Chặng Đường Mười Nghìn Ngày - Chương 18 - Phần 2

Sau khi điều chỉnh quyết tâm, Quân đoàn cho các đơn vị tranh thủ huấn luyện bộ đội tiến công bằng bộ binh và pháo mang vác, coi đây như là một nội dung của công tác chuẩn bị phục vụ cho thay đổi cách đánh hợp đồng binh chủng không có xe tăng và pháo 130 ly.

Phân công trong Bộ tư lệnh Quân đoàn cũng có sự điều chỉnh.

Anh Vũ ở lại có nhiệm vụ tổ chức, chỉ huy các đơn vị đứng chân ở đây làm nhiệm vụ bao vây khống chế chi khu quân sự Đồng Xoài. Tôi lên khu vực Bù Đăng. Sự hoán vị được thực thi ngay sau đó, thượng tuần tháng 12 năm 1974, sau khi xiết chặt tay anh Ba Vũ, chúng tôi tạm biệt và chúc nhau hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ. Tôi lên đường cùng với một bộ phận nhẹ của sở chỉ huy nhẹ quân đoàn.

Thế là ngót mười năm tôi lại trở về với Phước Long, với đường 14 - mảnh đất thân quen đã để lại nhiều kỷ niệm sâu đậm trong thời kỳ tôi giữ chức phó tư lệnh chiến dịch Phước Long - Đồng Xoài lần thứ nhất đầu mùa khô năm 1965. Nay những kỷ niệm đó lại hiện về có sức thôi thúc, vẫy gọi và nâng bước tôi đi. Lần ấy lực lượng tham chiến là ba trung đoàn độc lập sau chiến dịch này trở thành Sư đoàn 9. Lần này trở lại, lực lượng là một quân đoàn, được bắt nguồn từ yêu cầu đánh lớn kể từ hồi ấy.

Ra trận trong thế mới và lực mới, bớt đi nhiều những vất vả cũ phải chui lủi, phải lo toan đủ thứ, cả những ấu trĩ tất nhiên của sự trưởng thành. Đường ra trận đã có cái thênh thang, bớt phải cắt rừng, thoảng lại qua vùng giải phóng, đi trên vùng chủ quyền thuộc về ta, bắt gặp những nụ cười, những nét mặt rạng rỡ, được nghe cả những tràng pháo tay của nhân dân chào đón, tiễn đưa đoàn quân ra trận, thật ấm lòng những người sắp bước vào cuộc chiến đấu. Qua Đắc Ơ nhớ về sóc Bom Bo nghe như có tiếng chày cắc cùm cum giã gạo nuôi quân trong chiến dịch Phước Long ngày nào văng vẳng đâu đây.

Ngày 2/12/1974, sở chỉ huy tiền phương chiến dịch đến địa điểm tập kết cách Bù Đăng mười lăm ki-lô-mét về phía bắc. Thời tiết đang vào giữa mùa khô mà bầu trời và mặt đất nơi đây vần vũ, ẩm ướt, như mùa mưa ngoài Bắc. Mặc dầu đã biết sẽ không có xe tăng, pháo cỡ lớn, nhưng khi gặp tôi anh Sáu Hưng tư lệnh Sư đoàn 3 vẫn có cái gì đó băn khoăn về trận đánh sắp tới.

Nghe xong tôi hỏi:

- Sư đoàn có mấy xe tăng?

- Báo cáo tư lệnh, có chín chiếc.

- Có cách khác rồi! - Tôi nói.

- Cách gì, thưa tư lệnh?

- Tôi thay chín tăng bằng chín pháo.

Nhìn nét mặt Sáu Hưng như có cái gì khó hiểu, chưa kịp hỏi lại, tôi tranh thủ nói luôn:

- Thay chín pháo, trong đó có sáu khẩu 85 ly loại pháo bắn thẳng này cơ động thuận tiện, tiếp cận được mục tiêu, lại có sức công phá lớn, hiệu quả phá hoại và sát thương cao, yểm trợ đắc lực cho bộ binh. Còn xe tăng trong điều kiện rừng núi như ở Bù Đăng có những hạn chế rất khó khắc phục, trước hết là cơ động không thuận tiện. Lại nữa tăng của ta thuộc loại chạy dầu, phả nhiều khói, tiếng động kêu to địch dễ phát hiện, đối phó trước khi tiến vào vị trí xuất phát tiến công, rất có thể bị địch tiêu hao trước khi qua cửa mở.

