Ngày Hội Quả Bí - Chương 16 - 17
Chương 16
Poirot nhìn thật kĩ bà Goodbody, và công nhận bà mà đóng vai phù thủy thật hợp. Dĩ nhiên, bà có một trái tim vàng, điều đó không làm vẻ bề ngoài của bà thay đổi.
Nghe xong câu hỏi của nhà thám tử, bà vui vẻ đáp:
- Phải, tôi ở nhà bà Drake hôm lễ hội quả bí. Khi cần có phù thủy, bao giờ bà con cũng gọi tôi. Tối đó, tôi phải niệm những câu thần chú trong trò soi gương thần, làm sao cho không khí linh thiên để hai anh con trai Nicholas và Desmond tung ảnh ra. Tôi còn cho bà Drake mượn quả bóng phù thủy tôi mua được ở một hội chợ từ thiện. Nó treo ở kia kìa, trên lò sưởi. Đẹp không?
- Vậy bà có thể nhìn vào quả bóng này và trông thấy ai đã giết cô bé Joyce?
- Ông nhầm. Bóng này không nhìn thấy được, phải một quả bóng bằng pha lê kia. Nếu tôi nói ông biết, theo tôi, ai giết Joyce, ông sẽ không tin, bảo như thế là trái tự nhiên. Xin nói để ông rõ là dân làng này không tồi. Phần lớn là những người chất phác, nhưng ở đâu thì cũng có những đứa con của quỷ dữ, sinh ra và được giáo dưỡng để phục vụ mưu đồ xấu xa của quỷ. Ông không còn ít tuổi và thừa biết là trên đời này còn lắm chuyện thối tha.
- Than ôi, tôi biết quá đi chứ. Nếu quả thật Joyce đã trông thấy một vụ án mạng…
- Ai bảo thế?
- Chính em ấy nói.
- Và ông cũng tin? Con bé chúa hay nói dối – Bà chăm chăm nhìn Poirot, dò hỏi: - Ông nghĩ khác?
- Không, thật là không. Quá nhiều người đã nói như bà, khiến tôi không thể nghi ngờ.
- Mỗi nhà mỗi cảnh, lắm chuyện lắm, gia đình Reynolds chẳng hạn. Ông Reynolds làm nghề môi giới bất động sản. Tham vọng ông ta chỉ có hạn, sống tầm tầm thế thôi. Bà Reynolds thì hơi một tí thì rối lên. Còn lũ con, chẳng đứa nào giống bố hay giống mẹ. Ann, là con bé rất thông minh, năm nay chắc chắn sẽ thi đạt kết quả tốt. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu nó học lên đại học và một ngày kia sẽ trở thành giáo sư. Joyce không thông minh bằng chị và em trai, nó cố gắng để tỏ ra mình không kém ai, luôn làm ra bộ mình biết nhiều chuyện, thậm chí bịa ra chuyện để thu hút sự chú ý của mọi người.
- Còn đứa em út?
- Ồ, nó mới chín hay mười tuổi, nhưng tôi cho là thằng này sẽ có cá tính. Nó rất khéo tay và có lắm sáng kiến. Nó còn tiến xạ Nhưng không vì thế mà không dè chừng nó. Thằng này hay nghe trộm, hay chơi nhả với bạn. Không biết nó lấy đâu ra tiền túi. Bố mẹ nó đâu có dư dật mà cho nó lắm thế. Có thể nó bán những bí mật nghe được lấy tiền chăng.
Bà hổn hển dừng một lát, rồi kết luận:
- Đó, có lẽ tôi chẳng nói được gì thêm.
- Ngược lại, bà đã giúp tôi nhiều. Còn cái cô người ở biến đi mất tích, bà có biết cô ấy đi đâu?
- Theo tôi, nó chẳng đi đâu xa. Ding dong dell, passýs in the well (1). Tôi vẫn nghĩ như thế đấy.
Chương 17
- Xin lỗi bà, tôi có thể gặp bà một lát?
Oliver đang đứng dưới hiên nhà bà bạn để chờ Poirot, quay về người phụ nữ lạ mặt đứng gần, tay ghì chặt đôi tất tay trắng muốt. Bà ta trạc bốn mươi, ăn mặc giản dị, nhưng trau chuốt.
- Bà cần gì?
