Lãnh địa rồng - Tập 1: Thung lũng Salicande - Phần 2 - Chương 18 - 02

Nhạc công Đoản Cầm

Buổi tối, tại trạm du khách, ông Blaise nói chuyện với chủ nhà trọ trong lúc chờ Ugh từ phòng tắm công cộng trở về. Ông nhấm nháp một ly rượu gừng xanh.

- Ngon thật! - Ông già người làng Salicande tấm tắc nói. - Ông bạn này, ông có thể tiết lộ cho tôi bí quyết để làm nó được không?

- Không hề có bí quyết nào cả, thầy Blaise ạ. Chỉ là thứ đồ uống thông thường thôi, để cho gừng lên men, thế thôi.

- Ô không, không chỉ có thế thôi đâu! Ông bạn biết không? Tôi đã thử cho gừng lên men cả trăm lần nhưng chưa lần nào đạt được hương vị này cả. Thứ gừng mà tôi ủ men ấy mà, bạn sẽ chẳng đời nào chịu uống đâu!

Ông chủ quán cười bả lả hoan hỉ.

- Có thể thiếu một vài thành phần nho nhỏ nào đó.

- Ừm... những thành phần mà ông sẽ chẳng muốn nói với tôi, phải vậy không?

Ông chủ quán tiếp thêm đồ uống, lắc lắc đầu, vẫn giữ nguyên vẻ hóm hỉnh.

- Có thật là, - ông Blaise tiếp tục, - thứ nước gừng có cánh mà các cậu vị thành niên uống nhân dịp lễ Dậy Thì cũng nhạy như vậy không?

- Không, rượu gừng có cánh thì khác hoàn toàn. Được làm từ gừng nhưng theo một phương thức mà tôi không thể mô tả ở đây được, dẫu tôi có muốn đi nữa bởi vì các bô lão là người nắm giữ bí mật.

- Tiếc nhỉ, vậy tôi sẽ không thể tự nhiên mà nói chuyện với những con chim được rồi? - Ông Blaise hỏi và cười thầm về câu chuyện tiếu lâm mà ông chủ quán không thể hiểu được.

- Không nguy hiểm đâu! Trừ phi... người ta không biết điều gì có thể xảy ra khi uống quá nhiều rượu gừng! - Chủ nhà trọ né tránh câu hỏi một cách thuần thục.

Có chứ! Nôn ra! Ông Blaise nghĩ, tiếp tục nhấp thêm một ngụm chất lỏng màu xanh. Ông ghét rượu gừng, và loại ông đang dùng đây có chất lượng tồi. Một lần nữa, sự hy sinh của ông là vô ích bởi ông sẽ chẳng thu được gì từ chủ quán trọ. Mỗi chuyến ngao du của mình, ông Blaise cố gắng khám phá thêm về những đặc tính bí mật của rượu gừng có cánh, nhưng người làng Hổ Phách Cổ vẫn cứ kín như bưng trước các cuộc tấn công của ông.

- Hội chợ Salicande diễn ra thế nào? Người ta kể cho tôi nghe rằng đó là một thành công lớn. Ông có đi qua cầu Chợ để đến đây không?

Họ vẫn tiếp tục trò chuyện tếu táo. Muộn hơn, khi cả hai cùng ngồi quanh một chiếc bàn khổng lồ, trên đó chễm chệ một chiếc nồi lớn, ông Blaise kể cho Ugh những thông tin nhặt nhạnh được từ chủ quán trọ. Quán trọ này đầy khách hành hương của vùng Ba Thung Lũng từ hội chợ Salicande trở về, nên ông phải nói to người nghe mới có thể nghe được.

- Anh trai ông ta là người nuôi chim và ông ta có thể đưa chúng ta tới thăm những chuồng chim gần nhất. Con thích không?

Người ngồi cạnh Ugh nghiêng người về phía cậu và nói với giọng đe dọa:

- Cháu không thích à?

Người đàn ông có bộ mặt dài nghiêm nghị nhìn Ugh không chớp mắt.

- Cháu không thích à, ng-ư-ờ-i lạ?

