Con Đường Mây Trắng - Chương 5 - Phần 10

SÁU NGÀY TRÊN SÔNG ĐÓNG BĂNG

Chuyến đi trên dãy Himachal Pradesh nằm phía tây
Tây Tạng, mà ở giữa là những tiểu quốc Ấn Độ, là một chuyến đi nguy hiểm giữa
mùa đông. Nó có thể chấm dứt bằng một tai họa nếu tôi không từ chối kế hoạch
của ông bạn chột mắt của viên tỉnh trưởng đi theo đến biên giới. Vì muốn làm
xong việc càng sớm càng tốt, ông cố đi con đường ngắn nhất và đẩy chúng tôi vào
vùng không người ở bên kia biên giới, mặc cho chúng tôi có thể nguy khốn vì
thiếu lương thực, chỗ ăn ở và thiếu phương tiện chuyên chở. Ông lấy lý do là
con đường thường đi đã bị tuyết phủ kín và không còn cách nào khác hơn cách đó
để đi Ấn Độ. Cũng may là trước khi rời Ấn Độ chúng tôi có nghiên cứu kỹ lưỡng
bản đồ biên giới Ấn -Tạng (thường không bán, chỉ dành cho cơ quan nhà nước) và
chụp bản sao. Nhờ thế mà tôi kịp thời khám phá ra mối nguy hiểm này. Tôi từ
chối kế hoạch của ông và nhất định đi hướng của thương nhân thường đi và nếu cần,
đợi hết tuyết mới qua đèo.

Nếu giữa tháng mười hai mà gọi Tsaparang là lạnh thì chúng tôi sớm biết đây là ấm và dễ chịu so
với cái lạnh tê cóng và ngọn gió cắt da khi phải đi trên vùng núi non. Cái lều
bằng vải dù của chúng tôi vẫn được xem là chắc và kín gió bây giờ không che
chắn gì được cả. Chúng tôi không có nhiệt kế, nhưng hai mươi độ âm chắc phải
đúng trong tối hôm đó. Vải dù bị cóng cứng lại tới mức mà hôm sau phải cố gắng
hết sức mới cuốn xếp lại được. Ngoài ra tay chúng tôi cóng cả, mỗi cử động là
đau nhức. Ngay cả hành động dễ nhất như lấy máy ảnh ra khỏi túi da và vặn ống
kính, cũng nhọc nhằn làm chúng tôi hầu như mất ý muốn chụp hình. Toàn bộ năng
lực của chúng tôi chỉ dồn
vào việc giữ được mạng sống và đi.

Ban đêm chúng tôi phải mang đôi ủng Tây Tạng nặng
nề nếu không chân sẽ bị cóng và sáng hôm sau không thể xỏ chân vào ủng đã cứng
vì cóng. Chúng tôi ngủ với mũ che tai, đắp tất cả chăn chỉ chừa một lỗ nhỏ ở mũi để thở. Sáng hôm sau hơi thở chúng
tôi đã thành một thỏi băng trên chăn. Cũng không thể dùng khăn tay hay giấy để
chùi mũi được nữa. Râu tôi đã thành một tảng băng, thỉnh thoảng tôi lại phải bẽ
băng nằm dưới mũi mình - làm việc đó cần một cái búa có lẽ hay hơn một chiếc
khăn tay.

Người của viên tỉnh trưởng vừa là hướng đạo vừa
giúp việc, được chúng tôi trả tiền hậu hĩ nên ông ta cứ đến lũng nào có người
là đi đánh bạc và uống rượu - một thói quen mà khi mới đến Tsaparang chúng tôi
đã biết ông. Có lúc ông uống nhiều tới nỗi suốt cả ngày không thấy mặt mũi đâu
cả và cuối cùng ông đi mất luôn và chúng tôi phải thuê người khác - một người
tên Scherab - trong những tháng tới đây; anh là người giúp việc trung thành và
tư chất rất tốt; khiến anh thành bạn thật sự của chúng tôi. Anh lo lắng cho
chúng tôi từng li từng tí, không ngại khó, miễn làm sao cho chúng tôi được dễ
chịu và không bị trấn lột. Anh không bao giờ nghĩ tới cái lợi của riêng mình.
Sau kinh nghiệm của chúng tôi với Wangdu và người của viên tỉnh trưởng, sự hiện
diện của anh là một món quà trời cho. Nhất là lúc phải ở lại cả tháng trời tai
một làng Tây Tạng nhỏ trước biên giới vì tuyết đổ, chúng tôi rất quí sự có mặt
của anh. Sự lưu trú bất ngờ này thực tế là một phước lành vì lũng này mà xung
quanh là núi tuyết bao bọc, thật như một thiên đường giữa hai thế giới, trong
đó chúng tôi sống ba tháng với niềm hạnh phúc không chút mờ tối, giữa những
người đơn giản và dễ thương và dưới chân của vị thầy Tây Tạng cuối cùng của
mình.

