Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất - Phần II - Chương 3

Hỏi Phật

Lời thề trong dĩ vãng đều thành mây khói. Câu chuyện của ngày hôm qua cũng đã kết thúc. Tsangyang Gyatso nên hiểu rõ, tươi héo vô ý, hợp tan tùy duyên. Chỉ là khi Ngài đứng trên bờ sông thời gian, ngắm bóng hình của kiếp phù du, vẫn cảm khái muôn vàn.

Trên đời này quả thật có quá nhiều chuyện sơ suất ngẫu nhiên, rất nhiều bỏ lỡ, rất nhiều lướt vai, khiến người dở khóc dở cười. Rất nhiều người thích sắp xếp sẵn hành trình cho mình, ghi chép hết những việc muốn làm vào trang sách của đời người. Nhưng sự đời muôn vàn biến hoá, quá trình có lẽ còn có thể đoán trước, kết cuộc lại luôn nằm ngoài dự liệu. Thế là chúng ta không ngừng thêm bớt sửa đổi tình tiết, không ngừng nhân nhượng cầu toàn, đến cuối cùng, giữa tưởng tượng và thực thế lại khác biệt một trời một vực.

Cung Potala, một tòa cung điện đẹp đẽ trên cao nguyên Tây Tạng, một sân khấu tô vẽ đậm mực của nhân gian. Biết bao linh đồng chuyển thế xóa đi quá khứ, thay đổi tâm tình ở đó. Thế nhưng không phải bạn nghe theo ai, người đó sẽ cho bạn mãn nguyện. Tsangyang Gyatso dùng thời gian ba năm, muốn đổi lấy quyền trượng cho rằng theo lý đương nhiên thuộc về Ngài, cuối cùng cũng chỉ như bọt nước, chớp mắt đã tan. Ví như chúng ta nghĩ đủ mọi cách muốn uống một tách trà, nhưng vì thời gian chờ đợi quá dài, cầm trong tay đã nguội lạnh, uống vào đã không phải là mùi vị ấy nữa. Nhưng như vậy, ít nhất chúng ta vẫn ngửi được hương thơm của trà, còn Tsangyang Gyatso, ngồi trong cung điện sâu thẳm trống trải, chỉ cảm nhận được nỗi quạnh quẽ và bất lực vô biên.

Có người nói, Tsangyang Gyatso may mắn. Giờ đây nghĩ lại, Ngài quả thật may mắn hơn Đạt Lai Lạt Ma mấy đời trước đó. Những linh đồng chuyển thế ấy từ nhỏ đã phải tiếp nhận học tập Phật giáo chính quy, họ nào có tuổi thơ vô tư, thời gian lãng mạn. Còn Tsangyang Gyatso, mười lăm năm nay không hề biết thân phận của mình, Ngài trải qua những ngày tháng đơn thuần đẹp đẽ nhất của đời người mà không có bất cứ áp lực và gánh nặng nào. Mười lăm năm dài, dùng vui vẻ của mười lăm năm, đổi lấy năm tháng sau này thân bất do kỷ, cũng là xứng đáng.

Thế nhưng không ai quy định rằng, Tsangyang Gyatso phải hài lòng, phải trả giá vì quá khứ hạnh phúc của mình. Dù Ngài ở cung Potala, khổ tu ba năm, cũng không thể bù đắp cơ duyên đã từng lỡ mất. Bắt đầu từ khi Đệ Ba Sangye Gyatso dự tính giấu không phát tang đối với cái chết của Đạt Lai thứ 5, Tsangyang Gyatso đã mất đi thời cơ tốt nhất để trở thành Đạt Lai thứ 6. Sangye Gyatso làm sao nỡ dễ dàng nhường lại chính quyền nắm giữ mấy mươi năm cho một đứa trẻ đã buông thả chốn nhân gian mười lăm năm, y thật sự yên tâm sao? Dù hiện tại Tsangyang Gyatso đã có thành quả tu luyện ba năm, đối với Sangye Gyatso, còn xa mới đủ tiêu chuẩn trong lòng y. Tài thao lược kiệt xuất của Đạt Lai thứ 5 Lobsang Gyatso đã bén rễ sâu vững trong lòng y, những thành tựu phi phàm ấy, Tsangyang Gyatso há có thể thay thế?