- Rất tiếc đã làm phiền, song tôi nghĩ… nghĩ…
Oliver không vội dồn người lạ, mặc dù cô rất muốn biết bà này cần gì.
- Thưa bà, có phải bà là người viết sách, sách về những vụ án?
- Phải. Truyện trinh thám.
Sự tò mò của Oliver càng lên tới đỉnh điểm.
- Tôi đến gặp bà, vì nghĩ rằng bà là người có thể cho tôi những lời khuyên.
Đoán chừng bà khách cần nhiều thời gian để trò chuyện, Oliver mời bà ngồi. Bà khách vẫn vần vò đôi tất tay, nói:
- Một chuyện xảy ra đã lâu, nhưng hồi đó tôi không để ý. Nhưng rồi, đến một ngày nào đó, tôi ngẫm nghĩ lại và thấy cần phải xin ý kiến của người am hiểu. Lại liên hệ với việc mới xảy ra gần đây, càng phân vân, thấy có lẽ nói hết sự thật ra thì hơn…
- Bà định nói về em bé Joyce?
- Vâng. Cái chết thê thảm của cháu chứng tỏ có những người ta không thể tin cậy được, có phải không? Và với thời gian, ta mới hiểu rằng một số sự việc mà lúc đầu ta chấp nhận một cách bình thường, thực ra không giống như ta nghĩ. Bà hiểu tôi chứ ạ?
- Ờ… ờ. Mà tôi chưa được biết quý danh?
- Leaman. Bà Leaman. Từ khi chồng tôi chết cách đây năm năm, tôi thường đi làm, giúp việc các gia đình. Tôi đã đi ở cho bà Llewellyn – Smythe, chủ cũ của nhà Quarry House. Bà có biết bà ấy không?
- Không. Tôi đến Woodleig Common lần này là lần đầu.
- Nếu vậy, chắc bà không biết chuyện xảy ra hồi trước và những lời đồn của thiên hạ?
- Tôi có được nghe kể một số.
- Tôi không hiểu gì về pháp luật, tôi rất sợ nó. Tôi không tin các ông công chứng, họ làm rối tung rối mù mọi thứ. Tôi cũng không dám gặp cảnh sát. Một vụ việc liên quan đến di chúc có thuộc thẩm quyền của cảnh sát?
- Có thể, nhưng điều đó còn tùy.
- Chắc bà có biết người ta nói gì hồi ấy về một bản bổ… bổ…
- Bổ sung?
- Phải. Bà Llewellyn – Smythe đã thảo cái bản bổ… bổ sung ấy, để toàn bộ tài sản cho con bé người nước ngoài đã hầu hạ bà. Quyết định đó làm mọi người ngạc nhiên. Bà ấy có gia đình hẳn hoi, chính vì muốn ở gần người thân nên mới đến ở làng này. Bà đặc biệt yêu người cháu, tức là ông Drake, trao của cải cho người lạ thì làm gì mọi người không sửng sốt. Lũ công chứng liền tung ra tin đồn rằng không phải chính tay bà Llewellyn – Smythe viết bản bổ sung, mà là con bé người ở kia, dọa truy tố ra tòa.
- Phải. Và họ tuyên bố bản bổ sung là vô giá trị. Bà biết gì thêm?
- Thựa ra, tôi không định làm điều gì xấu – bà Leaman chống chế, giọng thảm hại.
Oliver hiểu ra. Hẳn là bà Leaman đã nấp sau cửa, nghe trộm.
- Tôi không nói lại với ai – bà nói tiếp – vì ngay lúc bấy giờ, tôi có biết gì rõ ràng đâu. Tôi chỉ nghĩ là có chuyện gì đấy, tôi không đoán được. Tôi đã làm việc với bà Llewellyn – Smythe khá lâu, nên tò mò muốn biết. Cũng là chuyện bình thường, có phải không?
- Tất nhiên – Oliver chưa hiểu ra làm sao, nên khuyến khích.
- Nếu nghĩ là tôi đã hành động sai, thì sau này tôi sẽ nói, nhưng lúc chuyện đó bắt đầu, tôi nghĩ là nên giữ miệng thì tốt hơn.
- Bà muốn nói về bản bổ sung di chúc của bà Llewellyn – Smythe?