*

* *

Trước khi đến ốc đảo bình an này, chúng tôi phải
trải qua một chuyến hành trình nửa tháng. Khi đến gần tuyến đường chính thì
chúng tôi đã nghe nói nó bị đóng cửa rồi. Chưa có cơ hội kiểm tra tin này thực
hư thế nào thì dân làng, kẻ mang tin đó lại, cho hay họ sẵn sàng đưa chúng tôi
qua hẻm núi của sông Langtschen Khambab đã đóng băng và mang hành lý cho. Chỉ có
mùa đông mới có thể đi trong hẻm này được, nó rất hẹp và sâu và dễ bị đá đổ,
không có đường đi giữa dòng thác chảy mạnh và vách núi hai bên. Thế nên ta có
thể đi thông qua nó khi dòng nước bị đông cứng, mà lúc đó cũng không thể cho
trâu hay ngựa theo được. Sau đó chúng tôi biết nguyên do; ở đây không có đường
mòn nào dẫn xuống lũng ngoài con đường bên thác với mực nước cao trên hai ngàn
mét. Ngoài ra không có thú vật nào có thể đi trên băng vì nước chảy mạnh, và
khi đóng băng nó không cho một mặt bằng phẳng mà gợn sóng, có nơi lổm ngổm
những tảng băng.

Vì thế chúng tôi buộc phải thuê khoảng hai mươi
người trong lũng để mang hành lý, nơi mà chúng tôi ở lại hai ngày qua. Gần làng
này có một tu viện nằm ở một vị trí tuyệt diệu, trên đỉnh của một chỏm núi bơ vơ,
nhìn qua tưởng như có một sức mạnh khủng khiếp, nó lôi núi lên từ trạng thái
lỏng và sau đó nó hóa thành đá. Tên của tu viện là Pekar Gompa. Pekar là tên
một vị thần trước khi Phật giáo du nhập, được xem là hộ pháp trong vùng và được
Phật giáo giữ lại.

Người của viên tỉnh trưởng sau khi biến mất vài
ngày bây giờ đã xuất hiện lại, xem ra không muốn liều mình trong hẻm núi của
Langtschen - Khambab và chắc cũng sợ không về nhà kịp trước cuối đông nếu tuyết
đổ ập thình lình, nên từ giả chúng tôi với nước mắt lưng tròng. Có thể trong
bụng ông nghĩ là chúng tôi cũng không qua khỏi hiểm nguy, cũng có thể vì hôm đó
ông uống rượu nhiều quá chăng. Dù gì đi nữa, chúng tôi cũng mừng thoát khỏi ông
và tiếp tục ra đi với số người khác vui vẻ và thân thiện mà chúng tôi cảm giác
yên lòng hơn với họ mặc dù không biết ngày mai sẽ ra sao. Hiểm nguy của thiên
nhiên đối với chúng tôi không đáng sợ bằng sự bất ổn của thói lưu linh.

Khi cách làng vài dặm nằm cạnh lũng sâu, chúng
tôi trượt xuống một hố cát, đáy tới lũng, thấp hơn cả ngàn mét so với chỗ phát
xuất. Tới đây thì chúng tôi mới rõ mình đã làm một điều là không thể đi lui
được nữa. Không thể nào từ đáy lũng mà leo ngược lên cồn cát dựng đứng - đó là
chưa kể mang theo hành lý. Tôi không biết mình phải làm thế nào, giả sử con
suối không đủ đông cứng để chịu sức nặng hành lý và sự va chạm khi người khuân
vác ngã lên trên. Dù không mang vác cũng đã khó giữ thăng bằng trên băng rồi
nên người ta chỉ đi vài bước lại té ngã.

