền lòng nữa đâu.

- Xin cám ơn Tổng thống.

Morton nhìn Tổng thống đưa tay vuốt tóc.

- Tôi chắc ông chưa có tin gì để tái triệu tập một cuộc điện đàm thượng đỉnh nữa chứ?

- Dạ chưa, thưa Tổng thống.

- Xin chúc ông ngủ ngon, ông Morton. - Màn hình trống trơn.

Morton đứng dậy. Ông nhìn quanh. Vị Sĩ quan Trung tâm truyền tin và các kỹ thuật viên nhìn ông kinh ngạc.

Morton im lặng bước ra khỏi ca bin rồi bước xuống thang máy bay. Muller vẫn đợi ông bên xe hơi. Ông ta cầm một tập hồ sơ trong tay. Ông ngạc nhiên nhìn Morton, rồi hỏi ông vừa làm gì. Morton nói cho ông ta hay.

- Trời ơi! - Ông ta thốt lên. - Ông gọi Tổng thống Hoa Kỳ à? Ông đã làm thế à? - Trời ơi!

Morton cười. - Thì có khó khăn gì đâu. Kẹt lắm thì ông cũng phải gọi cho Thủ tướng của ông chứ.

- Nhưng Tổng thống Hoa Kỳ... - Muller lắc đầu, rồi mở hồ sơ ra, ông nói: - Đấy, giấy phép của ông đấy. Chiếc xe kia sẽ chở ông đến đấy.

Ông ta cúi đầu chào gượng gạo rồi bước lại vào chiếc Mercedes. Người tài xế chiếc xe kia đang mở rộng cửa. Cô ta nghiêm trang chào khi Morton bước vào xe.

Khi Bill Hardman mở cửa ngôi nhà có hàng hiên bao quanh nhìn xuống con sông Thames ở Putney, anh liền nghe bước chân trẻ con chạy trên thảm ở phòng khách. Bước chân chạy vội vàng. Cách đấy một thế kỷ, vùng này toàn bộ là nhà lá của dân lao động. Bấy giờ thì hầu hết là nhà cửa của những nhân viên điều hành ngành truyền hình và các chủ tư bản đang phất lên, hàng ngày đi vào thành phố làm việc bằng đường sông. Ngôi nhà của Bill tọa lạc ở một ngã tư, cho nên anh có thể xem rất rõ ràng cảnh đua thuyền của trường Oxford và trường Cambridge khi họ chèo qua dưới cầu Putney.

Mở cửa ra là anh gặp ngay Amy, cô bé lên bảy rất dễ thương, rồi đến Debra hiện ra, cô bé đã lên mười một, cho nên trông nghiêm trang chững chạc hơn. Thả hành lý xuống, anh ôm hai con vào lòng, anh cảm thấy nhịp tim của hai con mình đập mạnh dưới lớp áo học trò. Anh ôm chặt hai con vào lòng rồi bước vào nhà, vừa khi Fiona từ trong bếp bước ra. Chị không đẹp bằng Amy, mà trông giống Debra hơn.

- Bill! Em lo quá, cứ sợ xảy ra việc gì.

Anh hôn chị rồi vội kể cho chị nghe chuyện chậm trễ ở Frankfurt và Luton. Rồi anh lại hôn chị.

- Bố! - Amy nhỏ nhẻ nói, thái độ hân hoan sung sướng. - Mẹ muốn được hôn nữa đấy!

- Xì! - Debra nói. - Cô Fortescue đã dặn đừng quấy rầy người lớn.

Cô Fortescue là hiệu trưởng trường tư thục hai cô bé đang theo học.

Ông bố nhìn hai con rồi cười, vẻ ân hận. - Họ tịch thu hết quà của hai con rồi.

- Ôi, bố, không! - hai đứa cùng la lên, vẻ vô cùng thất vọng. - Họ tại sao lại tịch thu được?

Anh kể cho cả nhà nghe về chuyện anh đã đoạt được giải quảng cáo nước hoa, và có hy vọng là cả nhà được mời đến Athens để tham dự lễ phát mãi. Amy tỏ ra thích thú, còn Debra cũng bớt vẻ nghiêm nghị, cô bé có vẻ phấn khởi lên. Fiona thì lắc đầu, chị có vẻ phân vân.

Bill quay lại, mở vali, lấy ra chai Đêm Hy Lạp.

- Ôi, bố! - Amy la lên. - Chai đẹp quá!

- Của mẹ, Amy à. - Bill nói, vừa đưa cái chai cho Fiona.

- Cho cả nhà dùng thử đi. - Amy đề nghị.

Debra lắc đầu bảo em. - Cô Fortescue đã dặn chúng ta không được xức nước hoa khi đi học.

