Ngày Hội Quả Bí - Chương 20 - 21
Chương 20
Poirot lại đi theo con đường mà Miranda đã dẫn lúc đến, để rời nhà Judith Butler. Khi tới gần hàng rào, ông nhận thấy ở các bụi cây có một khoảng trống mới mở, không phù hợp với khổ người em bé. Ông đi ngược theo lối mòn của mỏ đá cũ, một lần nữa trầm trồ ngắm nhìn cảnh đẹp trước mắt.
Poirot suy nghĩ một lát về cái loại di chúc mà các bà nhà giàu thường thảo, và những lời nói dối họ thường dùng để che giấu ý định của mình. Ông tự hỏi họ thường cất di chúc ở đâu, rồi tự đặt mình vào địa vị của người định làm giả và đánh tráo. Rõ ràng là bản bổ sung trình ra, coi là bản chính đã bị làm giả. Không thể nghi ngờ sự lương thiện của ông Fullerton là luật gia thận trọng, ông không bao giờ lại khuyên thân chủ đi kiện, nếu không có lý do và căn cứ chính đáng.
Poirot lách theo một chỗ ngoặt của đường mòn và một lần nữa lại bị kéo trở về thực tại vì đôi giày véc ni bó lấy chân rất đau. Có nên bỏ con đường đi tắt này, đi ra đường chính để về nhà ông bà Spencer? Đường chính tất nhiên êm ái, dễ đi hơn. Bỗng ông sững người, dừng lại.
Trước mặt ông, hai bóng người vừa xuất hiện. Michael Garfield ngồi trên một tảng đá thấp, giá đặt trên đầu gối, đang vẽ. Miranda đi về phía xa. Chàng nghệ sĩ ngẩng đầu:
- A! Ngài Ria mép đây rồi! Xin chúc ông một buổi chiều tốt lành.
- Tôi có thể xem tác phẩm của ông được không, hay tôi làm phiền?
- Ông có thể xem, chẳng phiền gì cả.
Poirot đứng ra phía sau lưng Garfield, gật gù ra vẻ tán thưởng. Trên giấy là hình của Miranda được phác họa tinh tế.
- Đẹp lắm! - Poirot nói.
- Tôi cũng nghĩ thế.
- Tại sao?
- Tại sao tôi vẽ chân dung Miranda? Cần có lý do tại sao ư?
- Hẳn là phải có.
- Ông nói đúng. Nếu tôi phải rời bỏ chốn này, thì có một hai thứ muốn mang theo làm kỉ niệm. Miranda là một.
- Ông sợ quên được cháu sao?
- Dễ quên lắm. Tôi là thế, nhưng quên, hoặc không nhớ nổi một cử chỉ, một khuôn mặt, một bông hoa hoặc một nét phong cảnh sẽ gây ra nỗi buồn vô tả. Ta ghi lại… rồi tất cả tan biến.
- Trừ khu vườn này, chắc vậy.
- Ông nghĩ thế ư? Tất cả khung cảnh này biến mất nếu không còn ai chăm sóc nó. Muốn giữ khu vườn này, cần rất nhiều tình yêu, và chăm chút về chuyên môn. Nếu có một hội đồng thị trấn đảm nhiệm việc đó – chắc rồi sẽ có – nó sẽ trở thành vườn hoa công cộng. Sẽ trồng thêm cây cỏ lạ, thêm ghế đá và sọt rác.
- Ông Poirot! – Tiếng gọi của Miranda từ xa vắng tới.
Nhà thám tử tiến lên mấy bước để nói to:
- Cháu đang dạo chơi trong vườn ư?
- Vâng, nhưng không phải dạo chơi. Cháu tìm cái giếng.
- Ở đây có giếng?
- Trước đây có, người ta hay đến để cầu được ước thấy!
- Bác không biết người ta còn giữ lại giếng gần công trường đá.
- Cái giếng đã có từ trước khi xây dựng công trường. Chú Michael biết nó ở chỗ nào, nhưng không chịu chỉ.
Michael chen vào:
- Tự mình tìm thấy nó mới thích chứ. Nhất là khi cháu không chắc là nó có.