Nên chúng tôi không đi được nhiều và buổi tối
chúng tôi dựng lều bên một bờ có nhiều sỏi. Trong đêm này lần đầu tiên chúng
tôi thấy hơi ấm dễ chịu, nhờ chỗ không cao và kín gió, một phần nhờ trời đang
chuyển; trên cao trời đang kéo mây. Chúng tôi tận hưởng cảnh mặt trời lặn rất
đẹp và xung quanh lều láng chúng tôi là một thứ cỏ vàng, tắm mình trong một ánh
sáng ấm dễ chịu, nó làm quên khó nhọc đã qua và sự bất định sắp tới. Lòng chúng
tôi đầy một cảm giác hạnh phúc không giải thích được, như trong mơ, quá khứ và
tương lai như tan biến đi và chỉ còn lại ý thức về cảnh đẹp vây quanh là có
thật. như trong lũng “lâu đài mặt trăng”, chúng tôi cảm nhận một sự hòa hứng
cao độ, trong thế giới quen thuộc của chúng ta hầu như không tồn tại nữa, để ta
có cảm giác giải phóng khỏi những gì đã qua và những cái sắp tới mà không còn
quyết định cũng như trách nhiệm với chúng; và nhờ thế mà tận hưởng cái hiện
tiền: thế giới nằm quanh đây, trong đó chúng tôi tự mình quyết định lấy mình,
như mình là người duy nhất trong vũ trụ. Sự kỳ diệu của một chuyến du hành gồm
những điều cảm nhận khó lý giải và tính huống bất ngờ như thế, hơn xa hẳn những
con số cụ thể và kết quả vật chất mang lại.

Vì thế chỗ nghỉ trại này đọng lại trong ký ức như
một “trại hè” mà chúng tôi đặt tên cho nó trước khi đi ngủ, dù ngay giữa mùa
đông. Sáng hôm sau chúng tôi ngạc nhiên xiết bao khi thức dậy thấy xung quanh
tuyết rơi đầy, đúng là cảnh vật mùa đông. Chúng tôi dụi mắt, dần dần tỉnh dậy
từ giấc mơ mùa hè, cố gắng thích nghi với
thời tiết mới. Liệu có tiếp tục được chuyến đi hay không, nếu không thì sao? Thế
nhưng những người đi cùng xem ra không chút bận tâm. Hình như họ ngủ trên tuyết
cũng say và sung sướng như chúng tôi ngủ trong lều. Chúng tôi phải khâm phục sự
cường tráng và cách nhận chịu vui vẻ mọi tình huống của họ và thấy họ như vậy,
ta yên lòng hơn nhiều. Dù tuyết rơi, không khí vẫn dễ chịu. Điều này cho thấy
một lần nữa, tại Tây Tạng khi trời rất lạnh thì tuyết ít rơi và khi tuyết rơi
thì đó là dấu hiệu của thời tiết dịu, đáng mừng.

Trong cái lạnh khắc nghiệt của non cao, trong đó
tất cả đều đông cứng mà lại vắng bóng tuyết, chúng tôi ngạc nhiên thấy trong
vùng nhiều tuyết này mà lại ít lạnh hơn. Thường thường khi thấy cảnh vật mùa
đông này thì chúng tôi lại lạnh thấu xương sống - Li sinh tại Bombay gần biển
và lớn lên tại đó, còn tôi phần lớn đời mình sống vùng nhiệt đới. Các bạn Tây
Tạng của tôi vẫn hưởng
tuyết vui vẻ suốt thời gian đi trong lũng sâu. Khi chúng tôi đến một nơi có ít
cây mọc mà dân Tây Tạng vùng rẻo cao không bao giờ thấy, họ trầm trồ rằng nơi
đây có nhiều gỗ và dừng lại đốt một đống lửa to, hát hò nhảy múa suốt đêm.
Chúng tôi cũng vui theo và nướng bánh thật nhiều trong đêm đó. Tất cả đều trở
thành một gia đình hạnh phúc. Cảnh vật thật tuyệt vời: lửa cháy bập bùn ngay
giữa tuyết, quần áo nhiều màu của mọi người chen giữa màu đá dưới những cành cây tuyết đọng,
tất cả diễn ra trong
cảnh hoang vu của núi rừng mà uy lực và vẻ đẹp hoang sơ của nó tương phản trực
tiếp với cái vui bé nhỏ của con người. Đó là nhóm người vui vẻ nhất trong
chuyến hành trình của chúng tôi và các phụ nữ trẻ tuổi xem ra cũng không biết
mệt như cánh đàn ông, dù suốt ngày họ mang vác nặng nề đi trên băng hay sỏi.
Tất cả họ đều ngủ trên tuyết tự nhiên như trên giường nệm, chỉ đắp hai miếng
lông trừu, mặt lông lật vào phía trong. Giữa miếng lông đó, họ ngủ hoàn toàn trần
truồng, quần áo được bó lại thành gối, đó là một tục mà chúng tôi thấy nhiều
nơi khác ở Tây Tạng. Có lẽ họ thấy chúng tôi ngủ mà mặc áo quần cũng kỳ quái
lắm.

