Người đọc - Phần II - Chương 07 - 08 - 09

7

Sự dai dẳng trong cách tranh cãi của Hanna đã làm quan tòa bực bội ra sao thì lời khai báo thành khẩn của cô cũng làm bực bội các bị cáo khác như thế. Nó đem lại hậu quả tai hại cho việc bào chữa của họ cũng như của chính Hanna.

Thật ra thì sau khi xét bằng chứng, tình thế có lợi cho các bị cáo. Các bằng chứng cho nội dung thứ nhất của cáo trạng chỉ vẻn vẹn lời khai của bà mẹ sống sót, của cô con gái và cuốn sách cô viết. Một luật sư tốt lẽ ra không cần động chạm đến cốt lõi lời khai của hai mẹ con cô mà vẫn có thể phản bác thành công rằng chính các bị cáo không phải là người trực tiếp lựa chọn. Về khía cạnh ấy, lời khai của nhân chứng không cụ thể và cũng không thể cụ thể được; tối thiểu thì ở trại có một viên chỉ huy, nhóm lính canh, các nữ quản tù khác và một tôn ti cấp bậc về nhiệm vụ và mệnh lệnh mà tù nhân chỉ phần nào đụng chạm đến và cũng chỉ thấu hiểu được phần nào mà thôi. Về nội dung thứ hai của cáo trạng cũng tương tự như vậy. Bà mẹ và cô con gái bị giam trong nhà thờ, không thể cung cấp thông tin gì về những việc xảy ra bên ngoài. Các bị cáo dù không thể nói rằng họ không có mặt ở đó, vì các nhân chứng khác sống ở làng hồi ấy đã tiếp xúc với họ và nhớ ra họ, song các nhân chứng ấy cũng phải cẩn thận để không chịu búa rìu của lời trách cứ rằng lẽ ra họ có thể giải cứu số tù nhân. Nếu chỉ có các nữ quản tù ở đó - chẳng lẽ dân làng không thể áp đảo được mấy mụ đàn bà và tự mở khóa cửa nhà thờ hay sao? Họ cũng phải kiếm đường tự bào chữa cho mình, hệt như các bị cáo nêu ra một áp lực để lý giải cho hành vi của mình và cũng của dân làng. Chẳng hạn như vũ lực hay mệnh lệnh của nhóm binh lính canh không bỏ trốn mà chỉ vắng mặt một lát để có thể khẩn trương đưa người bị thương đến bệnh xá rồi quay lại ngay, ít nhất như các bị cáo dự đoán?

Khi luật sư của các bị cáo khác nhận ra rằng chiến thuật ấy bị thất bại bởi tính thành khẩn của Hanna, họ liền đổi chiến thuật mới, khả dĩ tận dụng lời khai thành khẩn của cô để đổ tội cho Hanna và qua đó giảm nhẹ cho các bị cáo khác. Họ ra tay một cách chuyên nghiệp, và bị cáo khác hùa vào với những câu nói leo phẫn nộ.

“Bà đã nói, bà biết rõ là tù nhân được bà chuyển đến chỗ chết - câu đó có giá trị cho riêng bà, đúng không ạ? Bà không thể biết là các nữ đồng nghiệp của bà có biết hay không. Bà có thể phỏng đoán, nhưng kỳ thực không thể quả quyết, đúng không ạ?” Luật sư của một bị cáo khác hỏi Hanna.

“Nhưng tất cả chúng tôi đều biết...”

“Nói chúng tôi, tất cả chúng tôi thì đơn giản hơn là nói tôi, một mình tôi, đúng không ạ? Có đúng là hồi ở trại có những tù nhân được bà bảo trợ riêng, toàn là các cô gái trẻ, mỗi cô một thời gian rồi lại thay sang cô khác?”

Hanna ngập ngừng. “Tôi nghĩ là, tôi không phải người duy nhất đã...”

“Đồ điêu toa khốn kiếp! Chỉ mình mày, một mình mày có những đứa ưu đãi như thế!” Một bị cáo khác với vẻ thô lậu, sồ sề như con gà mái già, đồng thời khẩu khí hằn học, phản ứng gay gắt.

