Luận Anh Hùng - Phần I - Chương 02 - phần 1

II. Sai sót của Hạng Vũ.

Sai sót của Hạng Vũ còn nhiều hơn thế này.

Sau khi Hàn Tín rời bỏ Hạng Vũ sang với Lưu Bang, đã có mấy buổi hai người trò chuyện với nhau, câu chuyện luôn nói về Hạng Vũ. Lưu Bang hỏi Hàn Tín, Tiêu thừa tướng nhiều lần tiến cử tướng quân với quả nhân, nay tướng quân có kế sách gì xin chỉ bảo cho quả nhân? Hàn Tín không trả lời thẳng mà lên tiếng hỏi lại, nay người đi về hướng đông tranh giành thiên hạ với đại vương phải chăng là Hạng Vũ? Lưu Bang nói đúng. Hàn Tín hỏi tiếp: Đại vương tính lại xem, về sự dũng mãnh của cá nhân, sự tinh nhuệ của quân lính, liệu có bằng Hạng Vũ không? Lưu Bang suy nghĩ hồi lâu rồi nói: Ta không bằng hắn. Hàn Tín đứng dậy, bái lạy, nói: Tất cả đều đúng. Bản thân Hàn Tín cũng thấy rõ, đại vương không bằng Hạng Vũ. Thực kỳ lạ. Thấy rõ Lưu Bang không bằng Hạng Vũ, lại bội phản Hạng Vũ sang với Lưu Bang, há chẳng phải là ngu ngốc sao? Đương nhiên, Hàn Tín không ngốc. Hàn Tín đã phân tích tỉ mỉ con người Hạng Vũ cho Lưu Bang nghe, phân tích tính cách, tâm lý của Hạng Vũ, cho đó là nguyên nhân thất bại của Hạng Vũ. Theo cách nói của Hàn Tín, ít ra Hạng Vũ đã có hai điểm yếu chết người, là “dũng mãnh của thất phu” và “lòng nhân của đàn bà”. Theo tôi, qua lần trao đổi này, bước đầu có thể thêm vào hai điểm, Hạng Vũ “ki bo kẹt xỉ” và “lòng dạ hẹp hòi”.

Nói “dũng mạnh của thất phu” trước.

Phải nói, Hạng Vũ rất dũng cảm, gần như Hạng Vũ không sợ một ai, chỉ có người khác sợ Hạng Vũ. Hạng Vũ cũng rất khỏe mạnh. Sách Sử ký viết, Hạng Vũ “thân cao hơn tám thước, có thể vác nổi chiếc đỉnh”, có thể thấy Hạng Vũ khôi ngô, anh tuấn, cơ bắp cuồn cuộn, mạnh mẽ hùng dũng, lũ thiếu nữ sùng bái, coi là thần tượng.

Năm 207 trước Công nguyên, có tin gấp bay đến báo, vua tôi Triệu vương bị quân Tần vây khốn ở Cự Lộc. Có hơn mười doanh quân chư hầu đến cứu Triệu, nhưng tất cả đều bất động, riêng Hạng Vũ cùng quân Sở quyết sống mái với quân Tần, lấy một chọi mười, trải chín cuộc huyết chiến với quân Tần, tiếng hô chém giết vang trời động đất, quân tướng lũ chư hầu sợ đến bạc mặt, sau này đại phá quân Tần, cứu được Triệu vương. Quân Sở can đảm, lại có sức mạnh, Hạng Vũ cảm thấy không cho họ có đất dụng võ là lãng phí, thật đáng tiếc. Vì vậy, Hạng Vũ luôn giễu võ giương oai. Tuy là thống soái, nhưng Hạng Vũ thích xông pha nơi hiểm trận. Mỗi lần chiến đấu, Hạng Vũ thường xông lên trước ba quân, tới đâu quét sạch tới đó. Thường là, Hạng Vũ chưa động tới binh khí, chỉ cần trừng mắt nhìn, đối phương đã hồn bay phách lạc, mắt không dám nhìn, tay chân cứng đờ, tè cả ra quần, tan rã hoàn toàn. Những chiến công như vậy không phải ít. Tôi tin rằng cứ mỗi lần như vậy, Hạng Vũ sẽ cảm thấy khoan khoái vô cùng.

