Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 17 - Phần 2

Nhìn gương mặt mọi người thấy đầy đặn trở lại, vì trận đánh kết thúc đến hôm nay đã được trên một tuần lễ, có được thời gian tuy ngắn nhưng cũng đủ để hồi sức tôi càng mừng, vì sức khỏe lúc này là rất quan trọng.

- Trước khi bàn nhiệm vụ, tôi nói ngay việc xin thêm lực lượng. Như các đồng chí đã biết, sau Hiệp định Paris, so sánh lực lượng giữa ta và địch đã có lợi cho ta. Nhưng trong mấy tháng đầu năm 1973, địch đã giành được chủ động ở một số nơi. Đầu tháng 10 năm 1973, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 đã ra nghị quyết nêu rõ những yếu kém trong chỉ đạo chống địch phá hoại Hiệp định Paris của các ngành các cấp và một lần nữa chỉ rõ “con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới”.

Thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, Trung ương Cục, Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền đang chỉ đạo các ngành các cấp khắc phục các khuyết điểm hữu khuynh do dự, ảo tưởng, chờ đợi thụ động, các lực lượng vũ trang của Miền phải điều chỉnh lại thế bố trí để thực hiện các yêu cầu của nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Sư đoàn 5 tiếp tục hỗ trợ cho đồng bằng phản công địch lấn chiếm vùng Kiến Tường giáp biên giới Campuchia và củng cố, mở rộng hành lang nối liền Đông Nam Bộ với đồng bằng qua hướng Tây Ninh. Sư đoàn 9 và Sư đoàn 7 ngoài hỗ trợ các lực lượng vũ trang địa phương chặn đánh địch ở các tuyến tiếp xúc, bao vây những vị trí địch nằm sâu trong vùng giải phóng của ta như Chơn Thành, An Lộc, đại bộ phận lực lượng xuống phía tây và đông đường 13 liên tục uy hiếp tuyến giữa và vùng ven Sài Gòn của địch, kìm chân sư đoàn 5, 25 và 18 của địch, phối hợp với địa phương, giữ vững vùng giải phóng. Trong tay của Bộ chỉ huy Miền lúc này chỉ có tiểu đoàn vệ binh làm nhiệm vụ bảo vệ hậu cứ. Các anh lãnh đạo và chỉ huy Miền rất băn khoăn là đã không đáp ứng được yêu cầu chính đáng của chúng ta, nhưng trước mắt không có cách nào khắc phục, tìm cho ra lực lượng, trong khi nhiệm vụ mở rộng địa bàn đi đôi với giữ vững địa bàn ở khu vực Bù Bông lại đang là một yêu cầu rất cấp bách; vì để thực hiện phương hướng xây dựng, phát triển và hoàn thiện tuyến vận tải chiến lược phía đông Trường Sơn, Bộ đã ra lệnh cho các trung đoàn công binh của hai sư đoàn khu vực 471, 473 và một số đơn vị tăng cường sử dụng trên một nghìn xe, máy chuyên dùng tiến hành xây dựng cơ bản tuyến đường mới dài một nghìn hai trăm ki-lô-mét từ Khe Gát đến Bù Gia Mập.

Ý nghĩa thắng lợi mà chúng ta đã giành được và nhiệm vụ tiếp sau của chúng ta chính là đây: tiếp tục tạo điều kiện cho kế hoạch của Bộ về xây dựng tuyến đường chiến lược mới được tiến hành một cách thuận lợi.

Tiếp đến tôi trình bày kế hoạch tiến công Kiến Đức để các đơn vị tham gia. Lực lượng hiện có tuy mỏng nhưng ta vẫn không thay đổi quyết tâm, nhân lúc địch đang hoang mang đến cực độ chiến thắng Bù Bông, như trận điểm “huyệt” khu vực, làm rung chuyển cả một vùng rộng lớn từ Đức Lập qua Kiến Đức, Đắc Nông xưa nay chưa bị đánh bao giờ, nay cái vỏ cứng vòng ngoài bị vỡ, thì ta đánh tiếp lúc này là chắc ăn!