“Liệu có đúng là bà nói biết thay cho tin rằng, và nói tin rằng khi bà bịa đặt?” Ông luật sư lúc lắc đầu, tựa như phiền lòng khi phải nghe câu trả lời chấp thuận của cô. “Và có đúng là những tù nhân được bà bảo trợ bị chuyển đến Auschwitz, khi bà đã ngán họ?”

Hanna không đáp.

“Đó là sự lựa chọn đặc biệt của riêng bà, đúng không ạ? Bà không muốn thừa nhận chuyện đó, muốn giấu nó sau những việc mà tất cả đều làm. Nhưng...”

“Lạy Chúa!” Cô con gái sau khi lấy cung đã ngồi vào hàng khán giả, bây giờ úp hai bàn tay lên mặt. “Sao tôi lại có thể quên chuyện đó được nhỉ?” Quan tòa hỏi cô có bổ sung lời khai. Cô không đợi được gọi lên phía trước mà đứng dậy phát biểu tại chỗ trong hàng khán giả.

“Đúng, bà ta có những người ưu tiên, bao giờ cũng trong đám gái trẻ, gầy yếu. Bà ta bảo trợ họ và không bắt họ lao động, cho chỗ ở tốt hơn và ăn ngon hơn. Buổi tối bà ta gọi họ đến, và các cô gái không được phép kể bà ta đã làm gì với họ buổi tối, và chúng tôi nghĩ là bà ta đã... cũng vì tất cả họ đều bị chuyển đi, cứ như là bà ta đã vui vầy với họ và nay đã chán. Nhưng sự thật hoàn toàn không phải thế. Một lần, có một cô gái đã kể lại cho chúng tôi biết các cô gái đọc truyện cho bà ta nghe, tối nào cũng thế. Thế còn hơn là phải... cũng hơn là làm khổ sai cho đến chết ngoài công trường. Chắc tôi cũng nghĩ thế là hơn. Nếu không thì tôi đã không quên được chuyện ấy. Nhưng có đúng như thế là tốt hơn không?” Cô ngồi xuống.

Hanna quay lại nhìn tôi. Ánh mắt cô tìm thấy tôi ngay, và tôi nhận ra rằng toàn bộ thời gian cô đã biết tôi ở đó. Cô chỉ nhìn tôi. Khuôn mặt cô không cầu xin, không quả quyết hay hứa hẹn gì. Nó chỉ tồn tại đấy. Tôi nhận ra cô căng thẳng và kiệt quệ đến mức nào. Dưới mắt cô thâm quầng, mỗi bên má một nếp nhăn từ trên xuống dưới mà ngày xưa tôi không thấy, tuy không sau nhưng đủ hằn vào mặt như vết sẹo. Khi mặt tôi đỏ lên dưới ánh mắt cô thì cô quay nhìn về phía ghế băng của tòa.

Ông luật sư đã thẩm vấn Hanna lúc nãy được quan tòa hỏi xem còn muốn bị cáo cho biết gì nữa không. Quan tòa cũng hỏi luật sư của Hanna. Hỏi cô ấy đi chứ, tôi thầm nghĩ. Hỏi xem cô chọn những cô gái yếu đuối và mảnh mai có phải vì họ đằng nào cũng không chịu nổi công việc ngoài công trường, vì đằng nào họ cũng sắp bị chuyển đi Auschwtiz, và vì cô muốn cho họ những tháng cuối cùng trong đời được thanh thản? Đó là lý do khiến cô chọn những cô gái gầy yếu. Và không có lý do khác, không thể có lý do nào khác.

Nhưng luật sư không hỏi Hanna, còn tự mình thì cô không nói gì.

8

Bản tiếng Đức của cuốn sách mà cô con gái viết về thời gian ở trại tập trung được phát hành sau vụ xử án. Trong khi xử án tuy đã có bản thảo, nhưng chỉ dành riêng cho các phe liên đới. Tôi phải đọc bản tiếng Anh, khá lạ lẫm và khó khăn lúc bấy giờ. Và một ngoại ngữ không thông thạo, buộc phải vất vả lộn thì bao giờ cũng vừa xa lạ lại vừa gần gũi một cách kỳ dị. Tôi nghiền ngẫm cuốn sách một cách kỹ lưỡng và rồi vẫn không nhập tâm được. Nó vẫn xa lạ như chính ngôn ngữ đó vậy.