Từ chỗ khoan khoái, Hạng Vũ luôn muốn quyết đấu với chủ soái đối phương, Hạng Vũ nói với Lưu Bang, bao năm nay thiên hạ không yên, chẳng phải là do hai ta sao? Hai ta dứt khoát phải đấu với nhau, ai thắng thiên hạ là của người đó, việc gì để người thiên hạ phải khổ theo! Đúng là khí khái của anh hùng, của phái quý tộc. Tiếc là Lưu Bang không mắc bẫy, không bao giờ Lưu Bang chịu đơn thương độc mã tiếp chiêu Hạng Vũ. Thế rồi Lưu Bang cười khà khà nói, Lưu mỗ chỉ đấu trí không đấu sức. Tôi tin rằng lúc nói câu này, thể nào Lưu Bang cũng nở một nụ cười xỏ xiên.

Xét về góc độ thẩm mỹ, biểu hiện của Lưu Bang chẳng đẹp chút nào. Nhưng về góc độ quân sự, chính trị, Lưu Bang đều đúng. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị, là bước cao nhất của đấu tranh chính trị. Thắng bại của chiến tranh, nói đến cùng là thắng bại của đấu tranh chính trị, ít ra cũng là thắng bại của chiến lược chiến thuật, không can hệ gì tới cơ thể lớn bé, tới sức lực của chủ soái. Hạng Vũ coi đánh trận như đánh nhau, coi chính trị như kịch hát, giản đơn như con trẻ. Mọi người đều rõ, “quân cần tinh không nhiều, tướng cần mưu không cần mạnh”. Hạng Vũ không phải không biết điều này, không thế đã chẳng phải học binh pháp, còn nói, không học cái “chỉ đánh được một người” mà đòi học cái “đánh được cả vạn người? Tiếc rằng khi gặp việc, Hạng Vũ không dùng tới cái “đánh cả vạn người”, mà chỉ dùng tới cái “đánh được một người”. Rõ ràng Hạng Vũ không phải soái tài, chỉ là thất phu có sức mạnh và rất dã man, ác bá.

Từ lâu đã có người so sánh “sức mạnh của kẻ thất phu” và “sức mạnh của người quân tử”. Giữa đường gặp chuyện bất bình, rút kiếm xông lên, không nói một lời, thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đó là cái mạnh của thất phu, chỉ cần một ít máu hăng, một ít sức lực, không cần có chí hướng, có rèn luyện, bất kỳ người nào cũng có thể làm được, chính đó là cái mạnh của kẻ thất phu. Thế nào là cái mạnh của người quân tử? Núi Thái Sơn đổ mà sắc không đổi, hươu nai nhảy múa ở bên cạnh mà mắt không chớp, nguy hiểm gần kề mà không hề sợ, không có cớ là không tức giận, đó là cái mạnh của người quân tử. Hiển nhiên cái mạnh của người quân tử biểu hiện ở sự trấn tĩnh, ở định lực. Tô Đông Pha nói, đó là vì “chí hướng càng lớn, mục đích càng xa”. Cũng tức là, vì lý tưởng cao cả có thể tạm thời chịu nhục, không tính tới sự được mất trước mắt. Vì vậy “địch tiến ta lui” không phải là nhu nhược, “đánh được thì đánh, không đánh được thì rút” cũng không phải là khiếp sợ. Đương nhiên, một mực ham đánh, vì sĩ diện quên mất lí tưởng cao cả, cũng không phải là dũng cảm, Lưu Bang bị mũi tên của Hạng Vũ bắn trúng ngực, eo lưng cong xuống, nhân đó cúi xuống sờ vào mấy ngón chân của mình, lên tiếng mắng luôn: Thằng nhãi thối tha, bắn phải chân ta rồi, sau đó quay đầu chạy thẳng. Phải là người mưu trí, có thêm giảo hoạt mới làm được như vậy. Không thể nói là nhát gan hoặc lúng túng.

Cái mạnh của thất phu là cái mạnh của một người, cái mạnh của tướng soái là cái mạnh của vạn người. Trên chiến trường không thể không có sức mạnh, “hai quân giao tranh, quân mạnh sẽ thắng”. Nhưng sức mạnh nói ở đây là sức mạnh của toàn quân, không phải sức mạnh của cá nhân. Đương nhiên trong một lúc nào đó, tướng lĩnh lên trước ba quân sẽ có tác dụng cổ vũ sĩ khí, trong thời đại binh khí lạnh lại càng như vậy. Nhưng Hạng Vũ xông vào hiểm trận lại không phải để cổ vũ sĩ khí mà hoàn toàn vì sự say mê cá nhân. Kết quả, do Hạng Vũ sống theo chủ nghĩa anh hùng cá nhân, binh sĩ và các tướng sĩ khác thấy có mình cũng như không, làm gì còn sức mạnh và trí tuệ của tập thể? Tư Mã Thiên phê bình Hạng Vũ “dùng trí riêng” (chỉ dựa vào cá nhân), “đánh bằng lực” (chỉ dùng bạo lực), hai điều này nói rõ được điểm mấu chốt.