*

* *

Tuyết mà ngày đầu chúng tôi nghĩ là trở ngại lớn
bây giờ ngược lại là cái thuận lợi và dễ đi hơn trên băng nhiều, không hay bị
té ngã, nhưng mặt khác chúng tôi cũng phải cẩn thận hơn để tránh những khe nứt
nằm ẩn trong tuyết. Xuống sâu thêm thì dòng suối đã lỡ băng, có lẽ vì nước chảy
mạnh hơn và ai đã bước lên đó thì hết phương giải cứu vì nước sẽ cuốn trôi đi.
May là không ai trong chúng tôi bị gì và sau sáu ngày đi trên dòng sông đóng
băng, chúng tôi đến làng Tyak mà gần đó là nơi sinh của Rintschen Sangpo. Ra
khỏi khe núi, phải nói chúng tôi rất buồn vì đã chấm dứt chuyến phiêu lưu và nhất
là phải xa những người bạn đồng hành.

Chỉ Sherab là ở lại với chúng tôi để lo liệu kiếm
thêm người và trâu. Bây giờ chúng tôi ở trên trục đường chính nên không còn gì
để ngại nữa. Tại Shipki, chúng tôi không thấy bóng dáng của viên tỉnh trưởng
Tsaparang đâu cả mặc dù đã cố tính cắm lều gần nhà khách của ông, một tòa nhà
khiêm tốn mà công chức Tây Tạng làm chỗ ở tạm thời. Chúng tôi vượt qua đèo Shipki không chút khó khăn mặc dù còn nhiều
tuyết và xuống đến bình nguyên Poo hạnh phúc, một thiên đường bé nhỏ; bấy giờ
vào khoảng cuối tháng giêng.

THUNG LŨNG HẠNH PHÚC

Poo cũng như mọi làng khác của Tây Tạng và con
người ở đây cũng như người Ấn phía bên kia đèo Shipki, chỉ biên giới chính trị
giữa hai nước Ấn Độ - Tây Tạng là chạy trên đỉnh đèo. Biên giới này không quan
trọng gì đối với dân ở hai phía, họ nói cùng thứ tiếng, cùng một tôn giáo, lui
tới với nhau không trở ngại, trong lúc hầu như họ không liên lạc gì với dân
chúng phía Ấn Độ của dãy Himalaya, cách Poo năm ngày đường.

Chúng tôi hy vọng tìm nơi đây một trạm bưu điện,
nhưng được nghe ở đây mỗi tháng mới có nhân viên bưu điện người Ấn đi qua một
lần. Và khi hỏi bao giờ thì ông ta đến, chúng tôi được nghe trả lời: “Đầu năm
khi đèo Himalaya mở lại”. “Khi nào mới mở’, chúng tôi lo ngại hỏi. “Ô, khoảng
ba tháng nữa!”.

Điều đó có nghĩa phải bốn tháng sau chúng tôi mới
đến được bình nguyên Ấn hay một thành phố lớn; vì từ đây mà đi Simla cần phải
một tháng mới tới. Điều này thật ra cũng chẳng sao, nếu tiền bạc và lương thực
của chúng tôi chưa cạn. Làm sao sống trong những tháng này? Thế nhưng điều này
không thành vấn đề đối với một ông già tốt bụng, ông là người quản lý cho một
nhà khách dành cho công chức của Sở lao động, họ là người có trách nhiệm tu bổ
con đường xuyên đèo Shipki. Ông già tự lấy quyền cho chúng tôi được ở trong nhà
khách này vì chúng tôi không liên hệ được với Sở. “Và nếu ông bà cạn tiền’, ông
nói thêm, “tôi đưa cho ông bà thêm. Ông bà trả lại cho tôi lúc bưu điện đến hay
bao giờ cũng được”.