Sáu Hưng nghe tôi thân tình trình bày những suy nghĩ của mình, tuy không nói ra cụ thể, nhưng qua nét mặt thấy anh cũng đồng tình với những điều tôi lý giải. Cả hai đều thấy có lý mà không hề ngụy biện, ít ra trong bối cảnh của trận đánh cụ thể mà chúng tôi đang chuẩn bị. Hơn nữa cả hai chúng tôi đều ý thức được lúc này không thể ngồi đó mà phàn nàn, thắc mắc.

Không thấy Sáu Hưng tranh luận lại, tôi biết anh đã thông cảm, đồng tình với tôi là hãy tìm cách khắc phục.

Sau đó tôi làm việc với đồng chí Phẩm, trưởng phòng trinh sát của quân đoàn được phái lên trước một tuần lễ nghiên cứu nắm địch, chuẩn bị địa bàn cho tư lệnh chiến dịch đi trinh sát thực địa. Qua nghe báo cáo, các việc đều có làm nhưng chưa tốt, do thiếu kinh nghiệm thực tế vì đồng chí Phẩm từ miền Bắc mới bổ sung vào là tham gia chiến đấu luôn. Chọn địa điểm quan sát và trinh sát chỉ chấm trên bản đồ và qua ống nhòm để xác định là chưa ổn. Nắm quy luật tuần phòng, canh gác của địch dựa vào dân, theo dân kể lại là đúng nhưng không bố trí người bí mật tiếp cận để theo dõi xác minh. Nhưng cận ngày rồi, không thể cầu toàn, cứ phải tiến hành vừa làm điều chỉnh khi thực tế tình hình thay đổi.

Theo báo cáo của Phẩm, cứ 16 giờ hàng ngày toán cảnh giới từ xa của địch rút về đồn, thì 16 giờ 40 phút đoàn trinh sát thực địa chúng tôi xuất phát, phải vượt sông Đắc Lập, một nhánh của thượng nguồn Sông Bé, lòng sông hẹp nhưng sâu, nước chảy xiết.

Từ sông đến chi khu quân sự Bù Đăng còn khoảng mười ki-lô-mét.

17 giờ, tất cả vượt sang bờ nam sông an toàn. Đi được nửa đường để đến địa điểm quan sát thì gặp hai trung đội lính Thượng phục kích, chúng chặn đầu, khóa đuôi. Tình hình nguy ngập, địch đông, chủ động, ta ít lại bị động. Tôi hạ lệnh chia thành hai tổ, tìm cách thoát vây. Tổ tôi có trưởng phòng trinh sát quân đoàn, đồng chí tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 (Trung đoàn 271) lực lượng chủ công đánh chiếm chi khu quân sự Bù Đăng, đồng chí Khởi y sĩ và một chiến sĩ, tất cả năm người, có ba súng ngắn, không mang theo AK. Trên đường vận động vượt trở lại bờ bắc sông, thấy Khởi bò, đầu sát đất, mông nhô cao, tôi nói nhỏ: “Mông thấp nhưng đầu phải cao để quan sát địch. Địch bắn, ta bắn trả lại.” Địch chỉ còn cách ta năm trăm mét, tôi phân công: Phẩm, đồng chí tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2 và chiến sĩ cần vụ bắn yểm trợ, tôi và Khởi vượt sông, sang đó chúng tôi bắn yểm trợ để các đồng chí sang sông tiếp. Hai chúng tôi vượt sông nước chảy xiết, tôi níu lấy bụi tre, lên được bờ. Khởi trôi xa tới một ki-lô-mét, tôi phải đuổi theo kéo Khởi lên bờ. Đến nơi chúng tôi vừa bắn vừa hô xung phong nhằm nghi binh, uy hiếp tinh thần địch, chúng tưởng lực lượng ta nhiều mà bỏ cuộc.

Hôm sau bước trinh sát thực địa vẫn được tiếp tục và đạt kết quả tốt vì kế hoạch tiến hành được thay đổi toàn bộ cả giờ xuất phát, đường đi và địa điểm tiến hành. Qua trinh sát, tôi quyết định điều chỉnh một số điểm trong quyết tâm, tuy nhỏ nhưng rất quan trọng: đánh chi khu vòng theo hướng nam lên, chỉ dùng pháo chế áp khi tiến công khu trại biệt kích.

