Quê hương tan rã - Lời tựa
Tựa
Tác giả: Chinua Achebe
Cho tới cuối Thế chiến
vừa rồi, nhờ những hình trong các sách giáo khoa về địa lý, nhờ các phim chiếu
trên màn ảnh và nhờ ít cuốn du ký hay thám ký, chúng ta có được một số ấn tượng
rõ rệt về châu Phi Da Đen: cảnh rừng già âm u, cảnh đồng cỏ mênh mông với sư
tử, tê ngưu, cá sấu, với những cây baobab khổng lồ cả chục người ôm, những thổ
dân đen bóng như than mỏ Hồng Gai bị chứng bụng ỏng hoặc da voi, những cuộc săn
đầu người rùng rợn, những cuộc vũ ngoáy mông trong tiếng trống thùng thùng
trước một dãy chòi như hình nón úp, những ông thực dân da trắng đội nón “cát”
đi “ghệt”, nghễu nghện trên lưng lạc đà hoặc voi, phía sau là một đoàn dài nô
lệ da đen khiêng các rương hành lý và các thùng quân nhu, đạn dược... Chúng ta
thỏa mãn về những ấn tượng đó, tự cho là có ý niệm đúng về châu Phi Da Đen rồi,
chẳng cần tìm hiểu tâm lý, phong tục thổ dân ra sao, tin chắc rằng họ không có
một nền văn minh, chỉ là một giống người “ở ngoài lề”, không đáng cho mình quan
tâm tới. Vì tình nhân loại, chúng ta coi họ là những con người, chứ không phải
là người như chúng ta, mặc dầu ta với họ đều ở trong một hoàn cảnh như nhau:
dưới ách thực dân da trắng. Lỗi đó không về ta, mà về thực dân: chính họ chiếm
đất của người da đen, bóc lột dân da đen mà khinh bỉ người da đen, không tìm
hiểu người da đen. Chúng ta học lại họ, nên cũng ngu xuẩn như họ.
Nhưng hai chục năm nay, từ khi các dân tộc châu
Phi lần lần được giải phóng - mới gần hết chứ chưa hết - thì tình cảnh đảo
ngược lại. Không kể các chính khách hoạt động luôn luôn vị lợi, chúng ta đã
thấy nhiều học giả Âu, Mỹ nghiên cứu về các dân tộc Da Đen như G. Balandier, G.
Padmore, Mannoni, Jean-Paul Sartre, nhất là W. E. B. Du Bois, tác giả cuốn Âmes
noires đã được tái bản lần thứ hai mươi lăm... Các nhà đó đều nhận rằng có một
nền văn minh da đen độc đáo, một thời đã rực rỡ, thời đó cách đây bốn ngàn năm
miền Sahara còn phì nhiêu, xanh tốt, chưa thành một sa mạc - mà trước kia người
phương Tây không biết; và người da đen chỉ khác chúng ta ở màu da chứ tâm lý và trí tuệ
cũng như chúng ta, không thể bảo họ là một giống người thấp kém được.
Đồng thời, từ khi được độc lập, không bị thực
dân áp chế, cấm đoán nữa, vô số học giả, văn nhân, thi sĩ da đen, viết về văn
minh, phong tục, đời sống của họ, cất lên tiếng kêu ai oán để khóc những đau
khổ, tủi nhục cùng hi vọng của họ như T. Olawale Elias, Engelbert, Mveng,
Dominique Traoré, Amas Tutuola, Mongo Beti, Léopold Séder Sanghor, Aimé Cesaire
(tác giả tập thơ Return to my Native land, rất nổi danh), C. A. Diop (tác giả
các cuốn l Unite culturelle de l Afrique noire, Nations negrest et culture), và
Chinua Achebe mà hôm nay chúng tôi xin giới thiệu với độc giả.
Achebe sinh năm 1930 ở Ogidi, một làng lớn miền
Tây Phi, xa biển và cách con sông Niger khoảng sáu bảy cây số. Tổ tiên ông
thuộc bộ lạc Ibo sống trên vùng hạ lưu sông Niger. Khi những nhà truyền giáo
Anh bắt đầu tới trong miền (khoảng 1870) thì ông nội ông niềm nở đón tiếp họ,
cho một người con trai theo học họ, người con này năm 1904 thành một trong
những nhà giáo Ibo đầu tiên, kết hôn với một thiếu nữ gia đình thợ rèn - nghề
này rất được dân chúng trọng vì tin rằng có bùa phép - và sanh ra Chinua
Achebe.