Nhiều năm sau, tôi đọc lại cuốn sách và phát hiện ra chính quyển sách đã tạo ra sự xa lạ. Nó không mời gọi ta đồng cảm, không gây cảm tình với ai, cả bà mẹ lẫn cô con gái lẫn những người chia sẻ số phận với họ tại các trại giam khác nhau, sau này cả ở Auschwitz và trại ngoại vi gần Krakov. Những người cao tuổi nhất phòng, nữ quản tù và lính canh không được cuốn sách thể hiện đủ rõ mặt mũi và tính cách để ta kết nối hay đánh giá tốt xấu hơn thực tế. Nó tỏa hơi thuốc mê như tôi đã cố gắng miêu tả. Tuy nhiên trong làn thuốc mê ấy cô con gái không mất đi khả năng nhận thức và phân tích. Và cô cũng không bẻ cong ngòi bút của mình vì tự thương hại hay tự tin rõ rệt sau khi không những đã sống sót mà còn chịu đựng được những năm trời ở trại tập trung và đưa chúng vào văn học. Cô viết về mình, về tư cách trẻ ranh, bà cụ non, và khi cần thiết cũng rất ma giáo của mình, với từ ngữ tỉnh khô như viết về các chuyện khác.

Cuốn sánh ấy không nêu tên Hanna hoặc bằng cách nào đó để nhận diện hay suy đoán ra. Thỉnh thoảng tôi cho là đã nhận ra cô trong nhân vật được miêu tả là một nữ quản tù xinh đẹp, mẫn cán thi hành nhiệm vụ của mình một cách lạnh lùng, nhưng tôi không chắc lắm. Khi quan sát các bị cáo khác, tôi thấy nhân vật nữ quản tù ấy chỉ có thể là Hanna mà thôi. Nhưng còn có những quản tù khác nữa. Ở một trại giam, cô gái biết một nữ quản tù mang biệt danh ngựa cái, cũng trẻ, đẹp và tận tụy, nhưng tàn ác và nóng nảy. Những người khác có so sánh như vậy không? Hanna có biết thế không, cô có nhớ lại và thấy chạnh lòng khi tôi so sánh cô với con ngựa?

Trại ngoại vi Krakov là trại cuối cùng của hai mẹ con trước khi đến Auschwitz. Không có gì khá hơn, công việc nặng nhưng đơn giản hơn, ăn uống tốt hơn, và sáu phụ nữ trong một phòng thì còn hơn là hàng trăm người trong nhà vách gỗ. Cũng ấm áp hơn, trên đường từ nhà máy đến trại họ được nhặt củi đem về. Họ sợ bị chọn để chuyển đi, nhưng không sợ ghê gớm như ở Auschwitz. Mỗi tháng sáu mươi phụ nữ bị chuyển về đó, sáu mươi trong số khoảng một nghìn hai trăm người, như vậy có hy vọng sống sót là hai mươi tháng nếu sức khỏe ở mức tương đối, ít nhất thì họ cũng được phép hy vọng khỏe hơn mức trung bình. Thêm vào đó còn được mong đợi chiến tranh biết đâu sẽ chấm dứt sớm hơn hai mươi tháng nữa.

Nỗi bất hạnh bắt đầu với việc giải tán trại và khởi hành đi về phía Tây. Trời đã vào đông, tuyết rơi, mớ quần áo làm những người đàn bà rét run ở nhà máy và chỉ đủ tạm giữ ấm ở trại, nay hoàn toàn thiếu, giày dép lại càng thiếu hơn. Họ phải quấn giẻ và giấy báo, lúc đi đứng còn giữ được, nhưng không thể buộc chặt để hành quân đằng đẵng trong băng tuyết. Những người đàn bà không những chỉ phải hành quân, họ bị thúc phải chạy. “Chuyến đi tử thần?” Cô con gái hỏi trong sách và tự trả lời. “Nhiều người gục ngã trên đường, những người khác sau vài đêm trong vựa cỏ hay bên một bức tường đã không tỉnh dậy nữa. Sau một tuần, nửa số phụ nữ đã chết.”