Ngày 6/12/1974, một ngày làm việc căng thẳng và hào hứng suốt từ sáng đến tối khuya.

Tại một địa điểm bắc sông Đắc Lập, cách chi khu quân sự Bù Đăng khoảng sáu ki-lô-mét có mặt đầy đủ các đồng chí chỉ huy các đơn vị làm nhiệm vụ chiến đấu; có các đồng chí Nguyễn Đình Kính, thường vụ tỉnh ủy Bình Phước, Phan Bình Minh, huyện ủy Bù Đăng; Năm Tròn, Ba Lẹ, huyện đội Phước Long.

Tất cả đã trải qua vất vả hành quân, vận động nhân dân đưa đường, vận chuyển súng đạn, tiếp tế lương thực, tiếp cận vào các mục tiêu để quan sát, đo đạc cho pháo, tìm đường cho bộ binh tiến công, đếm từng hàng rào kẽm gai, bãi mìn để tính lượng bộc phá cần có. Tiêu biểu cho những người có mặt trong buổi họp này là anh Phan Bình Minh. Ngày 4/12/1974, anh nhận chỉ thị của Thường vụ huyện ủy Bù Đăng giao nhiệm vụ đưa trung đội bộ đội địa phương của huyện vượt đường 14 sang tham gia chiến đấu và báo kế hoạch nổi dậy của huyện phối hợp với mũi tiến công quân sự. Đường đi cực kỳ gian khổ và nguy hiểm. Ngày đầu tưởng đã chót lọt nào ngờ anh Tạc, quê Hải Hưng, trung đội trưởng trinh sát bộ đội chủ lực đi cùng đạp phải mìn lá. Mìn nổ, anh hy sinh. Giữa lúc ấy pháo địch cấp tập và cho quân bổ vây nơi vừa xảy ra tiếng mìn nổ. Chúng đoán có “Việt cộng” vượt đường. Nhưng tất cả đã thoát khỏi vòng nguy hiểm. Anh Minh lại dẫn đoàn tiếp tục hành quân. Không có con đường nào khác, đoàn quân phải đi vòng, cách chốt Bù Lô khoảng mười mét đành phải dừng lại. Đợi trăng vừa khuất, anh lệnh cho đoàn vượt qua, rồi đi gấp đến sở chỉ huy tiền phương chiến dịch lúc mờ sáng, để kịp ngày họp như đã quy định.

Trước khi đi vào các vấn đề cụ thể, tôi quán triệt thêm tư tưởng chỉ đạo của Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền, đồng thời trao đổi những suy nghĩ riêng của mình về trận đánh đang tới gần.

Trong mùa khô 1974 - 1975, trên chiến trường B2 chúng ta chủ trương mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long là chọn vào một địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng nhưng lực lượng địch ở đây lại yếu và có những sơ hở rất khó khắc phục. Đây là một thuận lợi rất cơ bản đảm bảo chắc thắng. Và khi chiến dịch thắng lợi, nó sẽ góp phần đáng kể làm chuyển biến cục diện có lợi cho ta ở Đông Nam Bộ nói riêng và toàn B2 nói chung. Đây là một quyết định có sự tính toán nhìn xa. Bù Đăng cách Đức Lập năm mươi ki-lô-mét, ở đó đường Trường Sơn phía đông đang được mở thông, xuôi về hướng Bù Gia Mập - Lộc Ninh.

Nếu ta tiến công giải phóng Bù Đăng thì từ Bù Bông - Kiến Đức có thể rẽ nhánh xuôi theo hướng nam tạo thành một hành lang xuống Tân Uyên, chiến khu Đ, bắc Biên Hòa, trong đó Bù Đăng trở thành một căn cứ tập kết lực lượng, một chân hàng rất tốt từ miền Bắc chuyển vào. Từ Bù Đăng đi các hướng theo đường 14 tuy rải đá, nhưng đường đã định hình từ lâu, mặt đường cứng, rất thuận lợi cho vận chuyển cơ động lực lượng và vũ khí, đạn dược áp sát Sài Gòn từ phía bắc.