- Ồ, ông Đoản Cầm! - Ông Blaise kêu lên và chìa tay cho người đàn ông, người này lắc tay ông với vẻ hào hứng. - Tôi nghe nói ông đã rời khỏi vùng Ba Thung Lũng để đi thăm đại đương cơ mà!

- Ông biết-ết rồi đấy, thầy Blaise ạ. Tôi đã nhìn thấy biển-ển, biển và nhiều thứ khác-ác nữa. - Lão Đoản Cầm trả lời trong khi ông Blaise cố gắng nhớ lại xem ông có được thông tin đó từ đâu.

- Xin giới thiệu với ông, đây là Ugh. Ugh à, đây là quí ngài Semper người làng Tử Địa, còn gọi là lão Đoản Cầm, một trong những nhạc công lớn nhất mà ta từng biết.

Người nhạc công chào cậu bé bằng cách vung tay đặt lên chiếc mũ chỏm trắng tinh, nổi bật trên bộ trang phục màu sẫm, và vẫn chăm chú soi xét cậu. Ông nheo mắt và hình như mỉm cười dẫu miệng ông vẫn không hề động đậy. Nụ cười bằng mắt đó đủ làm thay đổi hoàn toàn sắc thái nghiêm nghị trên mặt ông.

- Rất vui-ui được biết-iết cháu, Ugh. Ta không biết là ông Blaise đây cũng có con trai...

Ông Blaise cố kìm một cái giật mình ngạc nhiên. Lão Đoản Cầm vẫn nhìn chằm chằm vào Ugh. Ông ta có ánh mắt nâu và nóng bỏng như hạt dẻ, Ugh thấy quý ông qua ánh mắt đó và còn quý hơn qua những gì ông nói.

- Vâng, tôi... - Blaise ấp úng - Thề có chiếc lưỡi chẻ đôi của Rắn, Đoản Cầm, làm sao ông biết điều đó?

- Cái tai-ai, người đàn ông đáp lại và nhún vai.

Sự do dự phảng phất trong cuộc hội thoại. Ugh và ông Blaise dường như bị thôi miên bởi đôi tai của nhau, và ông bạn làng Tử Địa húng hắng ho một cách lịch sự để lôi họ ra khỏi sự quan sát ngất ngây...

- Thư-ứ thứ lỗi cho sự vô ý của tôi, tôi đã nghe cuộc n-ói nói chuyện của hai người. Chỉ...

Lão Đoản Cầm, theo như lão nói, phải đưa “một ổ chim non” về gặp lại cha chú của chúng ở những chuồng chim lớn. Nhân dịp này, ông cho thuê căn nhà lăn của mình để kiếm chút tiền và vẫn còn một chỗ trống... nếu Ugh thích... Ông ta sẽ đi vào ngày kia và sẽ mang cậu bé trở lại khi xuống núi.

- Ông ở lại đó bao nhiêu ngày? - Ông Blaise hỏi.

- Hai hay ba ngày. Có vấn đề gì không?

- Gì mà giống hệt như mẹ vậy. - Ugh làu bàu khá rõ để ông Blaise có thể nghe được.

Rồi quay sang ông già Semper, cậu tuyên bố rằng cậu rất vui vì dịp này và cảm ơn một cách lịch sự người nhạc công đã tặng cho cậu cơ hội được làm quen với những cậu bé cùng tuổi. Chắc nó muốn nói: điều đó sẽ làm con thay đổi một chút so với thầy, ông già vô cảm ạ. - Ông Blaise không thể ngăn mình thầm nghĩ như thế.

Buổi tối trôi đi một cách dễ chịu. Người nhạc công làm khán phòng vui vẻ khi chơi đàn violin và hát bằng một chất giọng thanh sáng sủa. Tật nói lắp của ông biến mất, hoàn toàn bị say mê như ông vốn thế với đôi bàn tay lướt nhanh trên các dây đàn. Sự mệt mỏi đã chiến thắng Ugh và cậu leo lên phòng ngủ đầu tiên. Ông Blaise và lão Đoản Cầm ở lại một mình trong căn phòng vắng khách hành hương. Người chủ quán để lại cho họ một bếp lửa sáng rực và một chai rượu gừng mà ông Blaise đã trút hết vào gốc cây cảnh chết khô chết héo trong một góc phòng trước khi lên phòng tìm bầu rượu Salicande.