Nói về “lòng nhân của đàn bà”.

Lòng nhân của đàn bà và sức mạnh của thất phu dường như có mâu thuẫn? Thực ra con người Hạng Vũ vốn luôn mâu thuẫn. Tính cách Hạng Vũ có mặt dũng cảm, có mặt nhu nhược; có mặt tàn nhẫn, có mặt ôn hòa. Hạng Vũ tự xưng là Tây Sở bá vương, sự thực là rất dã man và bá đạo. Hạng Vũ thật bạo ngược, cậy mạnh cậy khỏe, giết người không run tay. Ân Thông quận thú Cối Kê không hề có thù oán gì với Hạng Vũ, hai bên còn có ý hợp nhau phản Tần, nhưng nói giết là giết. Tống Nghĩa hay nói trời nói bể kỳ thực là một người chậm hiểu, tuy có chút sai sót nhỏ với Hạng Vũ, cũng nói giết là giết(1). Hoài Vương là Nghĩa đế vô tích sự, Hạng Vũ chỉ đông, y không dám chỉ tây, Hạng Vũ chỉ nam, y không dám chỉ bắc, muốn dọn nhà phải dọn nhà, muốn nhường đất phải nhường đất, không cản đường Hạng Vũ, nhưng vẫn bị Hạng Vũ sai người mưu sát. Thê thảm nhất, là, hai mươi vạn quân đầu hàng của triều Tần, Hạng Vũ chỉ trong một đêm đã tập kích chôn hết. Ôi, hai mươi vạn người! Hạng Vũ không nói lời nào, không hề chớp mắt, sai người giết sạch.

(1) Tống Nghĩa: Lệnh doãn nước Sở cũ, thích bàn chuyện binh. Nghĩa từng dự đoán Hạng Lương thất bại, bất hạnh; điều đó chứng tỏ Tống Nghĩa biết quan sát, không hề chứng minh là Tống Nghĩa biết chỉ huy. Sau khi làm thống soái, Tống Nghĩa có sai lầm về chiến lược, còn tự cho là đúng, còn dán bố cáo nói: “Mạnh như hổ, ác như sói, tham như dê, ai không nghe sẽ bị chém đầu”, kết quả đã bị Hạng Vũ chém.

Nhưng trong Hồng Môn yến, mặt đối mặt với Lưu Bang, Hạng Vũ không xuống tay được.

Vì giữa hai người không thù không oán gì chăng? Ân Thông và Hạng Vũ cũng không thù oán gì. Vì Hạng Vũ nhận ân đức của Lưu Bang? Hạng Vũ giận đến nghiến răng nghiến lợi lúc Lưu Bang vào Hàm Dương trước. Vì không biết thế nào là lợi hại chăng? Phạm Tăng đã chỉ rõ: Lưu Bang “chí chẳng nhỏ” lại có “khí độ của thiên tử”, đó chính là cái họa trong lòng cần phải vứt bỏ. Không có khả năng giết chăng? Với võ công của mình Hạng Vũ bảo người phải chết canh ba thì người có dám sống đến canh năm? Huống hồ Lưu Bang, danh nghĩa là khách mời của Hạng Vũ, nhưng thực chất là tù binh, trong ngoài đều là người của Hạng Vũ. Ngay Phàn Khoái cũng đã nói với Lưu Bang, người ta là con dao cái thớt, chúng ta là con gà con cá. Hay không có cơ hội để xuống tay? Cơ hội có nhiều như trước lúc Phàn Khoái vào trướng hộ giá, không thành vấn đề. Như lúc Phạm Tăng đưa mắt ra hiệu, Hạng Vũ vẫn không có phản ứng, cuối cùng thì Lưu Bang như con ngan đã luộc chín lại bay mất. Phạm Tăng tức giận, chửi rủa: “Trẻ con, không đáng để bày mưu”.

Từ lâu Phạm Tăng đã hiểu: “Quân vương đôi lúc không đành lòng”. “Không đành lòng” chính là “lòng nhân của đàn bà”.

Chẳng phải Hạng Vũ là người rất tàn nhẫn sao? Sao lại nói “không đành lòng?”.