Nhưng đánh bằng cách nào? Tôi vừa nêu câu hỏi, chưa kịp trình bày dự kiến của mình thì các đồng chí chỉ huy và lãnh đạo các đơn vị đã phát biểu. (Cần nói thêm là sư đoàn 22, gồm hai trung đoàn bộ binh, một tiểu đoàn pháo, một tiểu đoàn tăng - thiết giáp sau khi phải bỏ cuộc tái chiếm Bù Bông co về nằm rải trên đường Kiến Đức - Bù Bông để chặn ta). Có ý kiến ta cứ dùng đội hình binh chủng hợp thành đánh thốc xuống, nhưng nhiều người không đồng tình, vì đánh kiểu chọi trâu này trong khi ta không ưu thế hơn địch sẽ không ổn. Ý kiến thứ hai, trở thành quyết tâm chung sau khi có thêm một số anh em bổ sung các chi tiết. Phải trở lại cách đánh Bù Bông theo trình tự đặc công - bộ binh - xe tăng, nhưng phải phân công, phân nhiệm và hiệp đồng thật cụ thể, ăn ý. Chúng tôi vẫn để một tiểu đoàn đặc công chốt giữ Bù Bông, hai tiểu đoàn đặc công còn lại đi theo hai hướng làm nhiệm vụ mở đường, sau đó là bộ binh. Xe tăng vẫn làm nhiệm vụ dẫn bộ binh tiến công nhưng không theo đường chính mà tập kết ở tây Bù Bông tắt theo đường be.

Giờ G vào lúc 4 giờ sáng, xe tăng vận động vào lúc máy bay địch chưa có điều kiện hoạt động.

Ba giờ sáng điện của đặc công báo cáo về sở chỉ huy: Đã mở được hai hướng, nhưng chỉ vào được ở hướng thứ yếu.

- Không thể chậm! - Tôi lệnh. - Cũng được, nhưng khi vào phải có lực lượng giữ cửa mở, hướng dẫn tăng và bộ binh.

Hiệu lệnh tiến công phát ra đúng giờ G quy định, vào lúc màn sương còn trải dày, thật là lý tưởng. Tăng dẫn bộ binh đồng loạt tiến công vượt qua cửa mở thuận lợi đánh thẳng vào các mục tiêu được phân công. Một tiếng sau ta làm chủ chi khu Kiến Đức, đường Kiến Đức - Bù Bông bị cắt, sư đoàn 22 lực lượng ngăn chặn bị cô lập. Một lực lượng nhỏ của ta nổ súng tiến công đánh tạt sườn, chúng tán loạn bỏ chạy. Lúc này chỉ cần một trung đoàn thiếu thọc vào Đắc Nông (thị xã Gia Nghĩa) là ta có thể giải phóng thị xã này nhưng không có lực lượng.

Thật là tiếc!

Đúng là khi thời cơ đã có thì lực yếu hóa mạnh.

Các đơn vị tham gia chiến đấu trên đà thắng lợi, đều muốn tiến sâu và đánh tỏa sang hai bên, muốn từ đây theo đường 14 thông xuống Bù Đăng.

Một ngày sau khi làm chủ Kiến Đức, điện của Bộ chỉ huy Miền lệnh cho chúng tôi bàn giao cho tiểu đoàn địa phương bảo vệ khu vực mới giải phóng, các đơn vị tham gia trận đánh đi nhận nhiệm vụ mới.

Trong vòng mười ngày kể từ ngày 5/11/1973, với lực lượng vừa phải, ta tổ chức tiến công tiêu diệt yếu khu Bù Bông, chi khu quân sự Kiến Đức, áp sát thị xã Gia Nghĩa, uy hiếp chi khu Bù Đăng (Phước Long), giải phóng một vùng đất đai rộng lớn từ ngã ba Đắc Song (Quảng Đức) nối liền với Bù Gia Mập, Bù Đốp, Lộc Ninh (nơi có căn cứ Bộ chỉ huy quân Giải phóng miền). Ta đã đánh thiệt hại nặng sư đoàn 22 ngụy, diệt và bắt sống 1.500 tên địch, thu 300 súng các loại, có 3 khẩu pháo 105 ly và 20 xe bọc thép. Đây là đợt hoạt động thực hiện Nghị quyết 21 của Trung ương Đảng, đánh vào một khu vực hiểm yếu của địch, làm lung lay tuyến phòng ngự nam Tây Nguyên, có giá trị tạo thế tạo lực rất quan trọng trong thời điểm lúc bấy giờ. Vùng giải phóng Đông Nam Bộ, đặc biệt là khu vực đầu mối vận tải, nối giữa tuyến chiến lược của đoàn 559 với tuyến chiến dịch các đoàn hậu cần Miền được mở rộng, mở ra thời kỳ mới - đường ta mở trên đất ta.