- Bà Goodbody nói là có. Bà ấy phải biết, vì là phù thủy!
- Chắc ông biết bà phù thủy của làng chúng tôi, ông Poirot? Chẳng thần thông gì, nhưng bọn trẻ cứ đồn thổi quyền pháp của bà.
Miranda nói:
- Giếng có phép thần. Bà con thường đến đó khi cần cầu ước điều gì, bằng cách quay người ba lần và đi giật lùi. Chắc giếng ở không xa đây. Bà Goodbody bảo nó bị bỏ hoang phế, không dùng nữa vì một em bé gái đã rơi xuống đó, lâu rồi.
- Lại một huyền thoại nữa của địa phương - Michael giễu – nhưng chú nghe thấy có một giếng như thế ở Little Belling.
- Lúc nào tìm thấy cái giếng của cháu, cháu sẽ bảo!
- Không nên quá tin vào lời nói của một phù thủy, cháu Miranda à. Nếu bà ấy nói là em bé rơi xuống giếng, thì chắc chỉ là một con mèo thôi.
- Tình tính tang, mèo ở dưới giếng – Miranda khe khẽ hát. - Thôi cháu phải đi đây. Má đang chờ.
Em nhoẻn miệng cười với hai người lớn, đi vòng qua suối rồi mất hút ở một lối ngoặt.
- Tính tình tang. – Poirot lẩm bẩm. – Em bé nói đúng không?
Nghệ sĩ lặng lẽ nhìn thám tử, nói:
- Cháu nói đúng. Có một cái giếng trong rừng, đã lâu không dùng, có lẽ vì nguy hiểm. Còn bảo là giếng thần, thì chắc là bà Goodbody bịa. Thôi cứ để cháu nó mơ về giếng thần.
- Tốt! Thôi, tôi phải đi tiếp.
- Ông về nhà ông bạn thiếu tá?
- Vâng. Lúc nãy ông nói ông vẽ chân dung Miranda để nhớ đến cháu. Có nghĩa là ông sắp ra đi?
- Tôi định thế.
- Nhưng ở đây ông sống không tồi.
- Dĩ nhiên, tôi có nhà cửa do chính tôi thiết kế, lại còn công việc nữa… nhưng tôi không còn hứng thú như trước.
- Tại sao?
- Tại vì thiên hạ cứ muốn tôi làm cho họ những thứ kì cục. Có người muốn làm lại vườn, có người vừa mua lại được miếng đất, nhà chưa xây xong đã đòi tôi thiết kế phong cảnh cho hài hòa.
- Nghe nói ông sắp làm lại vườn cho bà Drake?
- Bà đã yêu cầu, và tôi đã đưa ra vài đề án, bà ấy có vẻ thích. Tuy vậy, tôi chưa quyết định nhận lời bà.
- Ông ngại là bà không để ông làm theo ý ông?
- Phải, mặc dù bà ấy hứa là kế hoạch của tôi sẽ được tôn trọng. Nhưng rồi bà ấy sẽ tìm cách ép tôi theo ý bà, và sẽ nải sinh mâu thuẫn. Tốt hơn là tôi từ chối – cả bà và những người khác – và đi khỏi đây trước khi bị thiên hạ ghét.
- Ông biết nước Hy Lạp?
- Có, và tôi mong được về đó. Tạo dựng một khu vườn trên sườn một ngọn đồi Hy Lạp…
- À này ông, ông ở đây đã khá lâu, ông có nghe nói đến một chàng trai tên là Lesley Firrier?
- Tôi nhớ chứ. Cậu ta làm việc ở một văn phòng công chứng tại Medchester, phải không?
- Cậu ta bị chết một cách bi thảm?
- Đúng vậy. Một tối, do những chuyện rắc rối tình cảm gì đó, cậu ta bị đâm chết. Đã cặp kè với Snadra Grifin, vợ chủ quán, lại đi mê một cô gái khác…
- Làm bà kia nổi khùng?
- Tất nhiên. Nên nhớ tay Lesley này có số đào hoa.
- Anh ta chinh phục những cô gái Anh?
