Đánh Thắng B-52 - Chương 1
Một
CON NGOÁO ỘP B-52
Ngày 18 tháng 4 năm 1952, chiếc máy bay khổng lồ mang tên B-52 lần đầu tiên bay thử thành công. Bọn trùm hiếu chiến Mỹ vỗ tay reo mừng. Từ nay không quân Mỹ có trong tay một thứ vũ khí chiến lược mang bom hạt nhân làm "bảo bối" để răn đe nhân dân thế giới.
Có sự trùng hợp thật ngẫu nhiên. Đúng hai mươi năm sau, ngày 16 tháng 4 năm 1972, thành phố Hải Phòng của nước Việt Nam trở thành thành phố đông dân đầu tiên trên thế giới bị máy bay B-52 ném bom rải thảm. Tất nhiên, chiếc B-52 lần này không hoàn toàn giống như chiếc B-52 lúc mới ra đời. Sau hai mươi năm, đặc biệt từ khi Mỹ tham gia ồ ạt vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Mỹ đã ra công cải tiến, lần lượt cho ra đời tám kiểu B-52 đánh số từ B-52A đến B-52H. Mỗi chiếc có thể mang trên dưới một trăm quả bom thông thường với trọng lượng từ mười tám đến hai mươi tám tấn. Vào những năm đầu thập kỷ sáu mươi, Bộ tư lệnh không quân chiến lược Mỹ được giao nhiệm vụ nghiên cứu sử dụng B-52 vào một cuộc chiến tranh hạn chế. Đầu năm 1965, có ý kiến đề nghị dùng B-52 ném bom Bắc Việt Nam. Nhưng nhà cầm quyền nước Mỹ lúc bấy giờ chưa dám làm việc đó. Vả lại học cũng còn đủ khôn ngoan để tính toán rằng đã là con "chủ bài" thì phải đưa ra đúng lúc. Tháng 4 năm 1965, Mỹ quyết định dùng sư đoàn không quân chiến lược số 3 đóng ở đảo Gu-am tiến hành chiến dịch ném bom mang tên "Cung sáng" ở miền Nam Việt Nam. Ngày 18 tháng 6 năm 1965, ba mươi máy bay B-52 cất cánh từ đảo Gu-am ở trung tâm Thái Bình Dương, vượt gần 9.000 km, với mười sáu giờ bay liên tục đã thực hiện cuộc ném bom rải thảm lần đầu tiên trên thế giới vào khu vực Trảng Lớn, Bờ Cảng thuộc xã Long Nguyên huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương phía tây bắc Sài Gòn. Trong lần ra quân đầu tiên này, B-52 đã không gặp may. Hai chiếc bị tai nạn trong khi tiếp dầu trên không và rơi xuống biển. Tám trong số mười hai nhân viên trên máy bay thiệt mạng. Hai chiếc khác bị trục trặc ở dọc đường. Cuối cùng chỉ có hai mươi sáu chiếc tới được khu vực mục tiêu nhưng lại ném bom trệch ra ngoài căn cứ nên không gây thiệt hại gì cho lực lượng kháng chiến. Từ đó, các máy bay chiến lược B-52 được dùng thường xuyên làm nhiệm vụ chiến thuật, yểm trợ cho các cuộc hành quân trên bộ của Mỹ và quân ngụy Sài Gòn. Đến cuối năm 1965, các đội hình lớn từ mười tám đến ba mươi chiếc B-52 đã được sử dụng phổ biến trên chiến trường miền Nam và cường độ xuất kích đã lên tới ba trăm lần chiếc tháng. Sang đầu năm 1966, theo yêu cầu phát triển của chiến trường, tướng Oét-mo-len, tư lệnh quân Mỹ ở Việt Nam đề nghị lần lượt tăng lên sáu trăm, rồi đến tám trăm lần chiếc tháng. Mặc dầu vậy, quan và dân miền Nam vẫn tiếp tục nắm quyền chủ động trên chiến trường.
[Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]
Ngày 12 tháng 4 năm 1966, máy bay B-52 lần đầu tiên ném bom đèo Mụ Giạ ở Bắc Việt Nam, mở đầu việc đánh phá của B-52 trên miền Bắc nước ta. Đầu năm 1967, sân bay U-ta-pao trên đất Thái Lan được khẩn trương xây dựng. Từ căn cứ này, B-52 đi ném bom ở Việt Nam không cần phải tiếp dầu. Do đó, cường độ xuất kích của B-52 ngày càng tăng, đến tháng 1 năm 1968 đã lên tới 1.200 lần chiếc tháng. Khi chiến dịch Khe Sanh bước vào giai đoạn quyết liệt thì cường độ xuất kích của B-52 đã lên tới 1.800 lần chiếc tháng.
Với tất cả những cố gắng đó, B-52 vẫn không giúp cho kẻ địch làm thay đổi được cục diện trên chiến trường. Tuy nhiên, việc dùng B-52 ném bom trên chiến trường miền Nam Việt Nam gần tám năm trời là một quá trình tập dượt quan trọng đối với không quân chiến lược Mỹ. Hệ thống chỉ huy dẫn đường ngày càng được hoàn thiện, các máy gây nhiễu được cải tiến và nâng cao. Cho đến những ngày cuối tháng 12 năm 1972, khi quyết định tung hàng trăm lần chiếc B-52 vào vùng trời Hà Nội, Hải Phòng thì các nhà chiến lược của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc tin rằng những "siêu pháo đài bay" của chúng đã trở thành bất khả xâm phạm, và đòn tập kích chiến lược này sẽ là đòn quyết định buộc chúng ta phải quỳ gối đầu hàng.
Thực ra, tham vọng của bè lũ Ních-xơn không phải không có căn cứ.
*
* *
B-52 đúng là một biểu tượng về sức mạnh của nền công nghiệp Mỹ. Chỉ riêng việc làm cho thân hình máy bay có trọng lượng hơn 221 tấn cất cánh khỏi đường băng đã làm cho thế giới lúc bấy giờ phải kinh ngạc. Vì thế, ngay từ khi mới ra đời, Mỹ đã hợm hĩnh đặt cho nó cái tên "pháo đài bay khổng lồ", "siêu pháo đài bay"... Với chiều dài 48,07 m, chiều cao 12,39 m, sải cánh 56,42 m, B-52 đúng là một loại "pháo đài bay khổng lồ". Cho đến nay chưa có loại máy bay quân sự nào có kích thước và sức chở nặng lớn đến như thế.
Thời gian làm công tác chuẩn bị cho một phi đội B-52 từ mười đến mười hai chiếc cất cánh phải mất hai mươi tư giờ. Riêng phát động máy trước khi bay mỗi chiếc B-52 phải mất hai giờ. Thời gian tập hợp đội hình lên độ cao tám đến 10 km phải mất ba mươi lăm phút.
Việc chi phí cho những chuyến bay B-52 cũng đạt đến mức "khổng lồ". Theo "Cuộc chiến tranh không quân ở Đông Dương" của nhóm nghiên cứu trường đại học Coóc-nen, xuất bản ở Mỹ đầu năm 1972, một lần xuất kích của một B-52 tốn hết 41.121 đô la, gồm chi phí xăng, dầu, mỡ, bảo quản, sửa chữa... và nhiều nhất là bom đạn (Xăng, dầu, mỡ 3.397 đô-la, bảo dưỡng 4.424 đô-la, bom đạn 22.500 đô-la...) Cũng theo tài liệu trên, từ năm 1965 đến năm 1971, máy bay B-52 Mỹ đã xuất kích hơn 79 nghìn lần chiếc và tốn hết 3 tỷ 210 triệu đô-la.