Do đó, dù Tsangyang Gyatso mỏi mắt trông chờ, Sangye Gyatso cũng trước sau không giao cây quyền trượng đại diện cho vương giả ấy vào tay Ngài. Tsangyang Gyatso lại chật vật sống qua hai năm trong chờ đợi và ẩn nhẫn. Hai năm này, Ngài hết sức khiến mình bình tĩnh, hòa nhã đối đãi mỗi một việc, mỗi một người. Hai năm này, Ngài khiến mình triệt để chìm đắm trong Phật pháp mênh mông, dường như muốn quên hết mọi thứ của thời niên thiếu. Không phải là quên, đúng ra là gói ghém lại quá khứ một cách hoàn hảo, cất kín ở một góc không thể dễ dàng chạm đến của nội tâm. Dù vất vả, nhưng Ngài đã làm được, kinh Phật khiến lòng Ngài dần dần bình tĩnh. Ngài tự nhủ rằng, lúc không sức đánh trả, điều duy nhất có thể làm, chính là nhịn.

Việc đời quả thật tối sáng khó đoán, buồn vui thất thường, Tsangyang Gyatso hết sức khiến mình bình tĩnh trong chờ đợi, lại vẫn bị một tin tức bất ngờ làm tổn thương cùng cực. Mẹ và hàng xóm từ Monyu xa xôi đến thăm Ngài, mang đến cho Tsangyang Gyatso nỗi kinh ngạc như đã xa cách một đời, đồng thời cũng mang đến một tin tức khiến Ngài đau buồn mãi không thôi. Tin tức này đã đập tan hoàn toàn niềm tin Ngài kiên định không dời mấy năm nay. Từ khi rời khỏi Monyu, Tsangyang Gyatso bị nhốt trong cung Potala, một chiếc lồng mỹ miều, chỉ dựa vào hồi ức đẹp đẽ ngày trước để sống qua ngày. Trong vô số giấc mơ lúc nửa đêm, Ngài đều ảo tưởng mình và ý trung nhân hò hẹn trên bãi cỏ dưới ánh trăng, nói những lời nói dịu dàng, trong mơ, Ngài ngửi mùi hương của nàng, ngắm nụ cười ngọt ngào của nàng.

Lời thề non hẹn biển,

Nàng từng trao cho ta.

Lại giống như nút thắt,

Chưa đụng đã bung ra.

Đò ngang dẫu vô tâm,

Đầu ngựa luôn ngoảnh lại[1].

Người yêu không tình nghĩa,

Quay lưng chẳng đoái hoài.

[1] Ở Tây Tạng đò ngang đều khắc ngựa gỗ, đầu ngựa ngoảnh nhìn lại phía sau.

Nàng chẳng phải mẹ sinh,

Lớn trên cây đào ấy?

Sao tình yêu của nàng,

Tàn nhanh hơn hoa vậy?

Giấc mơ đó đã bị đánh thức một cách tàn nhẫn, thậm chí còn không cho Ngài bất cứ cơ hội nào để nghỉ lấy hơi. Cô gái Monpa cùng Ngài thề non hẹn biển đã khoác áo cưới làm cô dâu của người khác. Lòng Tsangyang Gyatso triệt để tan nát bởi tin tức này, tình cảm vui vẻ ngày xưa hiện rõ mồn một trước mắt, lời thề đã trao vẫn còn quanh quẩn bên tai, vì sao chớp mắt tất cả đã ngấm ngầm thay đổi? Chẳng lẽ lời thề thật sự nhẹ nhàng như giấy mỏng? Chẳng lẽ lòng người dễ dàng thay đổi như thế? Tình yêu Ngài khổ sở si mê gìn giữ, ở nơi nàng, thật sự nhỏ bé không đáng kể như thế hay sao?