Achebe học ở trường Trung học Umuahia, sau lên
đại học Ibadan, là một trong những người đầu tiên lập thân từ đại học này. Năm
1924 ông làm ở đài Phát thanh Nigeria, tám năm sau lên chức Giám đốc. Vừa làm
việc ông vừa viết tiểu thuyết, viết khá mạnh: cuốn đầu tay Things fall apart
(Quê hương tan rã) xuất bản năm 1958, hai năm sau ra cuốn No longer at ease (Không
còn được yên ổn nữa), tiếp theo là cuốn Arrow of God (Mũi tên của Thượng đế).
Ông thành công ngay từ bước đầu: Quê hương tan
rã được các nhà phê bình Phi, Âu, và Mỹ hoan nghênh nhiệt liệt, coi là tiểu
thuyết phong phú nhất, chính xác nhất, bố cục khéo léo nhất, mà bình tĩnh nhất
của một người Phi châu viết về Phi châu Da Đen từ sau thế chiến tới nay. Tác
phẩm đã được dịch ra các tiếng Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Đức, bán được nửa triệu
bản và hiện nay được dùng trong nhiều trường dạy Anh ngữ ở châu Phi, như một
tác phẩm cổ điển vậy.
Người ta khen ông nhất là mới hai mươi tám tuổi
mà đã có một bút pháp già dặn, có tinh thần khách quan, công bình, tưởng tượng
dồi dào mà vẫn trọng sự thực, chỉ vẽ lại đúng xã hội Ibo ở hậu bán thế kỷ
trước, khi người da trắng chưa tới rồi bắt đầu tới, không vì óc bài ngoại, tự
ái mà đề cao đồng bào mình, mạt sát người da trắng, nhờ vậy tác phẩm có giá trị
rất lớn về phương diện nghệ thuật và tài liệu. Ông không giảng giải, thuyết
phục cũng không mạt sát nữa mà chúng ta vẫn thấm thía cái bi kịch của một dân
tộc chất phác bị một tụi thực dân quỷ quyệt lừa gạt, chà đạp, bóc lột, làm cho
nòi giống chia rẽ, quê hương tan nát, bi kịch đó là bi kịch chung của người da
đen, da vàng thế kỷ trước, và tuy nói là đã chấm dứt sau thế chiến vừa rồi mà
sự thực hiện vẫn còn kéo dài dưới một hình thức mới mẻ hơn, và cũng thâm hiểm
hơn. Cho nên đọc tác phẩm, người Việt chúng ta không thể nào không liên tưởng
tới thời bọn truyền giáo, thương nhân và quân đội Pháp xâm nhập nước ta dưới
triều Nguyễn.
Truyện kể lại đời một anh hùng Obi tên là
Okonkwo, vì thâm oán cảnh bần cùng do người cha vô tài, nhu nhược gây nên, mà
can đảm, cương quyết tự lập thân, sau nhiều năm chiến đấu gay go, tạo được sự
nghiệp và danh vọng trong thị tộc, rồi chẳng may vô ý phạm một tội nặng, phải
bỏ cả nhà cửa, ruộng đất, dắt vợ con qua ở nhờ bên nhà ngoại bảy năm. Nhờ được
một người bạn thân và bà con bên ngoại giúp, ông ta tính hết hạn bị lưu đày, sẽ
trở về quê cha gây dựng lại dinh cơ đồ sộ hơn trước nữa, nhưng ông đã thất vọng
chua chát vì trong bảy năm đó quê hương ông đã thay đổi hẳn: người da trắng đã
tới.
Mới đầu chỉ là một vài nhà truyền giáo. Dân
trong làng cho đạo Ki Tô là kì cục, nhưng không kì thị màu da, cũng không kì
thị tôn giáo, mà còn khoan dung và hiếu khách, cho họ cất giáo đường và thuyết
giáo, không hề ngăn cấm con em theo đạo. Nhưng ngoài giáo đường ra, người Anh
còn lập một chính phủ nữa, dựng một tòa án, đem lính tráng, súng ống lại để xử
tội người da đen theo luật da trắng. Rồi họ mở các tiệm buôn, vơ vét các sản
phẩm địa phương, sau cùng cất dưỡng đường và trường học để dụ dỗ dân làng.
Dân Ibo theo mỗi ngày một đông, mới đầu là những
kẻ nghèo nàn đê tiện, sau đó cả một số người khá giả, có chức vị trong làng.
Đau đớn cho Okonkwo là đứa con trai lớn của ông Nwoye, là một trong những kẻ
đầu tiên theo tôn giáo mới, từ bỏ cha mình.