- Bất kể, miễn là nói được chút tiếng Anh đủ để bắt chuyện là hắn câu tuốt.
- Ở vùng này thỉnh thoảng có những cô gái người nước ngoài đến làm ăn,
- Đó là việc bình thường, họ đến làm thuê, hầu hạ các gia đình.
- Lesley có quen Olga?
- Tôi nghĩ là có, những chuyện ấy bà Llewellyn – Smythe có lẽ không biết. Cô Olga này không xinh, không hiểu tại sao Firrier lại mê… Tuy nhiên ở con bé này có một sức hấp dẫn gì đó trong mắt một thanh niên Anh. Lesley đi chơi nhiều lần với Olga.
- Những điều ông cho biết là rất quý.
Michael Garfield tò mò nhìn nhà thám tử:
- Tôi không hiểu?
- Tôi đang thử ngược dòng thời gian tới trước khi Lesley Firrier và Olga Seminoff lén lút gặp nhau, giấu bà Llewellyn – Smythe.
- Ông biết không, tôi không dám bảo đảm là mọi việc diễn ra như thế. Tôi thường gặp đôi trai gái đi với nhau, nhưng Olga chưa bao giờ tâm sự gì với tôi. Còn Firrier, tôi chỉ quen qua loa.
- Nhưng trước đó, trước đó nữa… dường như anh ta có chuyện rắc rối với Cảnh sát?
- Nghe nói thế. Sau khi ra tù, hắn được Fullerton nhận lại làm việc. Cái tay Fullerton thật tốt.
- Người ta kể với tôi là anh ta bị xử về tội giả mạo giấy tờ.
- Đúng. Hình như suýt nữa thì trôi chảy, nhưng rồi chính văn phòng nơi anh ta làm việc phát hiện ra.
- Và khi bà Llewellyn – Smythe chết, bản bổ sung, coi như do bà ta để lại, được đưa ra xem xét, thì hóa ra là tài liệu giả.
- Ông có thử liên hệ hai việc lừa đảo ấy với nhau?
- Như vậy cũng lô gích thôi. Anh con trai thì làm sai lệch giấy tờ của chủ, lại dan díu với cô gái đã đưa ra một bản bổ sung giả hòng thừa hưởng gia tài của bà già.
- Thế… sự đời là như thế. Song riêng tôi, tôi không bao giờ tin Olga có thể bắt chước hết chữ viết của chủ. Tất nhiên, nếu cô ta kéo cả Lesley vào vụ này, chắc họ tưởng là sẽ làm được việc. Song kinh nghiệm cho thấy Lesley cũng không tài giỏi gì trong việc làm giả.
Michael bỗng dưng nhìn trừng trừng Poirot bằng con mắt bực tức, xẵng giọng:
- Nhưng tại sao ông lại đến nói chuyện này với tôi?
- Tôi muốn biết.
- Tốt hơn là không nên biết, không bao giờ biết. Hãy để cho quá khứ nghỉ yên là hơn.
- Anh thích cái đẹp, có phải không? Tôi, tôi muốn sự thật.
Michael Garfield cười to:
- Ông hãy trở về với những ông bạn Cảnh sát, để tôi yên hưởng khu vườn tĩnh lặng của tôi, thiên đường của tôi. Hỡi quỷ satăng, hãy xéo đi!
Chương 21
Poirot chậm chạp leo cái dốc đi lên nhà ông bạn cảnh sát hưu trí. Đột nhiên ông dừng bước, quên phứt đôi chân đau và con đường dốc. Ông vừa ghép lại những sự việc mà ông đã ngờ ngợ là chúng có một điểm chung. Và chợt nhận ra là nếu không lập tức có biện pháp, rất có thể một nạn nhân mới sẽ gặp nguy hiểm.
Xốn xang vì ý nghĩ đó, ông lên tới nhà “Ngọn thông” vừa lúc bà Elspeth McKay bước ra bậc cửa.
- Ông Poirot, trông ông có vẻ mệt? Vào đây ngồi.
- Ông anh bà có nhà không?
- Không. Anh ấy vừa chạy ra ga. Hình như có tai nạn.