Người yêu ta tha thiết,

Bị kẻ khác cưới rồi.

Ta tương tư khổ sở,

Còn da bọc xương thôi.

Có thể dùng thòng lọng,

Để bắt được ngựa hoang.

Người thay đổi lòng dạ,

Sức thần khó giữ nàng.

Có lẽ chúng ta nên trách, thế là không công bằng cho cô gái người Monpa kia, Tsangyang Gyatso năm xưa vội vã rời đi, thậm chí không kịp nói cả một lời từ biệt. Sau khi nàng biết tin Ngài là linh đồng chuyển thế, biết họ kiếp này không còn hy vọng gặp nhau, ắt hẳn nàng đã khóc đến đứt từng khúc ruột. Mấy năm nay, họ hoàn toàn không có tin tức của nhau, chỉ có thể giữ thước phim ấm áp của quá khứ để chữa lành vết thương. Biết rõ là một sự chờ đợi không có kết cục, nhưng nàng vẫn si dại chờ ở ngã tư đường lúc ly biệt, lừa dối bản thân có lẽ sẽ có kỳ tích xảy ra. Nhưng nỗi si tình của nàng chỉ đổi lại ánh mắt khác thường của mọi người, và những lời nhiếc móc tàn nhẫn của người nhà. Khi nhiều cô gái cùng trang lứa với nàng lần lượt xuất giá, lý do mà nàng đưa ra thật là bạc nhược, yếu ớt.

Tsangyang Gyatso thật sự đã trách lầm nàng, nàng kiên trì đến cuối cùng bằng sự quyết liệt của mình. Dù người dân Monpa thuần phác đôn hậu, nhưng họ cũng không cho phép một cô gái trẻ tuổi si dại chờ đợi vì một lời ước hẹn không kỳ hạn. Bất kể nàng có bao nhiêu tuổi xuân có thể lãng phí, cũng không thể sánh với thời gian bất tận. Nếu Tsangyang Gyatso đặt mình vào hoàn cảnh của nàng mà nghĩ cho nàng, nhất định sẽ hối hận khi bản thân viết ra câu thơ tàn nhẫn như vậy. Nếu nói phụ bạc, là Ngài rời khỏi trước, tuy có nỗi khổ, nhưng rốt cuộc vẫn là Ngài phụ nàng. Từ lúc Ngài vào ở trong cung Potala, có nghĩa tất cả lời thề đều sẽ hóa thành tro bụi, Ngài chẳng có tư cách sở hữu tình yêu, chẳng có tư cách oán trách cô gái vô tội ấy thay lòng gả làm vợ người khác.

Chỉ cần Tsangyang Gyatso nhắm mắt suy nghĩ, thì có thể nhìn thấy tình cảnh thê lương của ý trung nhân, nàng chờ đợi trong tuyệt vọng, cuối cùng không chịu đựng nổi lời chỉ trích của mọi người, rưng rưng nước mắt khoác áo cưới, làm cô dâu của người khác. Suốt đời này, nàng làm sao còn có thể có được hạnh phúc chân chính? Mối tình đầu chôn trong đáy lòng, mỗi năm, nỗi nhớ đều theo cỏ xuân lan tràn, linh hồn nàng định sẵn không yên ổn vì Ngài. Nếu nàng đọc được bài thơ của Tsangyang Gyatso, lại sẽ thổn thức rơi lệ ra sao? Có lẽ chúng ta không nên oán trách ai, duyên phận bạc bẽo ấy đã khiến họ đau lòng cùng cực, làm sao nỡ chỉ trích làm thương tâm thêm.