Rõ ràng Bù Đăng là một trong những vị trí quan trọng tạo thế đáp ứng yêu cầu và thời cơ mới, nhưng lại là điểm yếu, địa đầu của quân đoàn 3 ngụy, khả năng chi viện của địch gặp nhiều khó khăn nếu khi bị đối phương tiến công. Chọn hướng chủ yếu nơi đây trong đợt đầu của chiến dịch là ta nắm chắc phần thắng, những sự cố xảy ra gần như rất ít nếu không nói là không có so với Đồng Xoài. Đây chính là dịp để chúng ta thực hiện phương thức “vừa đánh vừa theo dõi địch để kịp thời đối phó” như Quân ủy Trung ương đã chỉ đạo.

Bù Đăng, Bù Na thất thủ, các đồn bốt sẽ tan rã, không những có giá trị tiến công tâm lý địch mà còn tạo thế uy hiếp mạnh Đồng Xoài, vì vỏ ngoài của nó bị vỡ, điều kiện giải quyết Đồng Xoài trở nên chín muồi, có khi giải phóng Đồng Xoài lại ít tốn súng đạn hơn các trận đánh trước.

Sau khi thông qua quyết tâm chung và phương án tác chiến cụ thể của Trung đoàn 271 về tiến công chi khu quân sự Bù Đăng, tôi làm việc thêm với các đồng chí cấp ủy địa phương về kế hoạch nổi dậy phối hợp với tiến công quân sự, về bảo vệ dân, thực hiện chính sách vùng mới giải phóng, nhanh chóng ổn định cuộc sống của nhân dân.

Út Minh vẻ vẫn còn mệt mỏi vì hai đêm thức trắng vượt đường 14, nhưng khi đến lượt, anh tỉnh táo rất nhanh. Anh không có văn bản chuẩn bị, cứ thế nói rất rành rẽ, đầy đủ các vấn đề cả số liệu như đã có sẵn trong đầu về tình hình vùng phụ cận phố thị Bù Đăng: ở đây có hai xã (Bù Đăng, Vĩnh Thiện) với tám thôn ấp (Hòa Đồng 1, 2, Vĩnh Thiện 1, 2, Bình Lộc, Bình Thọ, Bù Nguôi, Bù môn), có ngót 8.000 dân, 200 héc-ta canh tác, năm thôn đã có chi bộ Đảng, 70 đoàn viên. Địch có 14 trung đội dân vệ, quân số khoảng 350 tên, 20 cảnh sát an ninh, 50 cảnh sát dã chiến. 14/14 trung đội dân vệ có cơ sở binh vận của ta, hoạt động theo phương thức bắn chỉ thiên khi đi càn, gặp Quân giải phóng không bắn, đụng độ thì bỏ chạy, viện cớ “Việt cộng” mạnh. Đã có một trung đội trưởng ác ôn được vợ (cơ sở của ta) tuyên truyền giác ngộ, vận động dẫn chồng mang theo mười lăm súng ra đầu hàng cách mạng, được ta khoan hồng.

Tôi thực sự xúc động khi nghe anh Minh báo cáo về những con số thật quý giá, nó thực sự là những hạt giống cách mạng đã nảy mầm; nó như một dòng suối nhỏ hòa thành dòng sông thắng lợi đang ào ào nhấn chìm những cặn bã, những rác rưởi bẩn thỉu, phản động. Thật đáng quý biết bao, ở một vùng sâu chưa được biết ánh sáng cách mạng, chưa được nhìn thấy cụ thể độc lập tự do là gì. Sự suy nghĩ của đồng bào thật đơn giản, chỉ tin, chỉ nghe điều gì nhìn thấy. Vậy mà đồng bào đã ngả theo cách mạng, ngả theo kháng chiến, đã nuôi giấu cán bộ, chắt chiu từng hạt gạo, củ khoai để tiếp tế cho cán bộ.

Nhân lúc anh Minh cầm bát nước, tôi hỏi xen vào:

- Anh Minh quê ở Bù Đăng? (Vì anh nói tiếng Kinh đích thị là người Kinh rồi.)

- Báo cáo anh, tôi không phải. - Anh Minh thanh minh.

- Anh quê vùng Bến Cát, Thuận An? - Tôi lại hỏi (vì nghe anh nói giọng Nam Bộ nhưng không hoàn toàn Nam Bộ).

