Săn đuổi - Chương 26 - Phần 2
Họ im lặng khi xe chạy trên đoạn đường đến tòa nhà giăng đầy ăngten trời ở vùng phụ cận Paris ở Tournelles, chạy đến bộ chỉ huy của các cơ quan lưu trữ hồ sơ và phản gián. Hầu hết những người làm việc ở đấy đều gọi nơi này là Bể Bơi, vì nó nằm gần những hồ bơi công cộng.
Khi họ bước ra khỏi cầu thang dẫn xuống tầng hầm thì vị bác sĩ tâm thần đang đứng đợi. Ông ta cười theo lối Trung Hoa, những nếp nhăn quanh hai khóe mắt hằn sâu rõ nét. - Ông ta cúi chào kiểu cách:
- Giáo sư Wang. - Ông ta giới thiệu nho nhỏ bằng tiếng Anh khá chỉnh. - Tôi rất hân hạnh được gặp ông. Xin ngài theo tôi vào.
Người Trung Hoa quay lại, dẫn họ vào một văn phòng nhỏ, bừa bộn. Trong phòng phảng phất mùi thuốc; Morton nhìn qua một cánh cửa hé mở, ông thấy một kho thuốc.
- Tài liệu từ Tel Aviv gởi qua có giúp gì cho ông không, thưa giáo sư. - Morton hỏi, ông tựa lưng vào tường. Trước khi rời khỏi Luân Đôn, ông đã yêu cầu Chantal thu thập những tài liệu nói về cá tính của bọn khủng bố rồi gởi sang.
Giáo sư Wang thở dài.
- Hắn ta không thuộc vào những loại đó. Hắn lớn tuổi hơn, phức tạp hơn nhiều. Hắn lại là bác sĩ.
Ông ta quay sang bàn làm việc, lấy lên một tập hồ sơ:
- Tôi đã suy nghĩ kỹ và xếp hắn vào loại "nghi ngờ bị điên loạn" vì thấy hắn bị rối loạn cảm xúc.
- Cũng chưa phân biệt được rõ ràng. - Lacouste vui vẻ đáp.
Giáo sư trang trọng gật đầu. Ông ta đưa hồ sơ cho Morton, rồi nói nho nhỏ: - Một bác sĩ phẫu thuật... thật đáng buồn.
- Hắn đã lựa chọn mà, thưa giáo sư. - Morton nói, ông nhìn vào một vài chi tiết do mật vụ Pháp thu thập về Faruk Kadumi. Ông đưa lại tập Hồ sơ cho ông giáo sư.
- Bao lâu nữa tôi mới được gặp hắn?
- Ngay bấy giờ, nào, mời ông.
Ông giáo sư dẫn họ ra ngoài văn phòng, đi dọc theo hành lang. Đến cuối hành lang, ông ta mở một cánh cửa. Bên trong lại có hai cánh cửa nữa ráp vào tường. Ông ta mở một cánh.
- Đấy là phòng "kiểm soát". - Ông ta giải thích, vừa chỉ cái máy lớn cao bằng chiếc bàn kê ở giữa phòng. Một ô vuông để quan sát gắn vào một bức tường. - Hắn không thấy hay là không nghe chúng ta được. - Ông ta ra dấu cho Morton và Lacouste theo ông ta đến ô vuông.
Bên kia ô vuông là phòng giam, Faruk Kadnmi quấn một cái chăn quanh vai cho khỏi lạnh.
- Việc kiểm soát những hiện tượng kích thích lên cơ thể là rất quan trọng. - Ông giáo sư nói tiếp. - Sự thay đổi nhiệt độ làm suy yếu sức đề kháng đi. Ngay bấy giờ chắc hắn cảm thấy như đang ở trong tủ lạnh. Các ông nhìn kìa.
Ông giáo sư quay lui, bước đến cái tủ máy. Ông ta bấm nhiều nút rồi kiểm tra kim chỉ trên các mặt đồng hồ. Vừa ý rồi, ông ta bước đến đứng với Morton và Lacouste.
Và họ thấy hơi thở Faruk Kadumi hổn hển bốc hơi khi hắn loạng choạng bước đến cửa phòng giam và đưa hai tay đấm vào cánh cửa sắt lạnh ngắt, hắn rên rỉ xin được thả ra. Thế rồi, quấn chặt người trong tấm chăn, hắn lăn xuống tấm nệm, người run lên và thổn thức khóc.
Có tiếng chuông báo động reo lên nơi thùng máy. Giáo sư Wang đến chỉnh lại cho nhiệt độ được mát. Rồi ông ta nói: - Nào, chúng ta đợi ở văn phòng của tôi. Không lâu đâu.