Đây phải là lúc Tsangyang Gyatso sa sút nhất, đau khổ nhất. Kiếp sống con rối năm năm, khiến lý tưởng tự mình chấp chính của Ngài tan vỡ, giờ đây lại nếm trọn nỗi đau thất tình xé lòng, khiến Ngài nguội lòng nản chí. Vị Phật sống đau khổ tuyệt vọng không thể tịnh tâm để suy xét mọi việc. Ngài không biết, cục diện chính trị của Tây Tạng lúc đó vẫn đang lung lay trong gió, dã tâm của Lha-bzang Khan[2] khiến Đệ Ba Sangye Gyatso không dám có mảy may sơ suất. Dù không bị dục vọng quyền lực thúc đẩy, Sangye Gyatso cũng không dám giao chính quyền cho một đứa trẻ tiếp xúc sự đời chưa nhiều, chưa từng tham gia chính sự. Tsangyang Gyatso làm sao hiểu rõ, đấu tranh chính trị khốc liệt vượt xa đấu tranh tình cảm, một trận giết chóc sẽ đem đến tổn thương thê thảm nhất trần gian, sẽ khiến người dân khốn khổ. Tổn thương tình cảm tuy là địa ngục nhân gian, nhưng cá nhân so với chúng sinh, sẽ tỏ ra quá đỗi nhỏ bé.

[2] Lha-bzang Khan (La Tạng Hãn): cháu của Gushi Khan (Cố Thủy Hãn), thủ lĩnh của bộ lạc Khoshut (Hòa Thạc Đặc).

Nhà Phật tin vào nhân quả, lẽ nào tất cả cảnh ngộ hôm nay của Tsangyang Gyatso là nhân Ngài đã từng gieo, phải gặt lấy quả? Mấy năm nay, cuộc đời Ngài có biến hóa biển biếc nương dâu, đây lẽ nào chính là đau khổ mà Phật sống phải gánh chịu, cái giá phải trả ra? Nếu phải, Ngài chẳng có lời nào để nói, cứ xem là phúc báo của đời này vậy. Hy vọng trải qua kiếp nạn này, ngày tháng về sau, có thể trời cao biển rộng. Nhưng Ngài vẫn cảm thấy một nỗi tuyệt vọng trước giờ chưa từng có, vì Ngài uổng là Phật sống, đừng nói cứu giúp người đời, ngay cả bản thân mình cũng không giải thoát được.

Lời thề trong dĩ vãng đều đã thành mây khói. Câu chuyện của hôm nay cũng đã kết thúc. Tsangyang Gyatso nên hiểu rõ, tươi héo vô ý, hợp tan tùy duyên. Chỉ là khi Ngài đứng trên bờ sông thời gian, ngắm bóng hình của kiếp phù du, vẫn cảm khái muôn vàn. Đời người, thật ra chính là một cuốn sách kinh không chữ, Tsangyang Gyatso đã tu luyện nhiều năm cũng đọc không hiểu, tham không thấu. Trong lúc bất lực, Ngài đành hướng về Đức Phật, đưa ra câu hỏi hoang mang mà tình sâu.

Bến đò

Bất cứ một ai tin vào duyên phận đều sẽ hiểu rõ, tình duyên trên đời này nên hợp thì hợp, nên tan thì tan, khi duyên phận đã hết, một khắc cũng sẽ không lưu lại.

Bất cứ một ai tin vào duyên phận đều sẽ hiểu rõ, tình duyên trên đời này nên hợp thì hợp, nên tan thì tan, khi duyên phận đã hết, một khắc cũng sẽ không lưu lại. Có lúc duyên phận giữa người với người chẳng bằng một ngọn cỏ, cỏ còn có thể trải qua xuân tươi thu héo, còn duyên phận mỏng manh, ngắn ngủi như một giấc mộng đêm xuân. Đúng vậy, tựa hồ có một giấc mộng, sau khi tỉnh mộng, bạn đứng lặng hồi lâu trước cửa sổ trong gió lạnh, phát giác mình lại trở về buổi ban đầu của sinh mệnh, chẳng còn gì cả. Nhưng tuy rằng trắng tay, phải chăng vẫn còn trong sạch? Còn tinh khiết?

Nhà thơ Đài Loan Tịch Mộ Dung từng có một bài thơ, “Bến đò”.