Cô em có vẻ tiu nghỉu. Fiona nhìn cả hai con. - Này, nếu mẹ không đưa hai con đi học, cô Fortescue sẽ la rầy đấy. - Rồi Fiona quay qua Bill:

- Bấy giờ anh đi tắm rửa đi, em sẽ mang thức ăn điểm tâm vào giường cho anh khi em về. Để va li đấy, em sẽ soạn ra cho anh.

Anh hôn cả nhà thêm lần nữa, rồi bước lên lầu. Amy nhìn vào cái chai.

- Mẹ à, cho con một giọt đi, được không? Cô Fortescue không ngửi thấy được đâu.

Fiona cười với Debra. - Mẹ thấy cũng đúng đấy.

Cô chị gật đầu. Fiona mở nút chai ra. Rồi chị chấm một tí nước hoa lên má các con gái và sau hai tai của chị. Mùi thơm thật dễ chịu. Chị vặn nút lại.

- Rồi, các con đi học đi.

Hai cô bé lấy cặp đi học. Từ trên lầu, vọng xuống tiếng nước chảy.

Fiona định để cái chai lên kệ trên máy sưởi phòng khách, thì Debra chặn chị lại.

- Em này, nhà mình đang mua bán cái gì?

- Đang hợp tác mua nước cho Sudan. - Amy nhắc nhở mẹ.

- Không phải nước. Mà máy để lọc nước. - Debra chỉnh lại.

- Chúng ta phải mang biếu gì chứ. - Amy nói. - Cô Fortescue đã nói rồi mà.

- Ô, lạy Chúa, mẹ quên phắt mất! - Fiona nói. - Mẹ cứ ngỡ là tuần sau cơ. Ta sẽ mua cái gì trên đường đi cũng được.

Dervla lắc đầu.

- Không có thì giờ đâu, mà cửa hàng cũng chưa mở cửa mà.

- Cô Fortescue chắc sẽ giận lắm đấy, mẹ à. - Amy nói nho nhỏ, mặt bé gần muốn khóc.

Fiona nhìn cái chai. Thực tế là chị không muốn biếu đi quá sớm như thế, nhưng hai cô gái có vẻ thất vọng quá.

- Biếu cái này được không?

- Quà của bố biếu mẹ mà. - Amy phản đối.

- Mà chai lại mở ra rồi! - Debra nói thêm.

- Mẹ chắc là bố không để ý đâu, Amy à. - Fiona vừa nói vừa cẩn thận vuốt cái dấu khằn lại cho ngay ngắn. Dùng vào việc cho các con, chắc Bill cũng thông cảm thôi. Chị đưa cái chai lên xem lại. - nào, trông có suy suyển gì đâu? - Rồi chị đưa chai nước hoa cho Debra.

Cách đấy ba dặm, trong nhà bếp của ngôi nhà chung cư, Faruk Kadumi đang chuẩn bị để hoàn tất công việc. Hắn ta loay hoay trong bộ áo quần bảo hộ, soi người trong tấm cửa kính ở lò bếp để xem cái mũ trùm đầu có phủ kín hai vai không. Hắn từ từ thở qua chiếc mặt nạ, vừa lê bước đến cái tủ lạnh, hắn mở ra.

Những ống nghiệm đậy nắp kín đáo xếp từng dãy trên nhiều kệ, ở dưới đáy tủ lạnh là cái chai còn đầy, và cái chai đã trống trơn. Hắn khó khăn cúi xuống tủ, lấy cái chai còn đầy ra. Hắn để trên quầy bếp, rồi đóng tủ lạnh lại.

Hắn đưa cái chai vào trong một vòi nước nóng cho đến khi chất đựng trong chai lỏng ra. Hắn lấy một cái ống tiêm, hút ra một lượng nhỏ vi rút bệnh than B.C sền sệt, bơm vào trong một ống nghiệm. Rồi hắn cẩn thận cho nước muối vào trong ống, đậy nút lại, lấy sáp trong gắn chặt lại.

Trong một giờ đồng hồ, hắn đổ đầy tất cả những ống nghiệm còn lại cho vào tủ lạnh. Hắn để cái chai trống trơn thứ hai bên cạnh cái chai kia. Hắn cởi áo chưa xong thì chuông cửa reo vang. Faruk Kadumi sợ điếng cả người.

Nhân viên của Effendi đến tối mới đến lấy những ống nghiệm cơ mà, sau khi hắn đã gọi Effendi để xác định số lượng bao nhiêu ống. Rồi hắn sẽ bay đi Paris, và qua Algiers. Hắn sẽ ra khỏi đấy trước khi những người lấy ống nghiệm đến. Hắn chỉ biết là mỗi người đều có rèn một chìa khóa căn phòng giống nhau.

Chuông cửa reo liên hồi.

Khi Faruk Kadumi lặng lẽ bước ra phía hành lang, thì tấm bảng trên hộp thư mở ra và có một giọng nói gọi vào.