Tháng 5 năm 1974, địch mở cuộc hành quân lớn, dài ngày nhất từ khi ký Hiệp định Paris nhằm lấn chiếm vùng tây Bến Cát tạo một tuyến giữa (trung tuyến) hoàn chỉnh bảo vệ vững chắc phía bắc Sài Gòn bị ta chọc thủng sau đợt ba chiến dịch Nguyễn Huệ. Sau khi hoàn thành kế hoạch này, tham vọng của Nguyễn Văn Thiệu là sẽ đốc quân tái chiếm Lộc Ninh hoặc một nơi khác thuộc vùng giải phóng của ta ở Đông Nam Bộ vì cuối 1973 Thiệu đã tuyên bố “chiến tranh đã trở lại”, đầu 1974 y tung ra “kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt” với sự tính toán chủ quan rằng trong cả năm 1973 “Việt cộng” (chỉ Quân giải phóng) không còn đủ lực lượng mở các cuộc tiến công lớn; rằng công việc “bình định” và các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” của “quân lực Việt Nam cộng hoà” (chỉ quân đội ngụy Sài Gòn) đã mang lại nhiều kết quả, vân vân và vân vân.

Từ định hướng kế hoạch quân sự 1973 - 1974, được thể hiện trong Nghị quyết 12 của Trung ương Cục và Nghị quyết tháng 5 năm 1974 của Quân ủy Miền(6), Bộ chỉ huy Miền chủ trương mở chiến dịch Đường Bảy Ngang (Bến Cát - Rạch Bắp) nhằm phá vỡ tuyến phòng thủ trung gian (tuyến giữa) bảo vệ Sài Gòn, kìm chân chủ lực địch ngay tại hang ổ của chúng, phá tan ý đồ tăng viện của địch cho đồng bằng sông Cửu Long để bình định vùng Khu 8 giáp với Sài Gòn; thiết thực bảo vệ Lộc Ninh mà giờ đây địch cho là trung tâm chính trị của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

(6) Tinh thần Nghị quyết 12 của Trung ương Cục và Nghị quyết tháng 5/74 của Quân ủy Miền: Xác định nhiệm vụ phá âm mưu lấn chiếm và bình định của địch, xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, xây dựng hậu phương, căn cứ vững chắc tạo thế tạo lực mới, đón thời cơ giành thắng lợi quyết định. Các nghị quyết còn chỉ rõ cần nắm vững quan điểm bạo lực với tư tưởng tiến công và với phương châm tiến công là chính.

Nhân đây xin lưu ý bạn đọc về mục đích góp phần đánh bại âm mưu tái chiếm Lộc Ninh của địch.

Thực ra thì ngay sau khi giải phóng Lộc Ninh tháng 4 năm 1972 (đợt một chiến dịch Nguyễn Huệ) lãnh đạo và chỉ huy Miền đã đặt vấn đề phải giữ cho được Lộc Ninh bằng mọi giá, không cho địch tái chiếm. Từ đó cho đến khi Hiệp định Paris được ký kết và có hiệu lực, cán bộ, chiến sĩ đứng trong đội hình chiến dịch luôn luôn ý thức được vấn đề này.

Còn chúng tôi, những người có trách nhiệm điều hành chung lại thấy lúc này đây cần phải đưa ra được các việc phải làm khi mà mọi người đã thấy cái ý nghĩa của những việc làm đó. Bảo vệ Lộc Ninh, tức là phòng ngự giữ đất, mà giữ đất lúc này trở thành một nhiệm vụ hàng đầu trong yêu cầu tạo thế, hơn nữa mảnh đất phải giữ lúc này là Lộc Ninh, chứa đựng biết bao ý nghĩa, cả quân sự, chính trị và ngoại giao.