Anh Minh cười, kể:

- Tôi quê Quảng Nam. Năm 1954 tập kết ra Bắc tuổi còn rất trẻ, được phân về công tác tại Đoàn thanh niên xung phong Trung ương, tham gia phục hồi đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, Hà Nội - Nam Định, tham gia tiễu phỉ Vàng Pao (Lào) nổi loạn quấy vùng Quỳ Châu (Nghệ An) giáp biên giới Việt - Lào. Đầu năm 1962 tôi được lệnh vào Nam chiến đấu. Đoàn chúng tôi có anh Vũ Đình Tuyến, quê Quảng Ngãi, hiện là bí thư huyện ủy Bù Đăng, anh Lê Quang Giang, Trần Ngọc Châu, Bảy Thạnh. Tất cả hơn tám mươi anh em đều quê Khu 5. Cuộc hành quân đầy gian khổ ròng rã ba tháng mới tới bắc Bù Đăng, thượng nguồn sông Đồng Nai. Tất cả được phân đi nhiều ngả, riêng tôi được phân về khu vực Bù Đăng với nhiệm vụ gây cơ sở ở Hòa Đồng, Vĩnh Thiện, lúc ấy là những xã trắng chưa có cơ sở của ta.

Những ngày nằm rừng, gai cứa rách áo quần, châm vào da thịt gây ứa máu, chịu đói, chịu khát cồn cào ruột gan đi đứng xiêu vẹo nhìn vào đâu cũng thấy một màu vàng và có cả các thứ hoa đủ hình thù, lúc ẩn lúc hiện. Nhưng khi nằm xuống, úp ngực vào mặt đất, tự nhiên thấy dâng lên chí căm thù và cả mơ ước, chờ đợi, cứ kiên nhẫn chờ đợi sẽ có ngày tiếp xúc được với đồng bào, vận động được đồng bào tham gia kháng chiến, chống quân xâm lược, để thoát cảnh áp bức, kìm kẹp, ruồng bố. Những ngày như thế thật dài. Gạo hết, nước không. Có lúc còn gạo mà phải nhịn đói, có nước mà khát không được xuống suối để uống, còn thuốc mà đành chịu lạnh lòng, vì sợ lộ, địch phát hiện sẽ lùng sục, bao vây, sẽ trở thành công dã tràng.

Rồi cuộc sống dạy khôn, nhắc nhở phải tồn tại không phải cho mình mà cho cái chung, cho phong trào, đã lần tìm củ nần, củ chụp(5) mà sống. Nhưng rồi ngay cả những thứ tự nhiên tưởng như vô tận cũng cạn dần.

(5) Như loại củ mài, củ nâu ở vùng núi phía bắc, có thể ăn và sống qua ngày.

Cứ thế hết ngày này qua ngày khác, cuộc sống vẫn vắng lặng. Qua kẽ lá từ trên đỉnh núi cao nhìn xuống chỉ thấy đồn binh và ấp chiến lược buồn tẻ, chỉ thấy đến giờ nhất định lác đác có người ra sau đó lại vào, đồng ruộng, đường sá không bóng người qua lại, dăm chiếc xe nhà binh tuần tra trên mặt đường, bắn loạn xạ các loại đạn, rồi lại chui vào một đồn bốt gần đấy. Nhưng ước mơ và sự kiên nhẫn đã chiến thắng, đã vượt qua. Được gặp dân, cùng giúp dân làm nương rẫy, qua đó mà tâm tình, trao đổi, kết hợp so sánh với thực tế mà vạch định, nêu ra, từ đó có cái “cầu” dân để chúng tôi vào tận ấp chiến lược, nằm lại dưới hầm bí mật để tuyên truyền, tổ chức.

Cơ sở cứ lan ra, rộng khắp. Phong trào đang có đà, bốn bề có địch mà cuộc sống không thấy cô đơn, vì đâu cũng có dân đùm bọc, chở che.

Qua rất nhiều công tác, từ cán bộ cơ sở, chánh văn phòng huyện ủy, chánh văn phòng tỉnh ủy rồi lại trở về quê hương Bù Đăng (anh xây dựng gia đình với một phụ nữ cán bộ dân tộc Sơ Tiêng) để hôm nay được thường vụ huyện ủy giao trách nhiệm sang báo cáo với các đồng chí trong Bộ chỉ huy chiến dịch về kế hoạch nổi dậy phối hợp với các đơn vị trong chiến dịch giải phóng quê hương.