Hai người đàn ông nói chuyện rất khuya cho tới khi lão Đoản Cầm cũng về phòng mình. Ông Blaise châm tẩu lần cuối rồi ra sân hút. Ông lục tìm các túi của mình rồi lôi một cuộn giấy nhỏ bằng da mà bà Maya gửi cho. Đây chính là thứ đã cung cấp thông tin cho ông: Người đàn ông làng Tử Địa này đã từng là văn sĩ Phiêu bạt trước khi hiến mình cho âm nhạc. Maya cũng trích ngang nói thêm: “Phiêu bạt gia săn từ ngữ, đã ra đi tìm từ vựng về Đại dương”.

Lão Đoản Cầm đã ngang dọc khắp thế gian và nếu ông cũng mang về từ những chuyến đi đó những cuốn sổ đầy những từ mới và từ lạ, thì ông cũng cuốn vào mẻ lưới của mình đầy thông tin cần thiết khiến cho một người trung thực có thể ngủ yên lành.

Ông Blaise đã không dám hỏi liệu ông ta có phải là thành viên của Liên minh không. Liệu mọi thành viên trong nhóm văn sĩ Phiêu bạt có tham gia vào đó không? Điều này sẽ giải thích được bí mật mà họ có quanh mình và nó luôn luôn có vẻ hơi nực cười đối với ông Blaise. Toàn bộ điều ám muội quay quanh danh tính các thành viên khi mà đa phần trong số họ đều nhân danh những nhà văn của công chúng!

Hoàn toàn ngẫu nhiên, ông sẽ cố tiếp xúc với những văn sĩ Phiêu bạt ở làng Hổ Phách Cổ này. Đúng rồi, cuối cùng, món quà không chờ đợi của ông nhạc công lại rơi đúng lúc hết sức và cho phép ông được rảnh rỗi, Đại quan mơ màng trong lúc trượt hai bàn tay vào các ống tay áo. Ngay cả vào mùa này, đêm thường lạnh ở thung lũng Hổ Phách Cổ, cậu bé sẽ phải đem theo chiếc áo len to sụ của nó thôi... Ông Blaise hơi nhoi nhói ở tim trước ý nghĩ phải rời xa Ugh. Để không nấn ná lâu ở điều đó, ông quyết định đã đến lúc đi nằm.

Không kết quả

Ugh đưa tay chào lần cuối và quay lại để trả lời câu hỏi của một cậu bé có khuôn mặt đang ngái ngủ. Còn lại một mình ở quảng trường, ông Blaise nhìn cỗ xe đưa bọn trẻ chạy xa dần với một chút bâng khuâng. Cậu bé ra đi mà không vướng bận gì, hào hứng với suy nghĩ được khám phá những chiếc lồng chim nổi tiếng của làng Hổ Phách Cổ. Thề có đám tro của Phượng hoàng, những suy nghĩ, ẩn ý, hàm ý, nghĩa đen, nghĩa bóng, giá như ta có thể vứt bỏ được tất cả! Một phụ nữ xô vào ông và xin lỗi. Ông Blaise đưa mắt nhìn theo.

Với những gian hàng của thợ thủ công và chiếc đài phun nước dành cho chim, quảng trường là trung tâm của làng Hổ Phách Cổ, nơi Hội đồng Bô lão tập trung để tranh luận những công việc của làng và đem đến sự công bằng. Mặc dù còn sớm, người dân đã chen chúc nhau dưới vòm nhà vây quanh quảng trường chính.

Dưới những vòm nhà đó có quán rượu ngon nhất thị trấn, nơi người ta phục vụ món sôcôla làm từ cây đậu khấu có thể làm người chết sống lại! Đúng lúc ấy, bà chủ lôi mấy bộ bàn ghế ra bày ngoài vỉa hè. Bà chấp nhận ngay khi người khách lạ đề nghị được giúp bà một tay để đổi lấy một cốc đồ uống đặc sản của bà.