- Cảnh sát đấy. Có ai trong nhà không?

Faruk Kadumi nghiến răng, nín thở. Hắn cảm thấy đầu óc quay cuồng, hai thái dương giật giật. Tại sao chúng lại đến? Chúng muốn gì đấy? Sau một hồi, tấm bảng trên hộp thư khép lại. Faruk Kadumi thở dài nhẹ nhõm, đầu bớt choáng váng nhưng hắn không tài nào giữ cho khỏi run.

Bên ngoài cửa có tiếng than phiền với nhau: - Giờ này mà không có ai ở nhà hết! Vô lý quá nhỉ? Đấy là khu lao động mà.

- Nếu anh hỏi tôi thì cũng bằng thừa. Tôi chỉ muốn biết họ hỏi làm quái gì những cái số năm ra đời của mấy cái máy này mà thôi?

Faruk Kadumi nghe tiếng càu nhàu đồng ý. Rồi cái bừng mở ra lại. Một tờ giấy rơi xuống nền nhà. Hộp thư đóng sầm lại. Một lúc sau, có tiếng gõ cửa ở phòng bên kia hành lang.

Đợi cho đến khi nghe tiếng một phụ nữ mời cảnh sát vào phòng, Faruk Kadumi mới ra phòng khách, lượm tờ giấy lên xem. Tờ giấy có hàng chữ đầu: "Thông báo của cảnh sát". Bên dưới là lời tuyên cáo của Sở cảnh sát Scotland Yard truyền lục soát từng nhà để tìm số ra đời của tất cả máy fax, nhân viên đi lục soát được quyền tịch thu bất cứ máy nào. Trong trường hợp tịch thu, sẽ có biên nhận giao cho gia chủ. Không giải thích khi đi lục soát, ở cuối tờ giấy thông báo ghi rõ là cánh sát vì không gặp được chủ nhà, cho nên sẽ trở lại sau. Không thấy ghi ngày giờ trở lại.

Faruk Kadumi lại càng run cầm cập. Thế là chúng đã biết về tin hắn gởi đi. Bấy giờ chúng đang tìm hắn. Chắc là hắn không nên dùng điện thoại hay máy fax nữa rồi. Hắn phải gọi cho Effendi ở máy điện thoại công cộng tại phi trường.

Hắn nghe tiếng gõ cửa của cảnh sát đi dần về cuối hành lang. Hắn không dám rời nhà cho đến khi cảnh sát đã đi khỏi khu phố. Nhưng như thế thì lâu lắm. Hắn lại càng run rẩy thêm nữa.

Người Trưởng đội Cải Tổ Nhanh đưa mắt nhìn chằm chằm vào Matti khi anh bước qua căn nhà, ông ta cầm một tấm bảng kẹp giấy tờ trên tay. Trong vòng mấy giờ, ông và nhân viên của ông đã thiết lập một tổng đài nho nhỏ và nhiều máy móc cũng như thêm vào một máy vi tính và ba máy fax nữa, một máy có đường dấy nối thẳng đến Langley.

Đồ đạc trong phòng khách được thay thế bằng một dãy bàn ghế làm việc kê áp sát vào tường. Những buồng dã chiến được trang bị máy nghe băng kê sát theo nhau. Những chiếc giường xếp kê trên nền nhà.

- Tôi không tin họ có thì giờ để dùng những thứ này, - Ông trưởng nhóm có mái tóc hoa râm cười nói. - Nhưng cũng đã tạo ra được một phòng chiến đấu di dộng rồi đấy.

- Các anh đã làm việc số dách rồi. - Matti nói. - Một cái nhà ly hương cho những chuyện viên của thiếu tá Nagier.

Ông Trưởng ban cười xòa, đưa cái tập kẹp giấy ra: - Xin anh ký cho, tôi còn ra ngoài xem một vị trí quanh Sweetmont cho lính của Danny nữa. Những chỗ ấy còn chua cay hơn cả những nơi như đấy nữa. Ở đấy không ai chú ý khi đi khi về. Còn địa điểm như Sweetmont thì ai cũng thấy ớn hết.

Khi Matti đưa ông Trưởng ban ra cửa, anh vừa mới đóng cửa lại thì chuông điện thoại reo. Mirian gọi từ Trung tâm thành phố.

- Matti, lại chuyện về Nancy Carson đấy.

- Cô ta ra sao?

- Tệ lắm. Nặng thêm lên. Bệnh viện chăm sóc cô ta rất ráo riết. Cô ta có nói với ông y tá chuyện lạ lắm. Cô y tá nói cho em nghe và em chắc anh rất muốn biết chuyện này. Mà xem ra thì chẳng có gì...