Cho em nắm lấy tay chàng,

Giã từ, rồi lại nhẹ nhàng rút tay.

Nhớ nhung bén rễ từ đây,

Lâng lâng như ở trên mây bồng bềnh.

Núi sông vốn dĩ trang nghiêm,

Vì ly biệt, bỗng trở nên dịu dàng.

Cho em nắm lấy tay chàng,

Giã từ, rồi lại nhẹ nhàng rút tay.

Tháng năm ngưng đọng từ đây,

Trong tim lệ nóng sánh tày sông sâu.

Muôn vàn bất lực nhìn nhau,

Bến đò trống trải, tìm đâu hoa cài.

Đem lời chúc phúc tặng ai,

Ngày mai, hai đứa ở hai phương trời…

Bến đò của Tịch Mộ Dung là bến đò của ly biệt, tràn đầy tình cảm nhớ mãi không quên và tâm ý chia tay lưu luyến. Những năm qua, không biết đã cảm động bao nhiêu người si tâm không đổi vì tình yêu. Cũng không biết bắt đầu từ lúc nào, tôi đã thích bến đò, bến đò của đời người, bến đò của năm tháng. Thuyền bè qua lại xuất phát từ nơi này, lại từ phương xa trở về nơi này. Do đó, gặp gỡ cũng là bến đò, ly biệt cũng là bến đò, duyên đến cũng là bến đò, duyên đi vẫn là bến đò. Hai chữ “bến đò” ẩn chứa quá nhiều tình cảm của đời người, tụ hợp ly tan. Bến đò của tôi, có lẽ là thanh đạm, sẽ không có nhiều khách qua đường lai vãng, chỉ ngẫu nhiên có kẻ lênh đênh trôi giạt đi ngang, mây nhạt gió nhẹ.

Tôi nghĩ đến bến đò của Tsangyang Gyatso, cũng là ly biệt. Khi Ngài được biết ý trung nhân làm vợ người khác, trái tim vốn đã tan tác tả tơi của Ngài càng bị nghiền nát thành tro bụi. Thật ra năm xưa Ngài bị đưa vào cung Potala có nghĩa là duyên phận của họ đã triệt để kết thúc, có nghĩa giữa họ từ đó định sẵn mỗi người một phương. Ngày thu ấy là bến đò ly biệt của đời người, một người vì nợ cũ của kiếp trước đi xa đến chân trời, một người vì ước hẹn không có kết cuộc chờ đợi hư vô. Tsangyang Gyatso là vua của cung Potala, là một vị vua không có vương hậu. Tình yêu trong tòa cung đẹp đẽ này đã trở thành một truyền thuyết xa xưa. Songtsän Gampo và công chúa Văn Thành từng có một tình yêu, nhưng sau khi Đạt Lai thứ 5 xây lại cung Potala, nơi này đã trở thành đạo tràng bồ đề không trai gái yêu đương, rời xa mộng tưởng điên đảo.

Đối với Tsangyang Gyatso, tất cả những điều này thật sự là quá trễ tràng. Người ta nói tình yêu là thuốc độc, Ngài đã trúng độc quá nặng. Nếu trước giờ chưa từng có bắt đầu, nếu khi chưa tỏ việc đời Ngài đã bị đem vào cung Potala dốc lòng học tập kinh văn, có lẽ Ngài sẽ là một vị Lạt Ma không hiểu tình yêu, không có dục vọng. Trong ấn tượng của chúng ta, luôn cảm thấy Phật là vô tình, vì Người không thể có tình, không thể rơi lệ. Nhưng nếu Phật thật sự vô tình, sao lại đem lòng thương xót độ hóa chúng sinh? Nhà Phật có quá nhiều thanh quy giới luật, lẽ nào tuân thủ thanh quy, quy ẩn núi sâu rừng thiền, không hỏi mọi việc trên đời, chính là đắc đạo, chính là từ bi hay sao? Còn một nhà sư lưu luyến tình ái, ăn thịt uống rượu, truyền dương Phật pháp ở chốn sâu hồng trần, lại trở thành tội ác hay sao?