Trong phòng giam, khí lạnh được thay thế bằng hơi nóng như lò lửa không chịu được. Mồ hôi ướt đẫm cả người Faruk Fadumi. Hơi nóng như toát ra từ trong tường và nền nhà, môi và cuống họng khô khốc. Phòng giam trở nên tối hơn, chỉ một ngọn đèn nhỏ trên trần nhà tỏa ánh sáng mờ mờ mà thôi.
Có cái gì đang xảy ra trên đầu hắn; tiếng kêu vo ve khắp phòng giam? Faruk Kadumi sợ sệt nhìn lên ánh sáng lờ mờ. Trên trần nhà có những lỗ mở ra. Rồi bỗng ánh sáng chói chang chiếu vào đầu hắn, làm cho đầu nóng ran. Hắn cảm thấy hai mi mắt khô cứng lại. Rồi ánh sáng chói chang kinh khủng ấy tắt đi thình lình như khi nó sáng lên.
Trong ánh sáng lờ mờ, cơn nóng lại càng lúc càng tăng lên.
Khi điện thoại trong văn phòng reo lên, mọi người đều im lặng. Ông giáo sư nghe điện thoại rồi đưa cho Lacouste. Vừa nghe, mặt ông ta sa sầm lại.
- Plastích à? - Ông hỏi. - Bao nhiêu? - Ông ta để điện thoại xuống.
- Chúng bắt đầu lại. Mấy quả bom nhỏ nổ ở Cảng nhỏ và điện St. Michel. - ông ta vui mừng nói tiếp. - Lạy Chúa, không ai chết hết. Lần này chắc chúng chỉ cảnh cáo thôi.
- Có lẽ để lưu ý chính phủ của anh đừng đổi ý đấy, Pierre à.
- Họ đã chuyển bọn cảm tử quân ra phi trường rồi. - Lacouste nói.
Vị giáo sư đưa tay xem đồng hồ.
- Hắn sẵn sàng được rồi đấy. - Ông ta nói, giọng nhẹ nhàng khiến cho Morton nhớ đến một người làm nghề tống táng ông đã gặp ở Hồng Kông.
Ông nói với ông giáo sư những gì ông cần đến.
- Tôi cần hai người đàn ông lực lưỡng. - Morton nói với Lacouste.
Trong lúc ông giáo sư đi vào phòng thuốc. Lacouste gọi điện thoại. Trong khi đứng đợi, Morton đọc lại hồ sơ của Faruk Kadumi. Khi hai thám tử lực lưỡng đến, Morton dặn dò họ công việc. Lặng lẽ, ông dẫn họ ra khỏi văn phòng.
Sau khi đến phòng kiểm soát để chỉnh lại ánh sáng bình thường ở trong phòng giam, ông giáo sư mở cửa.
Khi Morton và những người khác bước vào, một làn không khí lạnh phả vào người họ. Họ đứng hàng dọc theo một bức tường, không nói năng gì, chỉ nhìn vào con người áo quần xốc xếch, tóc tai bờm xờm tội nghiệp đang nằm trên tấm nệm.
- Xin chào bác sĩ Kadumi. - Morton nói bằng tiếng Ả Rập, ông bước tới trước. - Ông biết tại sao ông ở đấy không?
Faruk Kadumi nhìn ông kinh ngạc vô cùng. Hắn hỏi: - Ông biết tôi à?
Morton gật đầu đáp:
- Tôi biết hết về ông. Effendi nói cho tôi biết. Tôi biết chuyện về ông với Arish.
Faruk Kadumi mải nhìn ông, mồm há hốc.
- Ông là ai?
Lại một lần nữa Morton tảng lờ như không nghe.
- Tôi biết về những chai nước hoa. - Ông nói tiếp bằng giọng đều đều, chắc nịch, như là ông đang kể lại những gi đã rành rành ra đấy rồi. - Raza đã thất bại rồi. - ông nói tiếp. - Ông cũng thất bại rồi.
Morton bước đến gần hơn, tính toán khoảng cách giữa sự chế ngự và sự đe dọa.
- Tôi không biết ông đang nói gì. - Faruk Kadumi nói, hắn cố ngồi dậy.
- Ông biết chứ! Tôi đã biết về những bức fax của ông. Về những gì đã xảy ra cho cô gái ở Athens. Và Lila nữa. - Morton lại nói. - Ông đã bị nhiều người phản bội rồi.
- Không! - Faruk Kadumi hét toáng lên trong phòng giam. - Không! Ông nói láo! ông là một tên Do Thái! Một tên phục quốc Do Thái gớm ghiếc đang cố bẫy tôi!