Cũng vẫn tài liệu đó viết: "Trên một nửa tổng khối lượng bom đạn ném từ trên không xuống Nam Việt Nam là của B-52... Tính đến cuối năm 1971, chỉ riêng ở Việt Nam đã có hơn mười triệu hố bom, phần lớn là do những quả bom nặng năm trăm cân Anh và bảy trăm năm mươi cân Anh từ máy bay B-52 ném xuống gây ra. Con số này bằng một khu vực rộng 650 km2 và bằng việc đào lên khoảng hai tỷ rưỡi mét khối (Anh) đất. Nhiều vùng khá rộng ở Đông Dương có nhiều hố bom đến nỗi các vùng này giống như bề mặt của mặt trăng."
Trong bài "Chống nổi loạn từ trên 30.000 feet: B-52 ở Việt Nam", K. Kipp viết: "Nhiệm vụ của B-52 là quấy rối địch, làm gián đoạn mọi hoạt động bình thường của địch, không cho địch được nghỉ ngơi ngay cả ở các sào huyệt của họ trong rừng và làm tiêu hao địch về mặt tâm lý." Còn James A. Donvan trong cuốn "Chủ nghĩa quân phiệt Mỹ" thì viết: "Trong khi vùng nông thôn tan biến dưới cơn lốc của chất nổ mạnh do B-52 ném xuống, người ta giải thích một cách sinh động rằng đó là con bài thanh toán "bọn xâm lược công sản và quân du kích."
Vào những năm 1965, 1966, những tờ truyền đơn thả xuống các vùng giải phóng ở miền Nam, in hình chiếc B-52 với đầy đủ kích thước, tính năng của nó, quả đã có tác dụng tâm lý nhất định. Một số cán bộ ở miền Nam ra công tác ở miền Bắc khi kể cho chúng tôi nghe về những đợt rải thảm B-52, đã tỏ ra phân vân, lo lắng. Ở miền Bắc, trong những ngày đầu chống lại cuộc chiến tranh phá hoại của kẻ thù, chúng tôi cũng đã bắt đầu suy nghĩ đến B-52. Tuy chưa đưa ra được một cách đánh cụ thể, nhưng câu nói của Bác Hồ: "Dù đế quốc lắm súng nhiều tiền, dù chúng có B-57, B-52 hay "bê" gì đi nữa chúng ta cũng đánh và đã đánh là nhất định thắng" đã động viên và củng cố niềm tin cho chúng tôi. Ngay từ những ngày đầu, theo chỉ thị của cấp trên, chúng tôi đã có kế hoạch theo dõi con "ngoáo ộp" này một cách chặt chẽ, đặc biệt là cái vỏ điện tử tinh vi bảo vệ nó. Để bạn đọc dễ hình dung, tôi xin nêu một so sánh. Trước đó, chúng tôi gọi mỗi chiếc EB-66 là một "nhà máy điện tử di động" trên không. Đây là loại máy bay trinh sát điện tử hiện đại của không quân Mỹ với năm nhân viên điện tử ngồi trên máy bay. Vào những năm 1966, 1967, mỗi đợt đánh lớn vào Hà Nội, chúng chỉ dùng từ ba đến năm chiếc EB-66 là có thể nhiễu trắng hầu hết các màn ra-đa của ta, làm bức màn cho bọn cường kích đi bắn phá. Có thể nói trong lòng mỗi chiếc B-52 chứa gọn một chiếc EB-66. Điều này không những đúng cả về kích thước, vì mỗi chiếc B-52 to gấp bốn lần chiếc EB-66, mà đúng cả về tính chất của nó. Nếu mỗi chiếc EB-66 chỉ có mười sáu loại máy điện tử thì mỗi chiếc B-52 có đến mười bảy loại và tất nhiên là tinh vi hơn, hiện đại hơn nhiều.
Như vậy vẫn chưa thật yên tâm. "Những bộ óc thông minh nhất nước Mỹ" còn trang bị thêm cho mỗi chiếc B-52 hai máy gây nhiễu tiêu cực, mỗi máy đựng bốn trăm năm mươi bó nhiễu, mỗi bó có hàng vạn sợi kim loại, khi được tung ra nó sẽ biến thành một khu vực nhiễu có thể che kín cả đội hình B-52 trong một thời gian nhất định.