Địch hò hét tái chiếm Lộc Ninh vì bản chất hiếu chiến, bất cần Hiệp định Paris, nhưng quả thực đó là một sự hò hét không hoàn toàn ngông cuồng mà có thực lực. Trên chiến trường Đông Nam Bộ lúc này, địch có trong tay sáu sư đoàn chủ lực với 1.216 xe tăng và thiết giáp, 788 khẩu pháo, 1.076 máy bay, 1.820 tàu hải quân và 8.471 căn cứ quân sự và đồn bốt nhỏ. Những thăm dò phản ứng của ta và dư luận ngày càng gia tăng, trắng trợn hơn là 14 giờ 15 phút ngày 12/5/1973, máy bay địch đã trút bom xuống khu vực Lộc Tấn thuộc Lộc Ninh, phá hoại nhiều nhà cửa và làm bị thương nhiều người.

Trong cuộc họp do lãnh đạo Miền chủ trì cũng đã đưa vấn đề giữ vững Lộc Ninh ra bàn ngay từ giữa năm 1973, sau đó Miền lại thông báo Quân ủy Trung ương vừa điện vào nhắc: Lộc Ninh có tầm quan trọng không những về quân sự mà có ý nghĩa lớn về chính trị trong tình hình hiện nay. Vì vậy địch luôn luôn có âm mưu đánh chiếm, bằng bất cứ giá nào ta cũng phải giữ cho được.

Chúng tôi có thêm định hướng và quyết tâm của Bộ tiếp sức, nên cuộc họp bàn biện pháp thực hiện càng sôi nổi và có khí thế. Tất cả những người dự họp đều nhất trí vận dụng trở lại kinh nghiệm tiến công chống lại cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ty vào chiến khu Dương Minh Châu mùa khô năm 1967 vào điều kiện mới. Trước hết sắp xếp, tổ chức lại các lực lượng du kích địa phương, du kích cơ quan thuộc các cơ quan Trung ương Cục và các đơn vị thuộc Bộ chỉ huy Miền, kết hợp với lực lượng phòng không, cơ giới, trung đoàn độc lập 201 trực thuộc Miền thành một lực lượng đánh địch tại chỗ dưới sự chỉ huy thống nhất tạm gọi là Bộ tư lệnh chốt giữ Lộc Ninh, sẵn sàng đánh địch nếu địch thực thi tái chiếm từ đâu tới, trên bộ hoặc đổ quân bằng máy bay lên thẳng. Ta kiên quyết không co lực lượng chủ lực về, mà thực hiện các lực lượng này đánh địch từ xa. Trước hết khối chủ lực của Miền vẫn áp sát Sài Gòn, sẵn sàng thọc vào tim chúng, không cho chúng rút lực lượng đi đánh Lộc Ninh.

Bây giờ xin trở lại diễn biến chiến đấu cụ thể và các vấn đề đặt ra trong quá trình thực hành chiến dịch.

Trước hết địa bàn chiến dịch đường Bảy Ngang nằm ngay trên vành đai trung tuyến cách Sài Gòn bốn mươi ki-lô-mét về phía tây bắc kéo dài từ Rạch Bắp ở phía tây qua Ri-nét đến Bến Cát. Đường Bảy Ngang từ Bến Cát đến Rạch Bắp có vị trí như một tuyến tiếp xúc giữa ta và địch. Phía bắc là vùng giải phóng liên hoàn của ta. Phía nam là vùng địch kiểm soát. Địch rải ở đây hai tiểu đoàn bảo an 321, 323, khoảng tám trăm quân làm nhiệm vụ chốt giữ. Đây là khu vực tiếp giáp với vùng giải phóng của ta. Lại có nhiều đường chiến lược nối thông với Sài Gòn.