Morton nhìn hắn một cách lãnh đạm.
- Ông có trả lời tôi không?
- Không! Không bao giờ!
- Được rồi.
Morton quay lại những người khác rồi gật đầu. Hai thám tử bước đến, bẻ quặt tay Faruk Kadumi đè xuống nệm. Vị giáo sư lấy trong túi ra một ống kim tiêm và một cái chai nhỏ, nút chai đóng rất kỹ lưỡng. Ông ta lấy cái nắp đậy kim ra rồi chích kim qua nút vào trong chai, hút ra một lượng chất lỏng trong veo.
- Chúng tôi đã tìm ra cái này ở Athens. - Morton nói với Faruk Kadumi. - Trong này còn đủ vi rút bệnh than B.C. để giết hàng trăm người. Ông sẽ được chích thứ này vào người và để cho chết ở đấy.
Vị giáo sư bước đến bên giường cầm ống tiêm dốc đứng lên như thể không muốn để mất giọt nào hết.
- Không! - Faruk Kadumi la lên, cố vùng khỏi tay hai thám tử. Họ đè đầu hắn xuống nệm, quay mặt lên để nhìn thẳng Morton.
Bỗng trong phòng có mùi nước tiểu xông lên vì Faruk Kadumi không kiềm chế được, đã tè ra quần.
Morton cúi người xuống bên giường. - Bác sĩ Kadumi, tôi phải thông báo cho ông biết một số sự thực. - Morton nói bằng giọng có vẻ buồn và thương xót. - Không ai biết ông ở đấy hết. Ông vừa biến khỏi mọi người. Không ai có thể ngăn được những gì sẽ xảy đến cho ông được hết.
Morton cứ cúi người như thế một hồi lâu, nhìn sát vào mặt Faruk Kadumi làm như ông muốn nhìn kỹ cho nhớ.
Vị giáo sư đứng sau lưng ông, ống tiêm sẵn sàng.
- Chích đi. - Morton bỗng đột ngột nói, ngẩng người lên một cách nhanh nhẹn, cương quyết.
- Không! Các ông muốn biết cái gì? - Faruk Kadumi la lên. - Làm ơn, đừng làm thế! Làm ơn, ôi, xin đừng...
Hắn bèn khóc nức nở. Những người khác lặng lẽ nhìn nhau, rồi nhìn Morton. Hắn hậm hực nhìn xuống giường.
- Nói sự thực đi, bác sĩ Kadumi. - Morton nhẹ nhàng nói. - Tôi muốn biết sự thực. - Ông có hiểu không?
Sau một hồi, hắn ngừng khóc, rồi hắn nhẹ gật đầu.
- Thế là rất tốt. Ở Luân Đôn, ông ở đâu? - Morton hỏi.
Khi nghe xong, Lacouste bước ra ngoài phòng, gọi cho Fuller.
Họ trải qua với nhau suốt một giờ. Chỉ có dừng lại để cho các thám tử theo Faruk Kadumi vào toa lét, trong toa lét họ canh chừng hắn thay quần lót do ông giáo sư lén đưa cho. Ông giáo sư cũng chỉnh lại nhiệt độ trong phòng giam để cho mọi người được dễ chịu hơn. Sau đó, ông bác sĩ tâm thần đem đổ nước cất ở trong ống tiêm đi.
Faruk Kadumi đành nghiến răng chấp nhận thôi. Con người này đã biết hết rồi. Anh ta biết hết. Cứ nghe cái giọng nói tàn nhẫn, tự tin như thế kia thì đủ biết rồi.
Để cho nhanh, Morton gật đầu ra dấu cho hai anh thám tử và ông giáo sư ra khỏi phòng giam. Ông nghe tiếng bước chân đi lui đi tới bồn chồn ở bên ngoài cánh cửa mở rộng.
Lần lượt nêu ra những câu hỏi mạch lạc, ông đã nhanh chóng khám phá ra đầy đủ chi tiết về vi rút bệnh than B.C đã được chuẩn bị ra sao và ở đâu. Ông bảo Faruk Kadumi miêu tả bên trong cái pháo đài dưới cát và việc liên lạc giữa hầm này với ngôi nhà. Ông lấy làm hài lòng khi thấy việc miêu tả của hắn giống với việc miêu tả của Shema. Ông bảo Faruk nói đầy đủ thời gian hắn ở Luân Đôn cho đến lúc hắn bắn chết Arish.
- Tôi phải giết hắn. - Faruk Kadumi nói nho nhỏ.
Morton gật đầu. Không cần nữa rồi. Bấy giờ thì khỏi cần.
- Bọn đến lấy hàng là ai thế?
- Tôi không biết.