Thực ra Hạng Vũ bề ngoài rất cứng rắn nhưng trong lòng lại rất yếu đuối. Hạng Vũ là người thích sĩ diện. Người thích sĩ diện thì nội tâm đều rất yếu đuối. Duy chỉ có người yếu đuối thì mới thích sĩ diện. Hạng Vũ vì không muốn có bất kỳ một thương tổn nào, nên mới liều mạng giữ cho được sĩ diện của mình. Luôn luôn nghĩ đến sĩ diện, nên Hạng Vũ mới tự vẫn ở Ô Giang: “Dẫu cho các phụ lão Giang Đông có thương mà phong vương cho ta, thì ta còn mặt mũi nào nhìn thấy họ” và đã lưu lại một câu danh ngôn về sĩ diện: “Còn mặt mũi nào nhìn phụ lão Giang Đông”. Vì sao không còn mặt mũi nào? Ngoài những ý nghĩ khác, còn vì muốn được sự thương xót. Đối với một người suốt đời chỉ muốn mạnh như Hạng Vũ thì thương xót là thương hại. Vì vậy Hạng Vũ mới nguyện chết. Tự giết mình thì sĩ diện mới còn, lòng dạ được thanh thản.

Tính cách, nội tâm Hạng Vũ luôn có mâu thuẫn và xung đột. Nói trắng ra, Hạng Vũ là một nhà nghệ thuật hành vi bất hạnh, như một đứa trẻ bị đẩy ra chiến trường, nơi chém giết. Hạng Vũ không nghĩ nhiều về giết người, nhưng lại không thể không giết người, không nghĩ nhiều về đánh trận nhưng lại không thể không đánh trận. Hạng Vũ còn có cách lựa chọn nào khác? Hạng Vũ không có cuộc sống khác, chẳng còn cách nào có thể thể hiện được giá trị sinh tồn, hoàn thành hành vi nghệ thuật của mình chỉ còn biết thông qua việc giết người mở đầu hành trình cuộc sống, chỉ biết thông qua chiến tranh để hoàn thành cuộc sống. Vì vậy, Hạng Vũ vừa thích giết người, vừa thích đánh trận. Nhưng đằng sau sự dũng cảm là nhu nhược, đằng sau sự tàn nhẫn là tình thương. Hạng Vũ giết người như ngóe, nhưng trong thâm tâm lại có chút khiếp sợ. Hạng Vũ đánh trận nào cũng thắng, nhưng trong tận đáy lòng lại có phần cảm giác thất bại. Chính vì nội tâm khiếp sợ, nên mới liên tục giết người. Chính vì sợ thất bại, nên mới gắng sức để thắng lợi. Chỉ có những dòng máu tươi không ngừng chảy mới rửa sạch được nỗi nhục nhã sinh ra từ sự yếu đuối, và cũng chỉ có thắng lợi liên tiếp thắng lợi mới an ủi được tâm trạng đau khổ bất an.

Vì vậy chúng ta mới thấy Hạng Vũ đã không còn giữ được bình tĩnh như lúc khiêu chiến với Lưu Bang. Không cần đưa nhiều người ra chiến trường, hai chúng ta đấu với nhau là xong! Điều đó, chứng tỏ Hạng Vũ đã quá mệt mỏi, mong chiến tranh sớm kết thúc, và cũng chứng tỏ, Hạng Vũ rất sợ thất bại, mong lần này lại chiến thắng với phương thức tiện nhất và đảm bảo nhất. Vì vậy khi nghe tiếng hát bài ca nước Sở vang lên khắp nơi, Hạng Vũ đã không điều tra, không nghiên cứu, cũng không nghĩ xem có phải là mưu kế của kẻ thù, mà nghĩ ngay rằng mình đã thất bại. Bởi vì từ nơi sâu thẳm trong tâm lý Hạng Vũ đã sẵn có “mầm của thất bại”. Thậm chí, tôi còn tin rằng trong lòng Hạng Vũ đang vang lên một giọng nói: “Ngày này đã đến! Cuối cùng đã kết thúc tất cả!”.

Trong lúc Hạng Vũ “thở phào” vì cuối cùng đã thất bại thì tự đáy lòng Hạng Vũ, sự ủy mị đằng sau sự tàn nhẫn đã trỗi dậy. Thắng thua thành bại, sống hay chết liệu còn ý nghĩa gì? Cái duy nhất còn nhớ tới bây giờ là con tuấn mã và người đẹp. Đây cũng là mối chung tình duy nhất, là nơi “trong sạch” nhất của Hạng Vũ, sau cả đời chinh chiến, giết chóc. “Chuy không đi chừ, biết làm sao! Nàng Ngu hỡi, biết là làm sao?”. Thực thắm thiết, ấm áp biết bao, thực dịu dàng, tình cảm biết bao! Chẳng trách đã phải “hàng hàng lệ rơi”. Nghe nói con người Hạng Vũ cũng hay rơi lệ. Hàn Tín nói, ông đã thấy lệ mỗi khi tướng sĩ bị thương, ốm đau, Hạng Vũ đều rơi lệ, tự tay bưng cơm bưng cháo đến cho. Nhưng lần này là khóc cho mình.