Vì là vị trí có ý nghĩa chiến lược ở khu vực này, nên địch đã thiết kế ở đây một trận địa phòng ngự khá vững chắc với nhiều cụm cứ điểm kiên cố như Rạch Bắp, Ri-nét, Bến Cát, Tân Uyên.

Phía trên có căn cứ Lai Khê, dưới có căn cứ Đồng Dù, với một lực lượng cơ động lớn của quân đoàn 3, tổ chức thành những chiến đoàn hỗn hợp bộ binh và cơ giới mạnh để bảo vệ Sài Gòn; đồng thời biến nơi đây thành đầu cầu tiến công vùng giải phóng của ta.

Rõ ràng hoạt động quân sự trong bối cảnh lúc này không còn dừng lại ở phản công đánh chiếm lấy lại những vị trí địch đã chiếm mà phải chuyển sang chủ động tiến công mở rộng vùng giải phóng. Chiến dịch đường Bảy Ngang là chiến dịch chủ động tiến công với mục tiêu phá vỡ tuyến phòng ngự trung gian của địch, kìm chân quân chủ lực địch tại hang ổ của chúng, phá mọi ý đồ thâm độc của chúng trong năm 1974.

Một trận đánh mang nhiều mục tiêu tổng hợp (như trên đã trình bày cùng bạn đọc). Nhưng đánh như thế nào để đạt được các yêu cầu đề ra? Chọn điểm như vậy là đúng nhưng điểm chọn đúng sẽ không phát huy được tác dụng nếu ta không có cách đánh thích hợp, để sao cho trên thực tế, lực lượng cụ thể của ta lúc này chưa thật ưu thế mà vẫn hoàn thành nhiệm vụ.

Đó là điều chúng tôi phải suy nghĩ. Vì lúc này Hiệp định Paris có hiệu lực đã hơn một năm. Khối chủ lực B2 đã có nhiều cố gắng chấn chỉnh sắp xếp lại tổ chức, tranh thủ huấn luyện, nâng cao chất lượng chiến đấu. Mặt khác đã được bổ sung quân số, vũ khí đạn dược từ miền Bắc đưa vào qua đường Trường Sơn đã tương đối thông suốt. Nhưng nhìn chung bộ đội vẫn không một ngày được nghỉ ngơi, vẫn tiếp tục chiến đấu, tiếp tục thương vong.

Vẫn phải tập trung ưu thế, nhưng ưu thế ở đây, ít ra là trong lúc này cũng chỉ là tương đối, có khi còn dưới cả tương đối. Vì Miền chỉ có ba sư đoàn chủ lực, thì Sư đoàn 5 đang đứng chân ở Khu 8, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 ở Đông Nam Bộ không thể chỉ dồn vào một hướng mà phải đứng chân ở hai hướng tây đường 13 và đông đường 13. Các trung đoàn độc lập trực thuộc Miền ở những khu vực quan trọng vừa cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh địch bảo vệ vùng giải phóng quanh các thị xã, thị trấn như An Lộc, Chơn Thành, Dầu Tiếng, vừa hỗ trợ nhân dân chống phá “bình định”. Vả lại có nhiều lực lượng cũng không dồn cục vào một hướng đường Bảy Ngang. Vì ở đây là tuyến phòng thủ thuộc loại cứng của địch, chúng thiết kế một hệ thống phòng ngự vững chắc với hệ thống công sự dày đặc, rất dễ bị địch sát thương, nếu không có cách đánh phù hợp thì chẳng khác nào đem trứng chọi với đá.

Vì vậy cách đánh ở chiến dịch này vẫn trên cơ sở dựa vào thế và tập trung ưu thế lực lượng nhằm phá vỡ ngay từ đầu hệ thống phòng ngự chủ yếu của địch, tạo ra sự phá vỡ các mảng khác trên chính diện chiến dịch. Trước hết, Bộ chỉ huy Miền đã có kế hoạch hoạt động phối hợp của các đơn vị trên toàn B2: Quân khu 7 tiếp tục mở tuyến lộ 2, khu vực Bảo Bình (Bà Rịa, tuyến đường 20 - Định Quán); Quân khu 8 thực hiện chốt chặn với tập kích, đánh bại các cụm hành quân lấn chiếm, giữ vững các ngã tư quan trọng như Năm Ngàn, Phụng Thớt, Hai Hạt, Trại Lên, Bằng Lăng, giữ vững vùng giải phóng đã có; Sư đoàn 5 tiếp tục cơ động tiến công địch ở Long Khốt, Phước Tân, nhằm kéo căng, phân tán lực lượng địch, tạo thuận lợi cho các đơn vị lâm nhiệm vụ ở mặt trận Đường Bảy Ngang.