Một lần nữa, Morton quay lại chuyện những chai nước hoa.
- Anh chuẩn bị được bao nhiêu chai ở Li Bi.
- Một trăm.
- Và mấy cô gái Hy Lạp mang hết đi Athens à?
- Vâng. Chỉ trừ một chai Lila đem đi Trekfontein.
- Chất lượng chai ấy cũng như những chai khác à?
Faruk Kadumi gật đầu.
Morton dừng lại, tính toán. Một chai ở Nam Phi, ba chai ở nước Anh, ít ra là một chai ở Hoa Kỳ. Thế là còn đến chín mươi lăm chai chưa tính đến. Bao nhiêu chai bị hủy trong vụ cháy xe dầu? Dựa trên những thiệt hại xảy ra ở Trekfontein, số vi rút bệnh than còn lại sẽ tiêu diệt cũng gần như triệu người là ít.
- Anh sẽ nhận thêm bao nhiêu chai nữa?
- Tôi chưa biết.
- Còn các mục tiêu để rải ở đâu?
Faruk Kadumi lại lắc đầu: - Tôi không được họ cho biết.
Morton nhìn ra cửa. Lacouste đến rồi lại đi.
- Tại sao anh lại đi Hoa Kỳ?
- Họ cũng chưa cho tôi biết.
- Có phải anh sẽ đến Sweetmont không?
Faruk Kadumi mệt mỏi nhìn ông, hắn hỏi: - Ở đâu?
Morton bước tới gần hắn:
- Rachie Harmoos. Anh đã nghe nói về hắn chưa?
Faruk Kadumi lại lắc đầu.
- Dĩ nhiên là tôi biết hắn. Nhưng tôi không biết hắn có dính dáng gì đến chuyện này không.
- Còn tên Lãnh đạo Hồi giáo Muzwaz thì sao? Hắn ta chỉ chi tiền thôi sao?
- Tôi không biết.
Morton nhìn hắn chằm chằm. Faruk Kadumi đã nói sự thật đấy. Cho nên ông đã cố che giấu sự thất vọng của mình.
- David. - Lacouste trở lại trước cửa, vẫy tay ra dấu.
Ông ta giận tái mặt, tay cầm một tờ giấy. Khi Morton bước ra cửa gặp ông ta, Lacouste nói nho nhỏ, giọng bực tức:
- Ngưng lại ngay!
- Cái gì thế?
- Hắn được thả rồi. Nhìn đấy xem! - Ông ta nhìn tờ giấy ra cho Morton xem. - Lệnh thả do chính Bộ trưởng Tư pháp ký.
Morton nhìn tờ giấy.
- Tại sao thế này, pierre? - Ông trả tờ giấy lệnh cho Lacouste.
- Có điện thoại gọi đến văn phòng Tổng thống cho biết nếu không thả hắn ra, bom sẽ nổ nhiều nơi. Tổng thống vội vã ra lệnh cho hắn đi với bọn cảm tử quân luôn. Đã có xe đến đón hắn.
Lacouste nhìn về phía hai thám tử. Ông ta ra lệnh cho họ áp tải Faruk Kadumi ra phi trường Charles de Gaulle. Ông ta quay qua Morton:
- Xin lỗi, David. Tôi chỉ hy vọng ông đã có thì giờ thu thập được nhiều điều rồi. Thực tôi không xấu hổ về chuyện này.
Morton nhìn ông ta, đáp: - Đừng trách mình thế, Pierre.
Chín mươi phút sau, Morton và Shema ngồi chồm hổm trước một chiếc xe tải cảnh sát đậu bên trong hàng rào cảnh sát dày đặc bao quanh chiếc 747 của hàng không Pháp đang đậu trên sân bay Charles de Gaulle. Khi trên đường ra phi trường, Morton đã dừng lại một lát tại nhà hàng chuyện môn bán hàng đặc biệt do Lacouste báo trước rồi.
- Hãy nhớ từng đứa. - Morton nói, khi nhóm cảm tử quân bước ra khỏi ôtô để bước lên cầu thang máy bay. Trước khi vào trong máy bay mỗi đứa đều giơ tay chào theo quy cách của chúng. Chỉ có Faruk Kadumi vội vã bước lên máy bay mà chẳng có ai thèm hoan hô chào đón.
Khi chiếc máy bay chuyển bánh, Morton hướng dẫn người tài xế xe tải lái họ sang tận cuối phi trường, qua khỏi một hàng rào an ninh-nữa, để đến chiếc Concorde đang đợi họ.
Sau khi đã lên máy bay, Morton đưa cho Shema một cặp dao phóng mà ông đã mua nơi cửa hàng.