Tin tưởng vào những máy móc mà cả nền công nghiệp điện tử của Mỹ đã dốc hết sức mới có được, bọn chỉ huy Mỹ đã trấn an bọn phi công B-52: "Các anh yên trí. Các sân bay của Bắc Việt sẽ bị tê liệt trước khi các anh vào, còn các trạm tên lửa SAM thì sẽ bị hoàn toàn vô hiệu do các máy gây nhiễu của ta."
Tưởng cũng nên kể qua một chút về cuộc hành trình của bọn "siêu pháp đài bay" này để bạn đọc có thể hình dung được phần nào hệ thống tổ chức chỉ huy hiện đại của lực lượng không quân chiến lược Mỹ.
Đoạn đường từ đảo Gu-am ở trung tâm Thái Bình Dương đến gần vùng biển Việt Nam dài trên 4.000 km, B-52 bay theo một đường bay định sẵn. Bọn giặc lái chỉ việc mở máy tự động rồi ung dung ngồi đọc tiểu thuyết hoặc xem họa báo. Thỉnh thoảng tên sĩ quan dẫn đường nhìn qua cửa kính đối chiếu với trăng sao trên trời, nếu cần thiết thì điều chỉnh lại hướng bay. Đến mỗi điểm quy định có đánh dấu trên bản đồ bay, những ngọn đèn có màu sắc khác nhau lần lượt bật sáng, báo cho kíp bay biết cuộc hành trình đang được thực hiện tốt đẹp.
Khi tới vùng trời phía bắc Phi-lip-pin 180 km, theo kế hoạch hiệp đồng, những chiếc KC-135 từ Philip-pin cũng vừa bay đến, bắt đầu làm nhiệm vụ tiếp dầu cho B-52. Công việc phức tạp này được tiến hành trên độ cao mười ngàn mét, trong lúc những chiếc B-52 vẫn tiếp tục bay về hướng Việt Nam. Đến khu vực nam Đà Nẵng, kíp bay mở máy liên lạc với đài dẫn đường Lo-ran đặt ở bán đảo Sơn Trà rồi tiếp tục bay qua Lào, đến vùng trời sông Mê Kông. Tại đây, bọn cường kích, tiêm kích từ các sân bay trên đất Thái Lan cũng vừa bay đến, nhập vào đội hình với B-52 rồi theo dọc sông Mê Kông bay lên phía bắc. Chúng bay qua Xiêng - Khoảng, Sầm Nưa, vượt biên giới phía tây vào Tuyên Quang, Phú Thọ, xuống Việt Trì, Tam Đảo, vào đánh Hà Nội. Bọn F-105G được giao nhiệm vụ chế áp trận địa tên lửa, cao xạ, bọn F-4E làm nhiệm vụ chặn kích chống lại Míc để bảo vệ đội hình B-52. Theo quy định, mỗi tốp B-52 được một tốp F-4 hai chiếc đi hộ tống. Bọn này sau khi gặp các tốp B-52 ở điểm hẹn trên vùng trời sông Mê Kông, bay cách các tốp B-52 từ 18 đến 20 km ở hai bên sườn, theo một đường bay đã tính sẵn, sao cho luôn bám sát được các tốp B-52 lúc bay vào cũng như bay ra, mặc dầu tốc độ của bọn tiêm kích bao giờ cũng lớn hơn B-52.
Đó là chưa kể trước khi các tốp B-52 vào, đã có các tốp máy bay chiến thuật đi đánh các sân bay và các trận địa phòng không của ta theo một kế hoạch chung, thống nhất của bộ chỉ huy tập đoàn không quân số 7 Mỹ.