Là chiến dịch mở đầu giai đoạn kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng, vấn đề chính trị nổi lên như là một trong hai nội dung chính phải chuẩn bị trước ngày N và giờ G.

Một loạt vấn đề được bàn bạc thống nhất giữa chúng tôi và các đồng chí cấp ủy địa phương như: chuẩn bị lực lượng quần chúng, cơ sở binh vận nổi dậy khi mũi quân sự tiến công; tổ chức sơ tán nhân dân tạm lánh ra khỏi vùng có chiến sự, vận động nhân dân trở lại làm ăn, giữ dân lại chống âm mưu dồn dân di tản; tổ chức cứu tế và hoạt động dịch vụ bảo đảm đời sống nhân dân sớm trở lại bình thường; tổ chức tuần tra canh gác bảo vệ an ninh trật tự thôn ấp xã phường. Chúng tôi đã thống nhất với anh Út Minh, quy định chiến lợi phẩm - vũ khí quân trang quân dụng giao cho Sư đoàn 3 và hậu cần Miền thu giữ, quản lý, phân phối phục vụ chiến đấu; gạo, muối do ban quân quản thu giữ, quản lý, cần thiết có thể tạm vay của một số tư thương ở thị trấn Bù Đăng để cấp phát phân phối, cứu tế nhân dân kịp thời, đúng đối tượng hoặc bán cho những người có nhu cầu, thu được tiền trả lại cho người vay.

Ngày 13/12/1974, công tác chuẩn bị chiến đấu của ta cơ bản hoàn thành, các mũi các hướng đều giữ được bí mật tốt.

Nguyễn Thống Thành, đại tá tiểu khu trưởng Phước Long cùng một số sĩ quan tùy tùng ngay sáng 13 đã đáp trực thăng xuống Bù Đăng để “kiểm tra định kỳ”. Sau đó y trở lại Phước Long theo đường bộ tiếp tục kiểm tra các vị trí phòng thủ trên đường 14. Đến đâu Thành đều được nghe báo cáo “tình hình rất yên tĩnh”. Nhưng ngay đêm 12, sở chỉ huy chiến dịch nhận được điện báo cáo của tiểu đoàn 4, Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) diệt đồn bảo an cây số 19.

Vì tính chất quan trọng của vị trí này, tôi lệnh cho đồng chí Lê Tấn Đạt cán bộ tác chiến của sư đoàn đi cùng với mũi này, trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn 4, thực hiện ý định chia cắt địch trên đường 14, phát triển chi viện chung.

Trên khu vực Bù Đăng, các đơn vị bắt đầu hành quân chiếm lĩnh các vị trí xuất phát tiến công. Trưa 12 tháng 12, trời đổ mưa, một trận mưa bất chợt, trái mùa nhưng rất to. Nước các khe, suối chảy tràn xối xả, đường ngập trơn. Các chiến sĩ bộ binh và pháo mang vác phải bỏ dép, đi chân đất. Xe kéo pháo bị sa lầy ở đoạn đường xuống ngầm sông Đắc Lập, vất vả suốt một đêm mới đưa được ba khẩu pháo sang bờ nam sông. Trung đoàn 165 (Sư đoàn 7) sau khi cắt rừng, vượt qua gần một trăm ki-lô-mét đường từ Đồng Xoài lên, đến đêm 11 tháng 12 mới vượt đường 14, bắt đầu triển khai lực lượng tiếp cận mục tiêu khu hành chính chi khu. Đây là một cố gắng đáng biểu dương của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 165. Chỉ giao nhiệm vụ và kế hoạch hiệp đồng chủ yếu bằng phương tiện điện vô tuyến, mà trung đoàn đã nắm bắt chính xác, thực hiện nghiêm chỉnh, biểu hiện trách nhiệm cao đối với trận đánh mở đầu.

Như vậy là trong đêm đầu, cả hai hướng chủ yếu và thứ yếu, không thực hiện được kế hoạch chiến dịch, chưa tiếp cận được mục tiêu. Nguyên nhân không phải do lạc đường (vì các mũi, các hướng đã có năm mươi thanh niên người dân tộc ở địa phương xin tình nguyện dẫn đường) mà do thời tiết xấu, mưa quá lớn ở khu vực Bù Đăng. Ở hướng thứ yếu, hai tiểu đoàn đặc công (Trung đoàn 429) không thực hiện được nhiệm vụ nổ súng trước, diệt yếu khu Bù Na, do đặc công tỉnh Bình Phước nổ súng sớm hơn ở khu vực Bù Đốp, địch ở đây đã chuẩn bị đề phòng.