“Nhưng chúng tôi là người lạ và không có chứng
minh gì”, chúng tôi nói và nghe ông trả lời: “Trách nhiệm của tôi là giúp ông
bà, ngoài ra tôi tin ông bà”.

Tên ông là Namgyal và dù bên ngoài không khác gì
dân trong làng - ông mặc chiếc áo thô, bện tay bằng sợi không nhuộm màu và đầu
đội chiếc mũ tròn nhỏ mà dân chúng vùng Himalaya thường đội - nhưng ông được
dân trong vùng kính trọng gọi là lạt ma Nyingma và là người sùng tín và hiểu
biết sâu sắc. Ông xem chúng tôi như người trong gia đình “vì tất cả chúng ta”,
nhưng ông nói, “đều là Aryakula, thuộc về dòng dõi cao quý của Phật”. Ông không
bỏ một cơ hội nào để nói với chúng tôi và Scherab về các vấn đề đạo lý, thậm
chí mang đến nhiều kinh sách thiêng liêng, tài sản quí báu nhất của ông, để
chúng tôi được đọc. Trong số đó có Tử Thư (Bardo Thodol), Mani Kahbum và những
tác phẩm nói về thời kỳ đầu của Phật giáo Tây Tạng, nhất là trong thời kỳ của
Liên Hoa Sinh va ba vị vua lớn Srongtsen Gampo, Tisong Desten và Ralpatschan.
Ngoài ra ông kể nhiều mẫu chuyện dân gian, thường đọc cho chúng tôi nghe những
đoạn trong sách mà sau đó ông giảng rất kỹ.

Cuốn Mani Kahbum gây ấn tượng sâu xa lên Scherab.
Một buổi sáng nọ anh đến chúng tôi, nước mắt đầm đìa; lý do là anh độc về số
phận của những người đã gây ác nghiệp về hại sinh vật. Anh thú nhận cũng làm ác
như vậy vì đã đặt bẫy chồn cáo. Chúng tôi an ủi anh, nói rằng không tội nghiệp
nào mà không hóa giải đi khi trái tim đã chuyển. Anh hứa sẽ không bao giờ làm
chuyện đó nữa và xúc động nghe Namgyal nó về lòng đại từ bi của Phật và những
hành động vị tha trên đường chứng ngộ Phật quả.

Ngày nọ Namgyal mời chúng tôi về nhà và chỉ cho
thấy phòng thiền định, bàn thờ với nhiều tượng và tranh thanka, và tòa lạt ma
dưới một vòm lụa ngũ sắc. Vợ ông là một người đàn bà nhỏ thó với một khuôn mặt
tinh tế có thần. Bà hát cho chúng tôi nghe những bài ca tôn giáo với một giọng
hay và dịu dàng khiến ta quên tuổi của bà. Cũng như chồng, bà là người thờ cúng
Liên Hoa Sinh không ai khác hôn là Thích-Ca Mâu-Ni trong dạng mới và trong
những hiện thân khác, hiền từ hay phẫn nộ, tùy theo suy nghĩ của con người.
Ngài luôn luôn là người hộ trì và dẫn dắt, cứu độ khỏi tai nạn và gây cảm khái
cho người thực hành thiền định. Ngài cũng lấy dạng hình của chúng. Có lần ngay
giữa mùa đông, cảnh vật đầy tuyết, chúng tôi bõng nghe tiếng chim hót, Namgyal
nói giọng nghiêm túc: “Ngài đó”.

Người ta nói rằng cứ ngày mồng mười mỗi tháng
theo lịch Tây Tạng, Liên Hoa Sinh giáng hạ trong thế gian và đệ tử của Ngài sẵn
sàng tiếp nhận Ngài trong tâm thức của mình dù Ngài có xuất hiện dưới dạng nào.
Vô số mẫu chuyện về Ngài được truyền miệng và được kể lại với sự sinh động như
mới xảy ra gần đây. Không ai hiểu Liên Hoa Sinh là người của quá khứ xa xôi,
hay người mới rời lũng này ra đi và bất cứ lúc nào cũng có thể về lại. Lần đầu
tiên chúng tôi ý thức tác đông ghê gớm mà Liên Hoa Sinh đã để lại cho dân Tây
Tạng. Ngài hẳn phải là một trong những người có nhân cách mạnh mẽ nhất của lịch
sử Phật giáo. Những chuyện thần kỳ quanh Ngài chỉ là kết quả của lòng tôn thờ
vô biên của học trò và dân chúng đối với Ngài.