Thế là có sự chia rẽ trầm trọng trong gia đình
và bộ lạc Ibo. Okonkwo vốn là một chiến sĩ, có tinh thần dân tộc, trọng cổ tục,
thấy nguy cơ tan rã của quê hương, muốn hô hào mọi người chống lại người Anh,
nhưng ngay người bạn thân nhất của ông, Obierika cũng thấy là vô vọng, thở dài
bảo ông:
“Anh nghĩ coi, làm sao chúng ta có thể chiến đấu
được khi mà chính anh em chúng ta cũng chống lại chúng ta? Thằng da trắng quỷ
quyệt lắm. Nó lặng lẽ, ôn hòa đem tôn giáo của nó lại đây. Chúng ta (...) cho
phép nó ở. Bây giờ nó đã chinh phục được anh em của chúng ta và thị tộc không
còn đoàn kết như một người để hành động nữa. Nó đã cắt những dây kết chặt chúng
ta với nhau và chúng ta đã tan rã.”
Sau vì có tinh thần hiệp sĩ mà chất phác,
Okonkwo và năm hào mục khác trong làng bị tên Ủy viên Anh lừa gạt: trong khi
hai bên thương thuyết, hắn dùng một tụi tay sai da đen đập bọn Okonkwo, nhốt
khám, cạo trọc đầu, làm nhục, bắt phải nộp tiền chuộc mạng. Được thả ra,
Okonkwo uất quá, nhất định tự mình trả thù: ông chặt đầu tên sếp Kotma (tức mã
tà) Anh, thấy dân chúng, bà con, anh em của ông sợ sệt, không dám cùng ông nổi
dậy đánh đuổi người da trắng, ông tự treo cổ lên cây, tự nhận một cái chết mà
người Obi cho là ghê tởm, ai oán nhất.
Truyệt kết thúc ở đó. Thế là một bộ lạc nổi
tiếng là hào hùng chỉ vì bị ngoại nhân chia rẽ mà phải khuất phục; một nền văn
minh vững bền hằng bao thế kỷ, có những cổ tục rất đẹp (tình cha con, tình vợ
chồng, tình họ hàng, tình bạn bè rất thắm thiết) bị tiêu diệt; một xã hội tổ
chức chặt chẽ, đoàn kết mà có trật tự, chỉ trong có mươi năm sụp đổ tan tành!
Tác giả chép lại sự biến chuyển đó một cách
trung thực, không hề thốt một lời phê bình hay than thở mà làm cho chúng ta lúc
thì bùi ngùi, lúc thì căm phẫn. Ở Phi hay ở Á, thời xưa cũng như thời nay,
chính sách thực dân bao giờ cũng vậy: đem lợi để nhử, dùng thuật chia rẽ để dễ
trị, và chính vì có những kẻ bán nước nên nước mới mất.
Truyện đọc rất hấp dẫn vì tác giả tả nhiều phong
tục lạ châu Phi, có những tục chúng ta cho là quái đản mà chắc hiện nay cũng đã
gần mất rồi. Vì vậy có nhà phê bình cho rằng tác phẩm giúp ta hiểu châu Phi hơn
các bộ nghiên cứu về châu đó. Riêng chúng tôi thấy chương XXI tả một người vợ
của Okonkwo suốt đêm lén theo một bà cốt đã bắt đứa con gái độc nhất của mình,
đáng coi là bất hủ trong văn học châu Phi: sức tưởng tượng của tác giả thật
phong phú: không khí tác giả gây nên thật lạnh lẽo, rùng rợn; mà phần nhân bản
cũng rất đẹp: tình mẹ con, tình vợ chồng, cả tình của bà cốt đối với đứa bé
thật cảm động.
Để giữ mãi màu sắc địa phương, chúng tôi đã lựa
chọn giải pháp là trực dịch, sát chừng nào hay chừng nấy, nhất là trong các
đoạn đối thoại, vì hễ thay đổi lời nói thì phong tục, tín ngưỡng cũng thay đổi.
Trong truyện dùng nhiều danh từ Ibo, in ngả, mà
bản tiếng Anh và tiếng Pháp đều không chú thích. Chúng tôi đoán nghĩa - có thể
nhiều nghĩa đoán không đúng lắm - rồi gom lại thành một bản ở cuối sách để giúp
độc giả dễ tra mỗi khi thấy bỡ ngỡ.
Sài Gòn, ngày 15 tháng Bảy năm 1970