- Nói cho anh nghe đi, Mirian. - Matti nhẹ nhàng ngắt lời cô. Anh rất ngạc nhiên, vì khi nào cô ta cũng không tin tưởng những chuyện xảy ra ngoài lãnh vực nghề nghiệp của mình hết.

- Nancy đã bị cướp giật ở phi trường Kennedy. Một tên đã cướp quà tặng của cô ta.

Matti dịu dàng nói:

- Việc ấy thường xảy ra luôn mà. Rất thường. Đáng buồn đấy. Quà gì thế không biết?

- Bởi thế mà em gọi đến cho anh hay. Có hai chai mà nghe ra là loại nước hoa rất đắt tiền. Cô ta nói cô ta đã mở ra một chai và xức lên mặt. Loại mới ra, em chưa hề nghe tên, loại gì có tên Hy Lạp đấy. Vả lại, vì tình trạng cô ta quá nặng, cho nên em phải cho thử huyết thanh. Cô ta ngứa ngáy khắp mình mẩy, lại thêm những triệu chứng về phổi...

- Em đợi anh một lát nhé, được không?

Matti chạy vào phòng mật, lấy lên một bức fax. Đấy là tờ lệnh khẩn của Danny đã gởi đến kèm theo tờ phô tô cái nhãn chai nước hoa và bức hình. Tờ nhãn còn đọc được, nhưng bức hình thì bị mờ hơn khi phát đi. Anh chạy lại phòng ngủ, nhấc điện thoại lên.

- Tên loại nước hoa ấy là Đêm Hy Lạp, phải không Mirian?

- Đúng rồi. Tại sao anh biết được?

- Mirian, anh phải nói chuyện với Nancy. Chuyện rất quan trọng. - Matti vội vã nói. - Em thu xếp cho anh đi.

- Nếu cô ta nói được thì em sẽ thu xếp cho anh ngay. Cô ta hiện trong tình trạng bán hôn mê mà. - Marian đáp. - Anh có thể xem đấy như là loại sưng phổi vậy thôi.

- Mirian, nghe anh nói đấy, cô ta không phải sưng phổi đâu...

Mirian nói gay gắt: - Anh đang nói cái gì thế, Matti?

- Anh không phải bác sĩ, Mirian à. Nhưng cái chai ấy chắc là chứa vi rút bệnh than B.C đấy. Phải tìm cách để anh hỏi xem cô ta làm sao mà cô ta có hai chai ấy được?

- Matti, nghe em nói đấy. - Mirian gắt gỏng nói. - Bấy giờ không có cách nào mà anh hay bất kỳ ai hỏi han gì Nancy được đâu. Cô ta rất nguy kịch và chắc là cô đã bị sưng phổi trầm trọng. Trong các lần thử nghiệm thì không có gì cho thấy như thế. Nếu phân tích huyết thanh có gì lạ, em sẽ cho anh biết liền.

Cô ta cúp máy không một lời tạm biệt. Matti biết lần này không phải vì thói quen, mà là vì giận dữ.

Khi anh trở lại phòng khách, máy truyền hình anh mở đang chiếu những tin tức thời sự địa phương. Tin hàng đầu vẫn là tin cách đấy gần một tuần, tin những thi hài mới tìm thấy nữa trong những vụ đánh bom khách sạn. Tin cập nhật nhất là tin săn lùng bọn đánh bom. Giới tài phiệt Wall Street đã thưởng một triệu đô la cho ai bắt được chúng. Như vậy là con số tiền thưởng sẽ lên đến bảy triệu đô la.

Tin thứ ba là tin tai nạn đặc biệt xảy ra ở khu xa lộ Connecticut Expressway vào xế chiều hôm trước. Theo phim chiếu cảnh xảy ra tai nạn, phóng viên thời sự cho biết một chiếc taxi đã mất tay lái đâm vào một chiếc xe chở dầu. Lửa đã giết chết cả hai tài xế. Nhân viên cấp cứu xuất hiện trên màn hình trả lời phỏng vấn cho rằng tai nạn kéo dài quá lâu. Đoạn đường này nổi tiếng là rất nguy hiểm khi phóng nhanh. Một sĩ quan cảnh sát nói rằng tai nạn xảy ra là do xe taxi đã nổ cả hai lốp.

Người phóng viên đã nhận diện được người tài xế xe tải chở dầu ở ngoài tiểu bang. Còn anh tài xế taxi tên là Muktar Sayeed, một người còn độc thân sống ở Queens. Anh ta lái xe cho Công ty xe taxi Day Nite đã một năm nay. Theo người phóng viên cho biết thì công ty xe taxi này là của người Ả Rập giàu có đầy lòng nhân ái tên là Rachid Harmoos. Người phóng viên không bình luận, chỉ cho biết nạn nhân rời nhà ở Sweetmont một lát sau là xảy ra tai nạn.

Matti viết vội tên Muktar Sayeed lên giấy rồi vào phòng mật.