- Đã xảy ra rồi? Không thể được!
- Ông nói gì?
- Không, không. Chuyện gì vậy?
- Tôi không biết. Ông Jim Raglan gọi điện, yêu cầu anh tôi xuống ngay. Để tôi pha cho ông chén trà nhé?
- Không, xin cảm ơn, nhưng có lẽ… có lẽ tôi phải trở về nhà trọ. Chân tôi đau, phải về thay giày.
Bà Elspeth cúi nhìn chân thám tử.
- Đúng là đôi này không tiện. À mà, ông có thự Từ nước ngoài. Để tôi vào lấy.
Một lát sau, bà ra, đưa thư cho Poirot.
- Nếu không cần giữ phong bì, ông cho tôi xin, để cho một đứa cháu nó thích sưu tập tem.
- Vâng, bà cứ lấy.
Poirot bóc thư rồi đưa phong bì cho chủ nhà. Bà cảm ơn rồi trở vào bên trong.
Olga Seminoff đã không trở về quê hương, ở đây cô không còn ai thân thuộc. Nhưng ở đó còn một người bạn, một bà đứng tuổi mà Olga lâu lâu có viết thư, kể về cuộc sống ở Anh. Cô báo tin cô rất hòa hợp với chủ; bà chủ nghiêm khắc, khó tính, nhưng ngược lại rất hào phóng.
Trong những thư gần nhất – cũng cách đây một năm rưỡi rồi – cô có nói loáng thoáng đến một chàng trai mà cô hi vọng sẽ kết hôn khi nào anh này làm ăn khấm khá. Trong thư cuối cùng, Olga lại nói về dự định hôn nhân này, có vẻ tiến hành thuận lợi. Khi bặt tin của người đồng hương, bà bạn yên trí Olga đã lấy chồng và thay đổi chỗ ở. Song bà không biết tên chàng trai người Anh là ai.
Mọi việc có vẻ ăn khớp – Poirot nghĩ, Lesley Firrier hẳn đã nói chuyện hôn nhân với Olga, nhưng chưa hứa hẹn gì sâu hơn. Bà Llewellyn – Smythe được mô tả là người “hào phóng”. Tiền nhận được của bà, Olga chắc đã đưa cho Lesley để thúc đẩy anh này làm giấy giả mạo cho hai người cùng hưởng.
Nhân bà McKay lại ra sân, Poirot liền hỏi xem bà nghĩ gì về những suy luận của ông liên quan đến cặp Lesley – Seminoff.
Bà Elspeth suy nghĩ một lát rồi mới nói:
- Nếu hai đứa ấy yêu nhau, chắc chúng đã giấu thật kín. Không thấy ai đồn đại gì về họ, mà ở đây trai gái đi với nhau thì mọi người chẳng chóng thì chầy đều biết.
- Firrier đã đi lại với một phụ nữ có chồng, nên chắc phải dặn Olga giữ kín mối quan hệ.
- Có thể. Mặt khác, bà Llewellyn – Smythe biết Firrier là người không tốt nên đã khuyên cô hầu phải cảnh giác.
Poirot gấp cẩn thận lá thư của ông Goby, bỏ vào túi.
- Để tôi pha cho ông một tách trà trước khi đi.
- Cảm ơn bà, nhưng tôi muốn về ngay để thay giày. Bà không đoán được ông anh bao giờ về?
- Chịu.
Poirot cáo từ, trở về khách sạn. Vừa bước lên bậc thì cửa mở, bà chủ trọ hiện ra, vẻ bí mật:
- Có một bà muốn gặp ông. Chờ ông đã khá lâu. Tôi đã nói không biết ông đi đâu, bao giờ về, bà ấy cứ đòi đợi. Đó là bà Drake. Có vẻ như bà ấy rất sốt ruột. Xưa nay bà ấy bình tĩnh lắm, chắc bị sốc vì cái gì. Tôi để bà ấy ở phòng khách. Tôi đi pha trà nhé?
- Không, cảm ơn. Có lẽ để tôi nghe xem bà ấy muốn gì đã. Poirot vào phòng khách. Nghe tiếng cửa khép lại, bà Rowena Drake quay giật người.