Trước tình hình trên, Bộ tư lệnh chiến dịch quyết định hoãn thời gian tiến công, chậm lại một ngày để xốc lại đội hình, điều chỉnh vũ khí.

Ngày 14/12/1974, ngày N của chiến dịch bắt đầu.

Nhân tố bất ngờ gần như đã hết, phải thực hành cường tập trên cả hai hướng chiến dịch. Rạng ngày 14, Trung đoàn 271 nổ súng tiến công chi khu Bù Đăng. Tại đây đã diễn ra cuộc chiến đấu gay go quyết liệt.

Chi khu đặt trên một quả đồi cao, to, nằm ngay bên đường 14, có cấu trúc địa hình rất phức tạp. Cả ba mặt bắc, nam và đông đều dốc, có chỗ dốc gần như thẳng đứng, chỉ có mặt phía tây dốc hơi thoải nhưng từ chân lên đỉnh là đoạn đường dài hơn một trăm mét, qua nhiều tuyến phòng ngự phụ. Cũng có quãng đường lên khá dốc. Ta chọn mặt đồi phía bắc là hướng đột phá chủ yếu vì địch chủ quan, ta tiếp cận vào dễ. Nhưng đến gần mới rõ, dưới chân đồi có con suối tuy nhỏ nhưng lòng sâu, nước to và chảy xiết vì vừa có mưa. Nếu dùng xe tăng thì không có tác dụng ngay cả pháo cầu vòng và pháo 85 ly bắn thẳng cũng bị hạn chế. Để tiến vào trung tâm chi khu chỉ còn cách dùng bộc phá, nhưng ở đây chúng giăng tới chín hàng rào kẽm gai.

Sau hai giờ chiến đấu ta mới mở được hai hàng rào, các hướng đều phát triển chậm, vì địch dựa vào công sự vững chắc và lưới lửa hỏa lực dày đặc, bắn chặn rất ác liệt. Đại đội chủ công của ta chỉ còn mười hai chiến sĩ, bị chặn lại ở hàng rào thứ tám.

Nhận được báo cáo, tôi lệnh trực tiếp cho Trung đoàn 271 tăng cường một trung đội cho đại đội 1 chủ công; dùng bốn đại đội cối tập trung bắn chế áp vào các hầm hào phòng ngự của địch, hỗ trợ cho lực lượng mở cửa làm nhiệm vụ. Đánh đến hàng rào cuối cùng lực lượng ta bị tiêu hao, phải đưa đại đội 4 (tiểu đoàn 2) vào thay.

Chỉ còn một hàng rào nữa là hoàn thành nhiệm vụ. Từ đây trận địa địch đều nằm trên độ dốc rất khó vượt. Một chiến sĩ xông lên đặt ống bộc phá vào hàng rào thứ chín - hàng rào cuối cùng, giật nụ xòe, rồi chạy xuống.

Nhưng một tình huống bất ngờ xảy ra.

Đồng chí đại đội trưởng đại đội 4 vào thay thế kể lại: Ống bộc phá đang xì khói bỗng trượt khỏi hàng rào, lăn xuống sườn dốc lao về phía đội hình bố trí của đơn vị. Nếu để ống bộc phá nổ trong khi rơi xuống thì không những đơn vị bị thương vong mà trận đánh cũng sẽ gặp nhiều khó khăn, bởi đó là ống bộc phá cuối cùng mà đơn vị mang theo.

Trong tình huống vô cùng nguy hiểm đó, Đoàn Đức Thái vội chồm lên ôm quả bộc phá đang xòe lửa và lao vút lên đồi dốc, dùng sức mạnh toàn thân ấn quả bộc phá vào lớp kẽm gai thứ chín. Quả bộc phá nổ, Đoàn Đức Thái hy sinh.

Gương hy sinh anh dũng của Đoàn Đức Thái(6) vừa cổ vũ tinh thần chiến đấu của đơn vị, vừa mở cửa cho đồng đội phát triển vào trung tâm, hoàn thành nhiệm vụ đánh chiếm chi khu quân sự Bù Đăng.

(6) Đoàn Đức Thái được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.