Đối với chúng tôi trong thời gian tại Poo, Liên
Hoa Sinh sinh động hơn lúc nào cả, ký ức còn mới như ngày hôm qua Ngài còn nơi
đây.

Nhiều vị lạt ma lớn thường qua đây, hoặc đi từ
Tây Tạng đến các thánh tích tại Ấn hay từ Ấn về tại Ngân Sơn. Một trong những
vị đó là Tomo Géché Rimpotsché mà Namgyal nhắc tới với lòng ngưỡng mộ.

Hiển nhiên là người Tây Tạng nhạy cảm đối với các
vấn đề tâm linh hơn so với người phương Tây. Họ chưa mất khả năng chuyện trò
với những sức mạnh từ vô thức của mình, hay nghe hiểu tiếng nói của chúng được
hiện ra trong giấc mơ hay các hiện tượng khác. Ngày nọ Nymgyal tới và cho hay
nằm mơ thấy cầu vồng hiện trên nhà khách của chúng tôi và đây chỉ có thể là một
dấu hiệu tốt đẹp, thí dụ có vị đạo cao đức trọng nào đến thăm. Quả nhiên này
hôm sau có một lạt ma đến và trọ tại nhà nhỏ bên ngoài nhà chúng tôi. Chúng tôi
thấy ông từ xa lúc ông xuống ngựa; cả người và ngựa xem ra như đến từ một
chuyến đi dài, mệt nhọc. Áo của vị lạt ma đã cũ, bạc màu, con ngựa chậm chạp
ngơ ngác. Người ta cho hay vị lạt ma mới đi hành hương xa về và phải ở đây cho
đến khi đèo mở lại.

Trời lạnh và nhiều mây nên chúng tôi không ra
khỏi nhà. Ngày hôm sau, vị lạt mà và Namgyal đến thăm chúng tôi. Chúng tôi vui
mừng và ngạc nhiên xiết bao khi nhận ra đó là vị sư trưởng tại Phiyang mà chúng
tôi đã xúc động giã từ tại Tsaparang và nghĩ không bao giờ gặp lại. Lần đó
chúng tôi rất buồn vì nghĩ rằng lẽ ra mình học được nhiều nơi người này, nhất
là về phép tu thiền định. Chúng tôi thấy số mình thật xui, khi vừa nghĩ tới
điều này thì ông cũng vừa ra đi.

Không rõ lạt ma Phiyang có biết sẽ gặp lại chúng
tôi hay không, nhưng điều chắc chắn là lần đó ông đã đọc được ý nghĩ của chúng
tôi; vì bây giờ, trước khi chúng tôi nói lên ước muốn của mình, ông tự nguyện
đề nghị sẽ dạy cho chúng tôi phép tu Mật tông sadhana và phép du già liên quan.

Vì phòng ở chúng tôi lớn hơn chỗ ở của ông và nhờ
Scherab đốt lò sưởi ấm nên hàng ngày ông cùng Namgyal (bây giờ trở thành bạn
đồng môn của chúng tôi) đến chỉ dạy các phép thiền định và chỉ giáo về các vấn
đề. Đó thật là một thời gian hữu hiệu; vì thầy của chúng tôi hết sức tìm cách
chia sẻ kiến thức
và kinh nghiệm của mình. Vị đạo sư mới đã tiếp tục và hoàn thiện công trình của
Tomo Géché Rimpotsché và Adscho Rimpotsché. Chúng tôi rất lấy làm cảm kích. Và
lòng biết ơn này bao trùm cả bạn đồng môn Namgyal cũng như Scherab trung thành,
người đã lo cho tôi như lo cho một đứa con trai để theo đuổi chuyện tu học mà
không gặp trở ngại.