Chẳng mấy chốc, được ngồi thoải mái, Đại quan hít hà mùi cay tiêu của hạt táo thượng uyển, món được nêu rõ tên. Ông Blaise khịt khịt mũi thể hiện sự hoan hỉ cực điểm. Để tỏ rõ lòng hiếu khách, bà chủ đã thêm vài lát bánh còn nóng hổi, rắc thêm chút quế. Ông Blaise bắt đầu xuýt xoa.

Các gian hàng lần lượt mở cửa và các ba, các cô làng Hổ Phách Cổ với mái tóc dài ùa vào đó ríu rít chào hỏi nhau, đứng bên bức tranh khảm hình chim. Chính tác phẩm nghệ thuật ấn tượng này đã đem đến cho ông Blaise ý tưởng về chiếc đồng hồ với những chú chim đánh nhịp hàng ngày ở lâu đài. Nhưng trong khi chiếc đồng hồ thâu gọn mười hai bài ca của chim, mỗi bài ca cho một giờ, thì bức khảm được lát trên quảng trường này lại thể hiện chục loài, phong phú về mặt chi tiết, nói lên tình yêu của dân làng Hổ Phách Cổ đối với loài có cánh.

Những tia nắng mặt trời đầu tiên chiếu sáng những phiến đá cẩm thạch nhiều màu sắc, những cặp mông phụ nữ ngúng nguấy nhẹ nhàng trên quảng trường lát đá, mùi vị cay cay của thứ đồ uống kết hợp nhuần nhuyễn với độ ngọt của bánh... Hạnh phúc bao giờ cũng đơn giản, ông Blaise mơ màng. Và người ta chỉ vừa ý thức được nó thì nó đã bay đi mất rồi. Ông vừa thở dài vừa đưa tay vào tìm trong vô số các túi gắn trên các lớp áo dài của ông. Ông bày tấm giấy da nhỏ lên mặt bàn.

Theo Maya, Hổ Phách Cổ có ba văn sĩ Phiêu bạt, hai người đàn ông và một phụ nữ - một điều mà ông Blaise rất ngạc nhiên. Người Hổ Phách Cổ không coi trọng những phụ nữ có hoạt động khiến họ xa rời tổ ấm của mình. Thế mà những nhà Phiêu bạt lại nổi tiếng về sự độc lập của họ, về niềm đam mê du lịch của họ, dẫu rằng phần đông trong số họ, khi đã hoàn thành những chuyến đi có tính nghi lễ của những năm tháng học tập, thì lại định cư một chỗ như những nhà văn của công chúng. Đó rất có thể là trường hợp của hai văn sĩ Phiêu bạt nằm trong danh sách bởi vì họ có gian hàng ở quảng trường.

Ông Blaise uống cạn cốc nước, chào bà chủ quán và hướng về cửa hàng của Zur. Một tấm biển treo trước cửa: “Đóng cửa để đi du lịch.”

- Ông ấy ngủ đấy.

Ông Blaise quay lại tìm xem giọng nói từ đâu tới. Dưới vòm bên cạnh, một người đàn bà nhỏ bé da đen béo tròn với búi tóc trắng cho thấy là bà đã có tuổi, ngồi sau một cái bàn gấp nhỏ đang nhìn ông chằm chằm. Ông Blaise chào bà theo cách của người làng Hổ Phách Cổ và người phụ nữ đáp lại ông với một cử chỉ linh hoạt, gật đầu tán thành sự lịch lãm của ông.

- Thầy Zur đang đi du lịch để viết phải không ạ? - Ông Blaise hỏi lịch sự.

- Nếu muốn coi là vậy thì cũng được! - Bà già cười ha hả. - Ông Zur đang ngủ. Ông ta ngủ suốt ngày, ông ta nói giấc ngủ giúp ông ấy có nhiều cảm hứng hơn là công việc nghiên cứu hay những chuyến đi.

Bà đưa mắt đánh giá ông Blaise.

- Điều chắc chắn nhất, đó là giấc ngủ của ông Zur đã mang lại cho tôi nhiều khách hàng hơn! - Bà nói thêm, đồng thời ra hiệu cho ông ngồi xuống chiếc ghế trước mặt.