Nhà thờ là một mái trú tốt hơn so với vựa cỏ hay bức tường mà những người phụ nữ trước đó đã trải qua. Khi gặp các nông trại bỏ hoang và ngủ qua đêm ở đó, lính canh và quản tù chọn lấy khu nhà ở. Ở ngôi làng gần như bỏ hoang này, chúng chiếm nhà linh mục và ít nhất cũng chừa lại cho tù nhân nhiều hơn là vựa cỏ và bức tường. Hành vi ấy, và thậm chí cả một nồi canh nóng trong làng hiện ra viễn cảnh tới hồi kết của nỗi bất hạnh. Và những người đàn bà ngủ thiếp đi. Một lát sau bom rơi. Chừng nào chỉ có tháp chuông bốc lửa, ở trong nhà thờ nghe tiếng nhưng không thấy lửa cháy. Khi nóc tháp chuông sập xuống đè lên khung mái, hãy còn mấy phút nữa cho đến khi ánh lửa hiện ra. Rồi thì lửa nhỏ giọt xuống đốt cháy áo quần, vì kèo cháy rực rơi xuống làm bén lửa hàng ghế và bục giảng kinh, chỉ một lát sau cả khung mái đổ ập xuống nền nhà và tất cả cháy rừng rực.

Cô con gái cho rằng những người phụ nữ lẽ ra có thể tự cứu thoát được, nếu như họ cùng hợp sức phá ngay lập tức một cánh cửa. Nhưng khi họ nhận ra cái gì đang xảy ra, sắp xảy ra, và không ai mở khóa cho họ thì mọi việc đã quá muộn. Giữa đêm đen thì tiếng bom đánh thức họ. Một hồi lâu họ chỉ nghe tiếng động là lạ và đe dọa từ tháp chuông vẳng xuống, họ giữ im lặng để nghe rõ và đoán xem tiếng động đó là gì. Đến lúc nhận ra đó là tiếng lửa cháy phần phật, ánh lửa thỉnh thoảng bùng lên sau cửa sổ, và tiếng rền phía trên đầu là dấu hiệu lửa đã lan từ tháp chuông xuống mái - những người đàn bà đã quá chậm chân, khi ngọn lửa trong khung mái cháy sáng trước mắt. Họ hiểu ra tình thế và rú lên trong kinh hoàng, thét gọi cứu trợ, nhao ra phía cửa và lay cửa, đấm vào cửa và hét.

Khi khung mái cháy rực ụp xuống nền nhà thờ, dãy tường bao quanh tạo ra vòng kín như một cái bếp lò ủ lửa. Đa số các tù nhân không chết ngạt, mà chết cháy trong ngọn lửa sáng trắng réo ù ù. Cuối cùng, thậm chí các cánh cửa nhà thờ nẹp sắt rèn cũng bị lửa đốt thủng toang và cháy trụi. Nhưng lúc đó đã nhiều tiếng đồng hồ trôi qua.

Hai mẹ con thoát chết, bởi người mẹ đã hành động đúng trong một nhầm lẫn. Lúc những người đàn bà lâm vào cơn hoảng loạn, họ không chịu nổi giữa đám người ấy nữa nên bỏ chạy lên vệt đường đi chạy vòng sát tường tầng trên, kệ cho chỗ đó gần lửa hơn, họ chỉ muốn một mình, ra khỏi đám phụ nữ đang chen lấn, kêu thét và bốc cháy. Vệt đường đi hẹp đến nỗi hầu như không bị kèo cháy rơi phải. Hai mẹ con ép sát vào tường, họ nghe và nhìn đám cháy hoành hành. Ngày hôm sau vẫn chưa dám xuống và đi ra ngoài. Đêm hôm sau tối mịt, họ sợ không nhìn thấy bậc thang và lối đi. Hôm sau nữa, lúc trời hửng họ ra khỏi nhà thờ, mấy người dân làng bắt gặp sửng sốt nhìn họ trân trân, nhưng cho họ đồ ăn, quần áo và để họ đi tiếp.

9

“Vì sao bà không mở khóa?”

Quan tòa đặt câu hỏi ấy cho từng bị cáo. Từng bị cáo đưa ra câu trả lời như nhau. Họ không thể mở khóa được. Tại sao? Họ bị thương vì bom rơi trúng nhà linh mục. Hoặc họ bị sốc bom. Hoặc sau khi bom nổ họ chăm sóc lính canh bị thương và các nữ quản tù khác, cứu họ ra khỏi đống đổ nát, băng bó, săn sóc họ. Họ không nghĩ đến ngôi nhà thờ, không ở gần đó, không thấy nhà thờ cháy, không nghe thấy tiếng gọi từ trong nhà thờ.