Điều đáng chú ý là cả một kế hoạch hiệp đồng lớn và hết sức tỉ mỉ như vậy, từ căn cứ Gu-am ở trung tâm Thái Bình Dương, đến các sân bay U-ta-pao, U-đôn, U-bôn, Tắc-li, Cò-rạt ở Thái Lan, các căn cứ ở Nhật Bản, ở Phi-lip-pin, các tàu sân bay ở Vịnh Bắc Bộ... chỉ được bộ chỉ huy tập đoàn không quân số 7 Mỹ đóng ở Tân Sơn Nhất phổ biến trước có sáu tiếng đồng hồ bằng điện tín. Tuy vậy, như chúng ta biết, kế hoạch đã được thực hiện với độ chính xác cao.
Tính trung bình mỗi chiếc B-52 đi ném bom Bắc Việt Nam phải huy động thêm bảy chiếc máy bay các loại đi theo để phục vụ, bảo vệ và phối hợp tác chiến. Mức độ tập trung máy bay của Mỹ vào cuộc tập kích chiến lược mười hai ngày đêm cuối tháng 12 năm 1972 trên vùng trời Bắc Việt Nam lớn đến nỗi các hãng thông tin phương Tây phải thốt lên "chưa bao giờ nhà cầm quyền Mỹ lại huy động một lực lượng không quân lớn đến như thế để oanh kích Bắc Việt Nam" và "các chiến trường khác hầu như không còn máy bay để hoạt động".
Như vậy là trong những ngày đêm cuối năm 1972 đáng ghi nhớ đó, hầu như cùng một lúc trên bầu trời Bắc Việt Nam có từ bốn trăm đến năm trăn máy bay Mỹ hoạt động, vừa ném bom chế áp trận địa, vừa thả nhiễu, chặn kích, nhìn qua tưởng chúng bay một cách hỗn loạn, nhưng thực ra đã được tính toán tỉ mỉ. Khi chiếc B-52 cuối cùng rút khỏi chiến trường thì tất cả bọn lau nhau đều đã trên đường trở về căn cứ.
Hàng mấy trăm chiếc máy bay phản lực cùng một lúc hoạt động trên một vùng trời nhỏ hẹp, cách căn cứ hàng trăm, hàng nghìn kilômét, giữa trời đêm mù mịt, nhưng không hề va chạm nhau, không hề bị thất lạc, chứng tỏ hệ thống chỉ huy của chúng hiện đại, tinh vi biết nhường nào.
Nước Mỹ với nền công nghiệp hiện đại vào bậc nhất thế giới thực sự đã trang bị cho bộ máy chiến tranh của nó và riêng lực lượng không quân những phương tiện lý tưởng để đi xâm lược nước ngoài và răn đe thế giới.
Với chiến dịch "Lai-nơ bếch-cơ 2", lần đầu tiên bọn Mỹ tung một lực lượng không quân khổng lồ, lấy B-52 làm lực lượng đột kích chủ yếu, thi thố mọi thứ máy móc hiện đại, với tham vọng áp đảo đối phương ngay từ phút đầu và tin chắc chỉ trong vài ngày sẽ giành được thắng lợi.
Chính vì vậy mà ngày 18 tháng 12 năm 1972, cùng một lúc Ních-xơn vừa hạ lệnh cho B-52 cất cánh, vừa gửi công hàm cho Chính phủ ta với lời lẽ láo xược của một tối hậu thư, hẹn gặp lại ta ở Pa-ri vào ngày 26 tháng 12 năm 1972, với điều kiện là ta phải chấp nhận một văn bản hiệp định do chúng áp đặt. Tin vào "công hàm B-52" nhất định sẽ có hiệu lực nên khi phát lệnh xong, Ních-xơn yên trí đi nghỉ cuối tuần ở Phlo-ri-đa chờ "tín hiệu" trả lời từ Hà Nội. Nhưng thực tế đã diễn ra không đúng như mong muốn chủ quan của chúng. Ngay đêm đầu tiên, con ngoáo ộp B-52 đã bị tử thương và bị một đòn phủ đầu choáng váng.