Neti, Blaise hiểu ra, nữ văn sĩ Phiêu bạt thứ hai ở trên quảng trường. Ông quan sát.

- Giấy da bê? Giấy da? Giấy cói? Giấy vải? - Bà hỏi, tay chỉ vào chiếc hộp đựng thập cẩm các loại giấy viết.

- Ờ... Giấy vải thì sao?

- À! Một bức thư tình!

Và vì Blaise nhìn bà ta tỏ vẻ kinh ngạc nên bà lại hình dung ông là một người tình đang yêu tê tái do tuổi tác, bà giáng mạnh:

- Ông không thể tìm được chỗ nào hay hơn đây đâu, đây là sở trường của tôi mà. Ông có gì trao đổi không?

Vui vui trước tài nói phượu của bà lão, ông Blaise thò tay vào áo. Ông nhận thấy những ngón tay của mình có những đốt đã biến hình vì tuổi tác.

- Kim sa và chanh. - Ông đề nghị, đặt một chiếc lọ thảo dược xuống mặt bàn và nói.

- Ừm... Ông không có gì để giúp cho giấc ngủ à? Ở tuổi tôi đêm thật dài và sự bất công là chúa tể: Ông Zur ngủ quá nhiều còn tôi thì ngủ không đủ. - Bà riết róng. - Tôi sẽ viết thư cho người đẹp của ông trên tấm vải lanh Tử Địa này nhé. Màu đỏ là màu của sự dâm đãng, vì ai cũng biết... Chúng ta sẽ bắt đầu bằng câu “Thưa quý bà” nhé? Hay “Người đẹp chưa biết tên”? Hay là “Cô nàng bé nhỏ của tôi”?

Một giờ sau, ông Blaise cuối cùng cũng rời được Neti, nhẹ hơn vì đã để lại không chỉ hai mà là ba lọ thảo dược - giàu hơn vì chiếc khăn quàng đỏ sẫm mà bà già văn sĩ đã đóng vào con dấu của mình sau khi viết lên đó một bài văn đầy những từ ngữ gợi tình nóng bỏng. Bà quyết định rằng ở tuổi ông Blaise, ông không thể chú ý đến chủ nghĩa lãng mạn được nữa. Người phụ nữ Hổ Phách Cổ này không bộc lộ tính cách bẽn lẽn như những người đồng hương của mình. Hay người ta cầu cứu bà để nói lên những điều mà họ không dám nói nhỉ?

Dù sao, không có một chút dấu hiệu nào cho thấy bà ta thuộc Liên minh cả. Ông Blaise đã nhiều lần tung ẩn ý mà chẳng có kết quả gì. Ông chỉ còn cách đến viếng thăm văn sĩ thứ ba.

Nurdine sống gần khu ngoại ô của ngôi làng và tiếp ông Blaise một cách thân mật. Đó là một nhà từ vựng học, đã cống hiến cả đời cho việc biên soạn cuốn từ điển từ ngữ chuyên ngành dành cho những người nuôi chim. Công việc của ông thật thú vị, nhưng việc nói chuyện với ông rất khó khăn vì Nurdine bị câm và chỉ trả lời ông Blaise được bằng cách viết lên một tấm bảng con. Thất bại mà vẫn vui và không nản chí, người làng Salicande vui vẻ chấp nhận ly rượu gừng mà văn sĩ Phiêu bạt mời trước khi chào ông ta ra về.

Athéna trở lại

Một ngày sắp kết thúc trong ánh hoàng hôn đỏ sậm thật dễ chịu, nhưng không hiệu quả với cuộc tìm kiếm về Liên minh, ông Blaise đánh giá trong lúc rẽ vào lối đi dạo, hai bên đường đầy những cây lớn lấp lánh có thân đỏ rực, hướng tới trạm du khách. Một trong những cô con gái của ông chủ quán trọ chạy về phía ông. Sau khi đã chào ông, cô thông báo cho ông một tin với giọng nghiêm trọng:

- Bô lão, con chim của ông đang chờ ông... à, chờ ngài từ hai ngày, hai đêm nay rồi.

- Chim của ta ư?

- Một con cú Xám đáng yêu, xám và trắng. Rất nhỏ, già và lanh lợi nữa.