Lực lượng sử dụng vào chiến dịch là hai sư đoàn trên hai hướng rất rộng. Sư đoàn 7 đảm nhận hướng phối hợp (chứ không gọi là hướng thứ yếu) ở đông đường 18, vừa chống địch lấn chiếm giữ vững vùng giải phóng, chủ động tiến công diệt địch mở rộng vùng giải phóng, đạt cả yêu cầu kéo căng địch không cho chúng tập trung chi viện sang hướng Sư đoàn 9.

Sư đoàn 9 được tăng cường một số đơn vị binh chủng(7), đảm nhận hướng chủ yếu với nhiệm vụ tiêu diệt địch giải phóng đường Bảy, tiếp đó tiến công giải phóng khu vực Phú Thứ đến cầu ông Tộ và chốt chặn đánh địch phản kích giữ vững địa bàn vừa mới giải phóng.

(7) Miền tăng cường cho Sư đoàn 9 một đại đội xe tăng (chín chiếc), một đại đội đặc công nước, ba đại đội pháo (sáu khẩu 85, sáu khẩu 122, ba khẩu cối 120 và hai ĐKB), hai tiểu đoàn pháo cao xạ (9 khẩu 37 và 8 khẩu 12.8 ly), bốn hệ thống B.72, hai cơ số A.72 và một tiểu đoàn công binh).

Các vấn đề lớn của chiến dịch cơ bản đã được giải quyết.

Còn lại chỉ là cách đánh trên hướng chủ yếu như thế nào để đảm bảo thắng lợi nhanh gọn là rất quan trọng. Bởi lúc này đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao vẫn kết hợp, ta vẫn tiếp tục đấu tranh đòi Hiệp định Paris được tôn trọng, mặc dầu địch đã trắng trợn phá hoại Hiệp định ngày càng nghiêm trọng và có hệ thống. Vì vậy thắng mà kéo dài thì vấn đề sẽ trở nên phức tạp. Rất có thể việc làm chính nghĩa trừng trị kẻ địch vi phạn Hiệp định lại bị công luận ngộ nhận do những thủ đoạn xảo quyệt kẻ địch gây nên, đẩy ta vào tình thế bất lợi trong đấu tranh ngoại giao, tranh thủ dư luận.

Tư tưởng chập chững, ảo tưởng hòa bình của cán bộ chiến sĩ đã được giải quyết sau khi học tập Nghị quyết 21. Mọi người đã thấy rõ con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực “chừng nào chính quyền Sài Gòn còn tiếp tục những hành động chiến tranh thì các lực lượng vũ trang cần phải kiên quyết đánh trả bất cứ ở đâu”. (Nhật lệnh của Bộ chỉ huy Miền ngày 15/10/1973.)

Từ sự suy tính cân nhắc trên, Miền quyết định cách đánh là dùng ưu thế lực lượng tiến hành đồng loạt tiến công bằng binh chủng hợp thành, có pháo bắn chuẩn bị, dùng bộc phá liên kết ĐH-10 mở cửa, tiếp theo xe tăng dẫn bộ binh tiến công các cụm mục tiêu trong trung tâm cụm phòng ngự của địch.

Đêm 15 rạng 16/5/1974 các mũi tiến công của Trung đoàn 2 và Trung đoàn 3 đánh chiếm các đồn Rạch Bắp, Ri-nét, Kiến Điền và ấp chiến lược Kiến Điền. Đến chiều 17 tháng 5 ta hoàn toàn làm chủ đoạn đường Bảy từ Rạch Bắp đến Bến Cát dài mười ki-lô-mét, giải phóng một khu vực rộng khoảng tám mươi ki-lô-mét vuông.