Việc khiến nhiều người nghi hoặc trên thế gian này quá nhiều, chúng ta không thể khắc chế dục vọng của mình, vậy thì vì sao phải oán trách tham sân si luyến của kẻ khác? Lẽ nào Phật thì phải triệt để vô tư, Phật thì phải sống vì đông đảo chúng sinh? Nếu như Tsangyang Gyatso không phải là linh đồng chuyển thế, cuộc đời của Ngài sẽ là một cảnh tượng khác, trong không gian nhỏ hẹp thuộc về Ngài, bình dị yên ổn, không tiếng không tăm. Chẳng có nếu như, Ngài đã ngồi trên ngai Phật chót vót của cung Potala, thì phải trả giá vì vinh dự chí tôn. Ngài đã bị quấy nhiễu, bị thế tục quấy nhiễu, bị tình cảm quấy nhiễu, do đó Ngài không vui vẻ, do đó viết nên câu thơ bất lực dường này.

Một là đừng gặp gỡ,

để khỏi quyến luyến nhau.

Hai là đừng quen biết,

để khỏi tương tư nhiều[1].

[1] Đào Bạch Liên dịch

Nếu thế giới này chẳng ai quen biết ai, có lẽ sẽ thật sự yên tĩnh không một tiếng động. Nhưng im lìm như vậy còn được xem là nhân gian khói lửa hay sao? Tsangyang Gyatso nói không gặp nhau, không biết nhau, nhưng bất cứ một ai tồn tại chốn phàm trần đều không thể nào chẳng gặp nhau, chẳng nợ nhau. Nhớ lại câu thơ của Nạp Lan Dung Nhược[2]: “Nhân gian nhược chích như sơ kiến (Đời người nếu chỉ như gặp gỡ lần đầu)”. Mỗi người đều mong mỏi cuộc gặp gỡ giữa người và người thuở ban đầu đều đẹp đẽ như thế, thuần nhất như thế. Không có tổn thương, không có bụi bặm, không có tình yêu sâu đậm, cũng không có oán hận thấu xương. Thử hỏi, đời người như vậy, còn có mùi vị gì?

[2] Nạp Lan Tính Đức, tự Dung Nhược (1655-1685), là một nhà thơ người Mãn Châu đời nhà Thanh, tài hoa nhưng yểu mệnh, được tôn là “Người viết từ hay nhất đầu đời Thanh”. Ông để lại nhiều tác phẩm thấm đẫm nỗi sầu bi, lụy khổ.

Đã lạc vào phàm trần, thì nên tuân thủ quy tắc của phàm trần, không sợ sống chết, dám yêu dám hận. Dù bị khói lửa cay xè đến nước mắt đầm đìa, cũng phải thúc ngựa vung roi, nhảy sóng chèo thuyền, dốc toàn lực sống mái một trận, không chừa đường lui. Tuy nói là thế, khi bạn bị gió mưa đao kiếm đả thương đến ngàn trăm lỗ thủng, ai là người trị thương cho bạn? Có mấy ai là dũng sĩ chân chính, đứng đầu sóng ngọn gió, đợi phán xét của vận mệnh, chờ thời gian đến chia cắt. Không ai thật sự nguyện ý nhìn thấy người dân khốn khổ, máu thịt bầy nhầy, lòng của nhiều người đều hướng đến hòa bình, hướng đến yên ổn. Cho nên mới theo đuổi sự lãng mạn và nhu tình, mới yêu thích thơ của Tsangyang Gyatso, mới tha thứ tội lỗi mà Ngài, thân là Phật vẫn lưu luyến tình ái nhân gian, phạm phải.