- Tại sao cháu lại bảo đó là chim của ta?

- Nó giống ông lắm. - Cô gái nhỏ khẳng định và tặng ông một nụ cười rạng rỡ phô cả hàm răng sún. Nó ở trên cành cây gãy đó. - Cô gái nói thêm trước khi tung tăng chạy đi.

Thật đúng là… Gần đây ta lại giống tất cả mọi người thế này. Athéna thân yêu, đến đây nào... Với vài sải cánh, con cú bay đến đậu lên vai ông Blaise. Ông đưa mắt liếc tìm chỗ vắng một cách máy móc, rồi sực nhớ rằng ở Hổ Phách Cổ sẽ chẳng ai ngạc nhiên khi thấy ông nói chuyện với chim cả.

Ông ngồi xuống một gốc cây và chìa nắm tay cho con chim. Ông vuốt lớp lông mượt và nhìn sâu vào đôi mắt rực vàng của nó.

- Mày đã đến đây hai ngày rồi, sao không gọi ta?

Ông Blaise nhận ngay được một hình ảnh gồm những cặp cánh chim xô đẩy nhau và và những tấm khăn choàng dài màu đỏ.

- Quá nhiều người ư?

- Người, chim... Quá nhiều... tất cả.

Ông Blaise cười với con cú. Càng nhiều tuổi, con cú càng trở nên dữ tợn hơn.

- Rất nhiều lần trong chuyến đi này ta muốn gặp mày.

Đầu của Athéna quay 270 độ.

- Đầu Blaise quá nhiều tất cả. Cậu bé tràn ngập đầu Blaise. Vô ích. Cậu bé an bình.

- Ai cơ?

Ông nhìn thấy một sự bùng nổ màu hung đỏ.

- Ugh ư?

- Ugh bình tâm.

- Mày nghĩ rằng ta không muốn bình tâm ư?

Con cú phác một động tác cánh rất lạ. Thề có Thịt và Nội tạng! Nó đã học cách nhún vai sao?

- Blaise đến. Rừng không yên bình. Nhiều sói huyên náo dữ lắm.

Ông Blaise nhận được một hình ảnh những bàn tay xăm trổ hình những con sói đen sì.

- Các ẩn nhân Abdiquant! Đúng là ta nghĩ đến họ thời gian gần đây.

- Không nghĩ. Đến đi.

- Trước tiên ta phải đưa Ugh trở về lâu đài đã, Athéna ạ. Ta đã hứa với mẹ nó rằng nó sẽ về để kịp hái nho.

Athéna truyền cho ông hình ảnh Chandra giận dữ đập những tấm thảm trải trên cỏ. Ông Blaise nhăn mặt.

- Ta biết, ta bị muộn rồi. Ta sẽ đi gặp các ẩn nhân Abdiquant sau.

- Tinh thần bình an thăm mẹ. Blaise đến rừng.

- Chandra sẽ lột da đầu nó mất, chú bé đáng thương!

Con cú gợi ra hình ảnh cặp song sinh mà nó cảm thấy như hai nguồn năng lượng hòa lẫn.

- Có vấn đề với cặp song sinh ư?

Athéna đưa ra một loạt hình ảnh và cảm giác: một con Mác-mốt, sự quấn quýt của hai nguồn năng lượng chung mà theo nó, chính là cặp song sinh, dòng sông Bình Nguyên, những hình nón vàng ươm của những cây-nhà thờ, bộ râu của Bahir...

- Cặp song sinh đang ở miền núi với gia đình Borges, đúng thế không? Làm sao mày biết được?

Tinh thần của con cú thổ ra:

- Mèo.

Ông Blaise bật cười.

- Con Xám ư? Chúng mày giờ lại nói chuyện với nhau sao?

Phẫn nộ, Athéna bay vút lên cành cây gần nhất, quay lưng lại với người đàn ông.

- Lại đây nào, bé yêu, đó chỉ là câu chuyện đùa thôi mà... Ta biết ơn mày vì đã đến gần con Xám. Ta biết mày làm điều đó để truyền thông tin cho ta mà. Lại đây, và nói cho ta biết điều gì đã xảy ra ở lâu đài.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3