Quan tòa buộc tội từng bị cáo rằng tinh thần bản báo cáo không đúng thế. Cách trình bày ngữ nghĩa rất cẩn thận. Nếu nói là báo cáo tìm thấy trong hồ sơ SS có ghi gì khác thì sai, nhưng đúng là tinh thần báo cáo có khác. Trong đó ghi tên những ai bị chết và bị thương trong nhà linh mục, ai chở người bị thương trên xe tải đến bệnh xá, và ai đi kèm trên xe tải không mui. Báo cáo ghi lại là các nữ quản tù ở lại để đợi cháy xong, chống lửa lan rộng và đề phòng tù nhân lợi dụng hỏa hoạn chạy trốn. Ghi cả việc các tù nhân đã chết.

Do tên các bị cáo không có trong danh sách của báo cáo, có thể suy ra rằng họ ở trong số nữ quản tù ở lại. Vì quản tù ở lại để ngăn tù nhân chạy trốn, có thể suy ra rằng sau khi cứu người bị thương ra khỏi nhà linh mục và đưa tới bệnh xá thì mọi việc chưa phải đã kết thúc. Những quản tù ở lại, như trong báo cáo cho thấy, để mặc cho ngọn lửa hoành hành trong nhà thờ bị đóng cửa. Theo báo cáo, các bị cáo ở trong số những quản tù ở lại.

Không, mọi bị cáo đều nói, sự việc không phải như thế. Bản báo cáo sai. Có thể nhận ra qua đoạn nói về nhiệm vụ của các quản tù ở lại là để chống lửa lan ra. Làm sao họ có thể đảm nhận việc ấy được? Chuyện vô lý, và cũng vô lý như vậy là nhiệm vụ ngăn tù nhân chạy trốn nhân hỏa hoạn. Vô lý. Chạy trốn? Khi họ không phải chăm sóc đến đồng đội và quay sang chú ý đến tù nhân thì chẳng còn gì có thể chạy trốn được nữa. Không, bản báo cáo không thể hiện được những gì là họ trong đêm hôm ấy đã làm, đã đạt được và đã chịu đựng. Từ đâu đẻ ra một bản báo cáo sai đến mức độ ấy? Họ cũng không biết.

Cho tới khi mụ sồ sề đến lượt. Mụ biết chứ. “Ông hỏi người kia kìa!” Mụ chỉ tay vào Hanna. “Nó đã viết báo cáo. Tội nó hết, mình nó thôi, nó định dùng bản báo cáo để xóa dấu vết và lôi chúng tôi vào.”

Quan tòa hỏi Hanna, đó cũng là câu hỏi cuối cùng: “Vì sao bà không mở khóa?”

“Chúng tôi... chúng tôi đã...” Hanna cố tìm câu trả lời. “Chúng tôi không biết làm gì khác.”

“Các bà không biết làm gì khác?”

“Một số người của chúng tôi đã chết, những người khác trốn mất. Họ nói là họ đưa người bị thương đến bệnh xá rồi quay lại, nhưng họ biết là sẽ không quay lại, chúng tôi cũng biết thế. Có khi họ cũng chẳng đi đến bệnh xá, những người bị thương cũng không nặng đến thế. Chúng tôi định đi theo, nhưng họ bảo là cần chỗ cho người bị thương, và đằng nào thì họ cũng không... đằng nào thì họ cũng không muốn cho nhiều đàn bà đi theo. Tôi không biết họ đi đâu.”

“Thế bà làm gì?”

“Chúng tôi không biết nên làm gì. Mọi việc xảy ra rất nhanh, nhà linh mục bốc cháy, đàn ông và ô tô vừa còn đấy, giờ thì biến mất, đột nhiên chúng tôi chỉ còn lại một mình với những người đàn bà trong nhà thờ. Bọn họ để lại vũ khí gì đó, nhưng chúng tôi đâu biết sử dụng, mà có biết chăng nữa thì phỏng có ích gì cho mấy mống đàn bà chúng tôi? Làm sao chúng tôi có thể canh giữ chừng ấy tù phụ nữ? Một đoàn người như thế kéo thành vệt dài, nếu muốn dồn lại và canh giữ trên một đoạn đường dài thì cần nhiều hơn là mấy người chúng tôi.” Hanna nghỉ nói. “Rồi bắt đầu có tiếng kêu thét, mỗi lúc một kinh khủng hơn. Giả sử chúng tôi mở khóa, và tất cả cùng túa ra thì...”