- Phải, tôi xin nói rõ. Một hôm, bà Llewellyn thấy trong người không được khỏe, liền cho gọi chúng tôi đến, gồm tôi và cậu Jim, cái cậu giúp việc làm vườn ấy. Chúng tôi vào phòng và thấy bà chủ ngồi trước bàn đầy những giấy tờ. Bà quay lại cô hầu người nước ngoài – chúng tôi gọi là cô Olga – và nói đại ý như sau: “Bây giờ cháu hãy đi ra, vì cháu không được có mặt ở giai đoạn này.” Cô Olga liền đi ra, sau đó bà Llewellyn – Smythe bảo chúng tôi lại gần và nói: “Đây là di chúc của ta,” vừa nói vừa chỉ một tờ giấy mà bà đã lấy giấy thấm che mất phần trên. “Ta sẽ viết vài dòng trước mặt các người, sau đó các người hãy kí vào đây để xác nhận chính ta đã viết và đã kí.” Và bà bắt đầu viết bằng bút chấm vào lọ mực, bà ấy không chịu viết bút máy. Viết hai ba dòng gì đó, bà ấy kí, rồi bảo tôi: “Bây giờ bà Leaman, bà hãy ghi tên và địa chỉ vào đây.” Tôi làm theo, rồi đến lượt Jim. Bà Llewellyn – Smythe tỏ vẻ hài lòng, tuyên bố: “Các người đã nhìn thấy ta viết và kí, ở đây lại có chữ kí xác nhận của các người, thế là hợp pháp. Thế là xong, rất cảm ơn.” Lúc chúng tôi đi ra, tôi để ý đến một điều. Chả là trong khi đóng cửa bị trục trặc, tôi ngó nhìn nhanh vào trong phòng, thực ra chẳng định nhìn gì. Bà hiểu không?
- Hiểu.
- Một cử chỉ vô thức. Bà Llewellyn – Smythe vừa đứng lên khỏi ghế. Bà đi rất khó khăn, tới giá sách, lấy ra một quyển, đặt tờ giấy – đã bỏ vào phong bì – vào đó rồi để sách vào chỗ cũ. Tôi nhớ là quyển sách có gáy rất dày. Tôi đi ra và quên ngay chuyện ấy. Nhưng sau khi bà chủ mất, bọn công chứng nói là bản bổ sung bị giả mạo, tôi mới nghĩ ra là... là…
Thấy bà lúng túng im bặt, Oliver ướm:
- Thế bà không có ý định tìm hiểu…
- Vâng, có, có, xin thú thật, tôi tò mò muốn biết tờ giấy ấy viết gì. Nói cho cùng thì cũng phải biết mình kí vào giấy gì chứ. Đó là lẽ tự nhiên, có phải không?
- Phải, đó là lẽ tự nhiên.
- Cho nên hôm sau, nhân lúc bà Llewellyn – Smythe đi Medchester vắng và tôi vào dọn phòng, tôi đã đến chỗ quyển sách. Một cuốn sách cổ xưa từ thời nữ hoàng Victoria, nhan đề: Enquire Within upon Everything(1).
(1) Một thứ bách khoa thư của người nội trợ.
- Bà đã tìm thấy tờ giấy và đọc hết nội dung?
- Vâng, thưa bà. Tôi đã đọc. Đó là một văn bản làm đúng pháp lý. Ở trang cuối, tôi nhận ra mấy dòng bà Llewellyn – Smythe viết trước mặt chúng tôi, mà chúng tôi đã đặt bút kí hôm trước. Chữ viết rõ ràng, dù bà ấy có thói quen kéo dài các mẫu tự rất nhọn.
- Và giấy ấy viết gì?
- Quả thật, tôi không nhớ từng chữ, chỉ biết là nó nói đến bản bổ sung thay đổi hẳn các ý định trước đó vì bà trao toàn bộ tài sản cho Olga… Seminoff, để cảm ơn vì công lao đã hầu hạ tận tụy. Tiếp theo là chữ kí của bà, của tôi và của Jim. Đọc xong, tôi bỏ lại vào phong bì, đặt đúng vào trang cũ của quyển sách rồi trả lên giá. Tôi thật bất ngờ vì điều đã đọc: con bé xa lạ ấy mà lại thừa kế toàn bộ tài sản của bà Llewellyn – Smythe! Bản thân tôi chẳng ưa gì Olga, nó hay lên mặt với các gia nhân khác trong khi đối với chủ lại rất quỵ lụy. Nó đang toan tính lợi ích cá nhân mà. Lạ nhất là tại sao bà ấy không để lại gì cho người máu mủ trong nhà. Nhưng ngay sau đó tôi quên hết, cho đến ngày mọi thứ tóe loe. Khi bà chủ chết, bản bổ sung được mở ra trước công chứng, nhà chức trách tuyên bố văn bản không thể do bà Llewellyn – Smythe viết, có người nào đã bắt chước chữ kí và chữ viết của bà.