Theo kế hoạch chung, ở mũi phối hợp đông đường 13, tại hướng Tân Uyên, Sư đoàn 7 nổ súng tiến công căn cứ Cầu Sông, Phước Hòa trên lộ 16, bức rút một số đồn bốt địch lấn chiếm trái phép. Mũi khác, một đơn vị của Sư đoàn 7 đánh chiếm cầu Nha Bích - một căn cứ của địch nằm trong vùng giải phóng của ta, giải phóng đoạn đường 14 Chơn Thành - Đồng Xoài, tiến ra bờ sông Đồng Nai, hỗ trợ đắc lực cho Sư đoàn 9 hoàn thành nhiệm vụ ở đường Bảy Ngang.

Trung đoàn 16 trực thuộc Miền phối hợp với tiểu đoàn Quyết thắng Quân khu Sài Gòn - Gia Định và du kích huyện Củ Chi đánh trả quyết liệt sư đoàn 25, giữ vững vùng giảì phóng An Nhơn Tây, gây khó khăn cho trong âm mưu đánh chiếm khu vực này để nối liền Bến Cát theo đường Bảy Ngang thành một tuyến giữa (có lùi một ít so với cũ), hoàn chỉnh thành một tuyến phòng ngự liên tiếp (trước đứt quãng ở đoạn từ tây nam An Nhơn Tây đến tây bắc Bến Cát, nay vẫn bị đứt quãng vì đường Bảy Ngang sư đoàn 9 đã đánh chiếm).

Đánh chiếm đã khó, chốt giữ càng khó hơn. Việc một lúc ta nhổ ba cứ điểm Rạch Bắp, Kiến Điền, Ri-nét, trên đường Bảy Ngang, làm phá sản một trong âm mưu cơ bản của địch là ổn định và mở rộng vùng kiểm soát: đường 2, Bà Rịa - Long Khánh (đông, đông nam Sài Gòn); đường xe lửa Hưng Lộc - Giá Ray (đông bắc Sài Gòn), trong đó đường Bảy Ngang Bến Cát - Rạch Bắp - Ri-nét tây bắc Sài Gòn) là hướng then chốt có quan hệ trực tiếp đến an toàn của Sài Gòn.

Vì vậy địch đã phản ứng tức thì, bằng một cuộc phản kích điên cuồng với một lực lượng khá lớn. Chúng tôi đã tính đến khả năng này khi chuẩn bị quyết tâm chiến dịch. Đã nghĩ phải vận dụng kinh nghiệm chốt chặn Tàu Ô, bởi yêu cầu để ra là khi địch phản kích ta phải trụ lại các vị trí đã chiếm để đánh địch.

Về sử dụng lực lượng, nếu đợt một chỉ đưa hai trung đoàn vào chiến đấu, thì sang đợt hai đánh địch phản kích, chúng tôi huy động cả ba trung đoàn vào làm nhiệm vụ. Đây cũng là vấn đề gần như chưa gặp trong các đợt hoạt động chiến đấu trong nhiều năm mà tôi đã tham dự.

Từ 16 đến 18/5/1974 địch lần lượt điều ba tiểu đoàn bảo an và chiến đoàn 43 lên Bến Cát, cầu ông Tộ và Phú Thứ; đồng thời tổ chức bốn trận địa pháo (36 khẩu) chuẩn bị hỗ trợ để phản kích chiếm lại đường Bảy. Lường trước diễn biến, chúng tôi lệnh Sư đoàn 9 cho Trung đoàn 2 tạm ngừng kế hoạch tiến công Phú Thứ, chuyển gấp sang xây dựng trận địa chốt ở Rạch Bắp, Ri-nét, điểm cao 25 trên đoạn đường Bảy, Trung đoàn 3 xây dựng trận địa chốt chặn ở khu vực Kiến Điền vừa mới đánh chiếm để đánh trả quân địch. Cuộc phản kích của địch kéo dài đến 30/9/1974, trong đó có năm đợt tiến công thu hút phần lớn lực lượng quân đoàn 3 như sư đoàn 5, sư đoàn 18 và sư đoàn 25, liên đoàn 7 biệt động quân, lữ đoàn dù 1, bốn trung đoàn xe tăng, thiết giáp, kể cả lực lượng pháo binh, không quân; thậm chí chúng còn huy động cả lực lượng quân đoàn 4 và bộ Tổng Tham mưu tham gia.