- Ông Poirot! Ông đã về!
- Rất tiếc, thưa bà, tôi không biết bà tìm tôi. Chẳng hay có chuyện gì?
Đó là một câu hỏi Poirot không ngờ phải hỏi người phụ nữ này. Bà Drake vốn là người luôn chủ động, thật kì lạ!
- Ông biết rồi ư?
- Biết gì?
- Kinh khủng! Nó chết rồi… có người giết nó!
- Ai chết?
- Nó chỉ là đứa trẻ, thế mà tôi cứ nghĩ… sao tôi ngu xuẩn quá thế! Lẽ ra tôi phải tin cậy ông. Tôi cảm thấy mình rất có tội đã nghĩ là mình biết làm gì hơn ai hết… Tôi làm thế vì tin rằng đó là giải pháp tốt nhất. Ông phải tin tôi.
- Mời bà ngồi xuống và kể rõ xem nào. Lại một đứa trẻ nữa chết… đứa nào?
- Lèopold, em nó.
- Lèopold Reynolds?
- Phải. Người ta tìm thấy nó trên con đường đồi. Tôi đoán, từ trường về nhà, nó muốn đi vòng để nghịch ở khe suối chỗ đó. Kẻ nào đã dìm đầu nó xuống nước cho đến lúc chết ngạt.
- Y như Joyce.
- Vâng. Chắc chắn hành động này chỉ là của một tên loạn óc. Đáng lo là không có một dấu vết gì để truy tìm. Khổ một cái là tôi đã đoán đúng! Nhưng cứ tưởng…
- Lẽ ra bà phải nói hết với tôi.
- Vâng. Ông đến hỏi tôi về chuyện đánh rơi lọ hoa, mà cô Elizabeth Whittaker cho là tôi giật mình vì nhìn thấy cái gì bất thường. Tôi đã chối vì nghĩ rằng…
Bà im bặt. Poirot dồn:
- Và bà có thấy cái gì thật?
- Vâng, tiếc là tôi đã không nói với ông sớm hơn. Cửa phòng sách mở ra và nó xuất hiện ở bậc cửa. Nó đứng sững một lát rồi biến ngay.
- Nó là ai?
- Là Lèopold.
- Bà cho là… là Lèopold vừa giết chị xong. Phải thế không?
- Phải. Nhưng thấy Lèopold có vẻ gì là lạ. Về mặt nào đó, nó là một thằng bé đáng sợ, luôn luôn gây cho ta cảm tưởng không bình thường. Rất thông minh, nhưng có vẻ sống khác người. Lúc trông thấy nó, tôi nghĩ bụng: “Sao Lèopold không ở cùng các bạn chơi trò Snapdragon? Cậu ta tìm cái gì trong phòng sách?” Sau đó, tôi quên ngay chuyện ấy, nhưng sự xuất hiện bất ngờ của nó đã làm tôi sửng sốt đến mức đánh rơi lọ hoa. Đến khi phát hiện Joyce bị giết, tôi mới nghĩ lại chuyện đó, và suy luận ra…
- Là Lèopold đã giết chị nó.
- Vâng… Một xét đoán sai lầm kinh khủng. Nay đến lượt Lèopold bị giết, có nghĩa là nó đã vào phòng sách, nhìn chị nó… chết, và bị sốc mạnh. Muốn chạy trốn mà không ai biết, nó nhìn nhanh ra ngoài và thấy tôi, thế là nó vội rút mau.
- Và bà không nói gì cả? Kể cả sau khi phát hiện vụ án?
- Nó… nó còn nhỏ quá, chưa tới mười một tuổi. Tôi có cảm tưởng nó không nhận thức được tầm vóc việc nó làm… ý của tôi hoàn toàn trong sáng, thưa ông. Tôi nghĩ như thế là tốt nhất.
Poirot nói, giọng lững lờ:
- Hôm nay tôi vừa được biết Lèopold gần đây tiêu xài nhiều lắm. Chắc có ai cho tiền nó để nó giữ yên lặng.
- Nhưng ai… ai?
- Rồi chúng ta sẽ biết.