Khi tin lạt ma Phiyang đến và ở lâu tại Poo tới
tai dân chúng, nhiều người tìm đến và xin ông ban phước lành; và cuối cùng nhân
dân trong làng xin ông cử hành một buổi lễ tséwang. Buổi lễ này được tổ chức
ngay trong sân giữa phòng ở của ông và nhà khách của chúng tôi. Vài ngày trước
buổi lễ ông rút về phòng riêng - làm chúng tôi tiếc là không được gặp hàng ngày
như trước - nhưng chúng tôi cũng hiểu là ông cần một thời gian hoàn toàn tĩnh
lặng và tập trung để hô triệu sức mạnh trong người mình, sức mạnh mà ông muốn
trao truyền cho người khác. Sau một thời gian thì hình như có một lạt ma khác
đến với ông, chắc để giúp ông cử hành buổi lễ sắp tới; vì chúng tôi nghe một
tiếng nói trầm dài của giọng mới nhiều trong phòng ông. Tiếng tụng kinh trầm
dài của giọng mới thỉnh thoảng bị tiếng nói của lạt ma Phiyang cắt, nhưng ông
lẫn vị lạt ma mới đến không hề ra khỏi phòng. Chúng tôi rất tò mò muốn biết vị
mới đến là ai, nhưng không ai trả lời được cả. Một hai ngày sau lúc đi ngang
qua cửa phòng vị lạt ma Phiyang, chúng tôi lại nghe tiếng lạ đó và vì cửa đang
mở nên chúng tôi không nhịn được nhìn vào. Thật là ngạc nhiên không thấy ai
ngoài lạt ma Phiyang. Hình như ông không để ý đến chúng tôi đang có mặt, và
tiếng nói đó phát ra trầm và mạnh từ ông, như một người khác đã dùng ông mà
nói.

*

* *

Ngày lễ đến, người ta xây một cái tòa trong sân
giữa hai nhà. Tòa này nằm trước một bức tường được trang hoàng cẩn thận, phần
sân còn lại mang cờ đuôi nheo nhiều màu. Lạt ma Phiyang với đầy đủ trang phục
của một vị sư trưởng ngồi trên tòa, đầu đội mũ cao màu đỏ như các vị chức sắc
trong phái Nyingma và Kargyutpa. Không ai nhận lại ra ông là khách hành hương
già mà ngày hôm trước có thể bị tưởng là một tu sĩ khất thực chứ không phải là
một vị sư trưởng của một tu viện. Người ngồi trên tòa có dáng điệu và cử chỉ
của một vị chúa tể và tiếng nói của một con sư tử. Nét mặt ông có vẻ như nét
mặt của một nhà tiên tri đầy cảm khái và mỗi cử chỉ của ông đều bày tỏ cái uy
lực và sự cao quí. Ai có mặt nơi đây đều cảm nhận rằng không những ông đang hô
triệu một uy lực vô hình mà chính ông là hiện thân của uy lực đó - một uy lực
mà ông tự xây dựng trong người mình và tăng cường nó lên tột độ trong một trạng
thái thiền định liên tục và sâu lắng, tự đồng hóa với một khía cạnh đặc biệt
của một thực tại siêu việt. Ông là hiện thân của vị Tsépamé, Phật vô lượng thọ.
Những gì mà trong nội tâm ông đã chứng nghiệm bấy giờ đã thấy được, cảm được
cho những ai tham gia buổi lễ, giữ họ trong mối liên hệ. Nhịp điệu của thần chú
và những ấn quyết bí ẩn kèm theo hiện ra như những nút của một tấm lưới huyền
bí, trong đó người nghe hòa làm một thể thống nhất, bị cuốn hút trong một trung
tâm vô hình. Cảm giác của sự tham gia huyền bí lại được nâng cao hơn khi mỗi
người được nhận phước lành của
Vô lượng thọ Phật được ấn khả trong nước phép và một loại bánh phép màu đỏ,
được xem là “rượu và bánh của sự sống”.

Đó là buổi làm phép đẹp nhất mà chúng tôi từng
được tham dự, vì nó do một người cử hành, người đó đã quên đi bản thân con
người mình để biến nó thành bình chứa của năng lực siêu nhiên.

Chưa bao giờ mà ý nghĩa của việc tế lễ tâm linh
(đặc biệt cho công chúng) đối với tôi sâu sắc như thế này. Một buổi lễ - nếu
được cử hành bởi một người đầy đủ khả năng nhờ tu học tâm linh và lòng thành
kính để hướng tới một mục đích cao quý - sẽ kêu gọi được trái tim cũng nhưng ý
thức hiểu biết, đưa con người tiếp xúc trực tiếp với một đời sống phong phú và
sâu xa, vượt trên lĩnh vực của lý luận, lĩnh vực của suy tư cá nhân và giáo
điều tập thể.

Hãy để lại chút cảm nghĩ khi đọc xong truyện để tác giả và nhóm dịch có động lực hơn bạn nhé <3