Quan tòa đợi một lúc. “Bà sợ? Bà sợ tù nhân sẽ áp đảo được bà?”

“Áp đảo chúng tôi... không, nhưng làm sao chúng tôi lập lại trật tự được nữa? Sẽ sinh ra tán loạn mà chúng tôi không sao kiềm chế nổi. Và nếu họ định chạy trốn...”

Quan tòa lại đợi một lúc, nhưng Hanna không nói hết câu. “Bà sợ rằng nếu họ chạy trốn thì bà sẽ bị bắt, bị buộc tội và xử bắn?”

“Chúng tôi sẽ không để họ chạy thoát được dễ dàng! Chúng tôi chịu trách nhiệm... Ý tôi muốn nói là chúng tôi đã canh giữ họ suốt thời gian ở trại và trong chuyến đi, có nghĩa là chúng tôi canh giữ họ chứ không cho chạy trốn. Do vậy chúng tôi không biết phải làm gì. Chúng tôi cũng không biết sẽ có bao nhiêu phụ nữ sống sót trong những ngày tới. Đã có nhiều người chết rồi, và những người còn sống cũng yếu đến nỗi...”

Hanna hiểu ra rằng những lời nói ra không có lợi cho mình. Nhưng cô không biết nói gì khác. Cô chỉ biết cố gắng trình bày tốt hơn, miêu tả và giải thích tốt hơn những gì cô định nói mà thôi. Nhưng càng nói nhiều thì chuyện của cô càng tệ đi. Vì không biết phải làm gì, cô quay sang quan tòa.

“Ở địa vị tôi ông sẽ làm gì?”

Nhưng giờ thì cô cũng biết là cô không nhận được câu đáp. Cô không đợi câu trả lời. Chẳng ai đợi câu trả lời. Quan tòa lắc đầu im lặng.

Không phải người ta không tưởng tượng ra tình cảnh tiến thoái lưỡng nan mà Hanna trình bày. Đêm tối, giá buốt, băng tuyết, lửa khói, tiếng phụ nữ gào thét trong nhà thờ, những kẻ đi cùng và ra lệnh cho quản tù đã biến mất - hoàn cảnh không thể đơn giản được. Nhưng nhận ra hoàn cảnh phức tạp liệu có giảm nhẹ nỗi kinh hoàng về những gì các bị cáo đã làm hay đã bỏ mặc không làm? Đâu phải là một tai nạn ô tô trên đường vắng giữa đêm đông lạnh lẽo, có người bị thương, xe cộ nát bét, và người ta không biết phải làm gì? Cũng không phải sự xung khắc giữa hai trách nhiệm đều đòi hỏi chúng ta ra tay? Nghĩa là người ta có thể, nhưng không muốn tưởng tượng ra những gì Hanna trình bày.

“Bà đã viết bản báo cáo?”

“Chúng tôi cùng nhau suy nghĩ nên viết gì. Chúng tôi không muốn đổ tội cho những người đã bỏ trốn, nhưng cũng không muốn tự buộc cho mình đã làm gì sai.”

“Vậy bà nói là mọi người cùng nhau suy nghĩ. Ai là người viết?”

“Mày!” Bị cáo kia lại chỉ tay vào Hanna.

“Không, tôi không viết. Ai viết thì có quan trọng không?”

Một công tố viên đề nghị gọi giám định viên so sánh chữ viết báo cáo với chữ của bị cáo Schmitz.

“Chữ tôi? Ông định so chữ tôi...”

Quan tòa, công tố viên và luật sư của Hanna tranh luận, liệu dạng chữ viết sau hơn mười lăm năm có còn ngữ nguyên để nhận dạng. Hanna chú ý nghe và mấy lần định nói hay hỏi câu gì, vẻ căng thẳng ngày càng lộ rõ. Rồi cô nói: “Các ông không cần gọi giám định viên. Tôi xin nhận là đã viết bản báo cáo.”