Có người nói, Tsangyang Gyatso thật sự là cố giữ sai lầm không chịu tỉnh ngộ. Thời gian tròn năm năm, ra sức học tập kinh văn, tham ngộ Phật pháp, lại vẫn không tránh khỏi trận tình kiếp to lớn này. Thơ của Ngài khiến mọi người chứng thực thân phận tình tăng của Ngài, trong cả quá trình tu Phật, Ngài trước sau không quên người đẹp phấn hồng. Cũng có người nói, đây mới là Tsangyang Gyatso chân chính, một người chí tình chí tính, người thâm nhập hồng trần, mới có thể tu luyện thành Phật. Phật không phải là hư vô, Phật cũng là hóa thân của con người, vì tham thấu mọi việc trên đời, mới đứng ngoài cuộc, nhàn tản trên mây. Có lẽ trong quá trình tu hành, Tsangyang Gyatso nhất thiết phải trải qua tình kiếp mới có thể thành Phật, một vị Phật trong thế giới Sa-bà[3], độ hóa chúng sinh.

[3] Thế giới Sa-bà (Ta-bà, Samsara): Theo kinh điển Phật giáo, các loài chúng sinh hữu tình hiện sinh luân hồi trong thế giới Sa-bà hay còn gọi là Tam Giới: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Chúng ta rất muốn biết, sau khi thất tình, Tsangyang Gyatso rốt cuộc sẽ lựa chọn lại một phương thức sống ra sao. Phải chăng Ngài sẽ bước ra khỏi vũng bùn tình cảm, đoạt lại quyền trượng từ tay Đệ Ba Sangye Gyatso, dùng địa vị thủ lĩnh chính giáo Tây Tạng của Ngài, bắt đầu thật sự nắm giữ quyền lực chính giáo? Hoặc là từ đó an phận thủ thường nghe lệnh Như Lai, tịnh tâm tham thiền trong cung Potala? Hiển nhiên tất cả những điều này đều không phải, tính tình của Ngài đã định sẵn cuộc đời nay mai của Ngài. Cũng giống như một vở kịch, lúc bắt đầu, chúng ta đã có thể đoán trước kết cuộc. Dù là như thế, chẳng mấy ai có thể bình tâm tịnh khí quan sát cả quá trình, tâm tình chúng ta vẫn thấp thỏm theo từng tình tiết.

Thật ra cục diện chính trị Tây Tạng lúc đó một bầu hỗn loạn, mà Tsangyang Gyatso lại chìm đắm trong cảm xúc bi thương cá nhân không thể tự thoát ra. Tsangyang Gyatso không hề để tâm quyền thế, thậm chí không để tâm địa vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 6 của Ngài. Thế nhưng điều đó không có nghĩa là Ngài chẳng có mảy may cống hiến và giáo hóa đối với chúng sinh, chỉ là phương thức Ngài lựa chọn khác hẳn. Ngài dùng tình cảm chân thành và từ bi khiến người đời cảm nhận được, Phật pháp không phải là cao không với tới, thiền không chỉ là vì siêu độ bản thân, tu luyện kiếp sau. Kiếp này lòng của chúng ta đã đầy đủ nông nổi, cần thơ ca tràn đầy linh tính và nhu tình của Ngài để tịnh hóa, chỉ có kiếp này đạt được giải thoát, mới sẽ có luân hồi kiếp sau.

Ngài rốt cuộc vẫn là Tsangyang Gyatso, dục vọng quyền lực và tình yêu, Ngài chọn lựa điều sau. Đối với người hướng đến thế giới tinh thần, tình yêu là thứ cực kỳ xa xỉ, người thật sự có thể sở hữu nó không nhiều, càng huống chi là một vị Phật sống không thể tiêm nhiễm tình cảm nhân gian. Biết rõ như thế, Ngài vẫn cô độc ngạo nghễ đi tiếp, xem như không có mục đích, tùy tiện bay bổng, nhưng trong lòng Ngài biết rõ mình rốt cuộc muốn điều gì. Cho dù thế giới của Ngài là gió sương mưa tuyết, những người si mê thơ tình của Ngài như chúng ta, lại có lý do gì chọn lựa nửa đường từ bỏ?