- Thì bà đã làm gì.
- Không làm gì, vì thế lâu nay tôi cứ băn khoăn. Thoạt đầu tôi nghĩ các công chứng viên nói thế chỉ vì không ưa Olga, giống như nhiều người khác. Tôi không hiểu luật, nên cho rằng đến khi bà Drake nói rõ Olga không thuộc họ hàng thân thích, thì tiền sẽ trở về với người thừa kế trực tiếp, thực ra như vậy cũng đúng thôi. Và đúng là như thế thật, vụ việc không đưa ra tòa. Tài sản thuộc về Drake, còn Olga thì trốn biệt, chắc là về nước gốc gác của cô ấy, như thế càng chứng tỏ cô ta đã từng có mưu mô bất chính nào đó để buộc bà Llewellyn – Smythe truyền lại tài sản.
- Những chuyện này xảy ra từ hồi nào?
- Xem nào… bà Llewellyn – Smythe mất cách đây gần hai năm.
- Và chiều hướng xoay chuyển của vấn đề không làm bà day dứt?
- Không. Lúc đó tôi tin rằng Olga đã có hành động xấu xa gì đó, và rồi mọi việc lại đâu vào đấy, tôi cho là mình có nói gì cũng chẳng thay đổi được.
- Vậy cái gì đã khiến bà thay đổi ý kiến?
- Đó là cái tội ác kinh tởm vừa mới xảy ra. Nghe nói Joyce tuyên bố đã chứng kiến một vụ giết người, tôi chợt nghĩ hay là con bé đã thấy Olga giết bà chủ để mau hưởng thừa kế. Olga biến mất sau khi bị các công chứng và cảnh sát thẩm vấn, chứng tỏ nó chột dạ vì lương tâm không trong sáng.
- Bà đã thực sự trông thấy bà Llewellyn – Smythe viết và kí cái văn bản mà sau đó chính bà và Jim cũng kí?
- Thật.
- Như vậy thì văn bản không phải giả mạo.
- Tôi đã nói sự thật, và nếu Jim có đây, hẳn cũng sẽ nói thế. Nhưng hắn đã đi khỏi đây từ năm ngoái, sang Ôxtrâylia, và tôi không biết địa chỉ.
- Bây giờ bà muốn gì ở tôi?
- Tôi muốn bà hỏi xem tôi có nên nói tất cả với nhà chức trách hay không. Chưa bao giờ có ai hỏi tôi về bản di chúc cả.
- Họ bà là Leaman. Còn tên?
- Harriet.
- Harriet Leaman, tốt. Còn Jim, họ là gì?
- Để nguyên, tôi nhớ đã… Jim Jenkins. Phải rồi, Jim Jenkins. Tôi rất biết ơn nếu bà giúp tôi chút gì, vì lúc này tôi rất lo. Vụ án mạng vừa qua có vẻ là Joyce bắt gặp Olga giết bà Llewellyn – Smythe…
- Có thể là bà sẽ phải nhắc lại tất cả chuyện này trước mặt người công chứng đại diện của bà Llewellyn – Smythe.
- Vâng, tôi tin cậy bà.
- Tôi sẽ cố hết sức để họ khỏi gây phiền phức cho bà.
Oliver bỗng nhìn chăm chăm vào một bóng người vừa xuất hiện ở đầu đường. Bà Leaman đứng lên, xỏ găng tay, ấp úng vài câu xin lỗi rồi ra về.
Poirot đã lên tới nơi. Oliver hỏi:
- Ông sao thế? Có vẻ không vui?
- Chân tôi đi đau quá.
- Tại đôi giày da véc ni của ông đấy. Mời ông ngồi và nói xem đã thu lượm được những gì. Sau đó, tôi xin kể đôi điều sẽ làm ông rất ngạc nhiên!