Vì sự sống còn, tồn tại hay không tồn tại của trận tuyến trung gian, địch đã đánh phá quyết liệt theo kiểu “dốc túi”, miễn sao giành lại được khu vực đã mất. Trên các trận địa chốt chặn của ta, bom đạn địch cầy xới với mật độ dày đặc(8), đất đá tan vụn thành bột, có nơi sâu đến đầu gối.

Cuộc chiến đấu chống địch phản kích trên mặt trận đường Bảy Ngang - tây Bến Cát diễn ra ác liệt, căng thẳng và liên tục suốt 135 ngày đêm (ở Tàu Ô là 110 ngày đêm). Nhưng cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 9 đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, đánh lui hàng trăm đợt phản kích lớn nhỏ của địch; ta và địch giành nhau từng tấc đất với một ý định thật rõ - địch muốn phân tuyến, còn ta thì kiên quyết duy trì thế trận “da báo”. Tại điểm cao 25, nơi được xem như cái “túi” đựng bom pháo địch, tiểu đoàn 9, Trung đoàn 3, tiếp sau là tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 vào thay thế đã ngoan cường chốt chặn, dưới mưa bom bão đạn bẻ gãy nhiều đợt phản kích của xe tăng, bộ binh địch giữ vững trận địa, không thể lọt vào tay quân thù.

(8) Có ngày chúng bắn tới 20.000 quả đạn pháo, hàng chục lần chiếc máy bay ném bom. Trong thời gian một tháng (từ 10/6 đến 7/7/1974), địch bắn 174.000 quả đạn pháo, 1.101 lần chiếc máy bay xuất kích nám bom vào đội hình ta.

Từ đầu tháng 10 năm 1974, địch buộc phải từ bỏ ý định dùng lực lượng phản kích chiếm lại đường Bảy Ngang - tây Bến Cát.

Cuộc hành quân lấn chiếm với nhiều tham vọng, tiến hành dài ngày nhất (hai tháng), kể từ Hiệp định Paris có hiệu lực đã bị thất bại. Chúng buộc phải thú nhận bị thiệt hại 11 trong tổng số 26 tiểu đoàn chủ lực cơ động, 4 trong số 11 tiểu đoàn biệt động quân, 4 trong tổng số 14 chi đoàn thiết giáp, 85 trong tổng số 325 xe tăng và thiết giáp. Từ đây địch không còn có cuộc hành quân tương tự nào, mặc dầu chúng chưa từ bỏ tham vọng xóa thế “da báo” đẩy chủ lực ta ra xa.

Trên chính diện chiến dịch, Sư đoàn 9 đã đương đầu với gần như toàn bộ lực lượng quân đoàn 3 địch, giữ vững vùng giải phóng không cho địch nối thông tuyến phòng thủ bảo vệ Sài Gòn từ hướng tây bắc.

Bằng chiến thắng đường Bảy Ngang, ta đã tạo ra thế chiến lược mới trên chiến trường Đông Nam Bộ, đặc biệt là ở hướng tây bắc Sài Gòn.

623 cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn 9 đã anh dũng hy sinh, 6.602 đồng chí mang thương tích trên trận địa chốt chặn. Tôi mãi mãi cảm phục và tự hào về sự đóng góp vô giá của những đồng chí, đồng đội để có một chiến thắng ở thời điểm lịch sử đang rất cần. Bản thân chiến thắng và sự đóng góp xả thân của những người đồng chí của tôi đã tạo nên một cách đánh mang những nét đặc sắc Việt Nam - chốt chặn kết hợp với tiến công bắt nguồn từ Tàu Ô, được nâng lên trong hoàn cảnh mới, tạo một chiến thắng bất tử, chuẩn bị tiền đề để có được một tuyến xuất phát tiến công của đại quân trong chiến dịch Hồ Chí Minh từ hướng tây bắc tiến vào Sài Gòn.