Những tình cảm chân thực, thế giới nội tâm của nam nhi khí phách đều trong những dòng nước mắt này!

Ở Hạng Vũ còn có chút tình cảm nữ nhi thường tình, đó chính là một tố chất của nhà nghệ thuật. Thậm chí Hạng Vũ còn giống các bà các cô, Hàn Tín cho hay, Hạng Vũ nói năng tỉ mẩn, dây cà ra dây muống. Chẳng khó khăn gì, chúng ta đã tưởng tượng ra hình tượng Hạng Vũ trước quân doanh: Bưng mâm cơm, rơi nước mắt, cầm tay thương binh, bệnh binh hàn huyên hết chuyện nhà đến chuyện cửa. Nếu không phải Hàn Tín tự mắt nhìn thấy, tự miệng nói ra thì không thể tin nam tử bạt núi lấp sông, anh hùng cái thế này lại có những tình cảm dịu dàng, ấm áp đến như vậy.

“Lòng nhân” của Hạng Vũ đã được công nhận từ cả hai phía. Hàn Tín nói Hạng Vũ “biết cung kính yêu thương”; Trần Bình nói Hạng Vũ “cung kính thương người”; Cao Khởi, Vương Lăng đều nói Hạng Vũ “có nhân có thương”. Đối với Lưu Bang, quan điểm của họ gần như nhất trí là: Ngạo mạn, vô lễ, còn thích làm nhục người khác. Một số người đã nhận xét như vậy ngay trước mặt Lưu Bang. Lưu Bang thích mắng người, mắng Tiêu Hà, mắng Hàn Tín, mắng tất cả lũ thuộc hạ. Vui cũng mắng, buồn cũng mắng. Ngay cả khi phong quan tước cho người khác cũng kèm một câu “mẹ kiếp” thể hiện bộ mặt của lưu manh, thổ phỉ, lục lâm thảo khấu. Lưu Bang không hiểu các loại nghi lễ khi tiếp khách, nhận lễ vật, trị quốc an dân, thậm chí không hiểu lễ nghĩa là gì. Lưu Bang ghét cay ghét đắng loại nho sinh, mở miệng rao giảng lễ nghĩa; mỗi khi nhìn thấy chiếc mũ trên đầu họ, là chỉ muốn kéo xuống làm bô. Nho sinh Lịch Tự Cơ đến thăm, Lưu Bang vẫn chễm chệ ở trên giường, hai cô gái hầu rửa chân. Lịch Tự Cơ nghiêm nghị nói: Túc hạ đang muốn diệt Tần bạo ngược vô đạo, thì không nên ngạo mạn, vô lễ khi thấy lão già này. Lưu Bang vội vàng đứng lên, chỉnh trang áo mũ, nói lời xin lỗi và mời Lịch Tự Cơ ngồi. Tiêu Hà tiến cử Hàn Tín với Lưu Bang, nói lý nói lẽ một hồi, Lưu Bang phẩy tay nói: được rồi để hắn làm tướng quân. Tiêu Hà nói, tướng quân thì Hàn Tín sẽ bỏ đi. Lưu Bang bèn nói: Làm đại tướng quân vậy, gọi hắn vào đây! Tiêu Hà nói: ngài vẫn luôn ngạo mạn, vô lễ như vậy. Một khi phong là đại tướng quân, sao lại như bảo ban một đứa trẻ vậy? Chẳng trách Hàn Tín lại muốn bỏ đi. Lúc này Lưu Bang mới đồng ý chọn ngày lành, trai giới, lập đàn làm lễ. Lưu Bang vô lễ, Hạng Vũ ôn hòa trọng lễ, hai tính cách đối ngược nhau.

Cũng không có gì là lạ. Hạng Vũ là quý tộc, mà lễ nghĩa là điều không thể không rèn luyện trong giới quý tộc. Hạng Vũ hiểu rõ phải dùng lễ đối đãi người và làm theo lễ nghi. Lưu Bang là lưu manh, đâu có được dạy dỗ như vậy. Sau khi là công, là vương, Lưu Bang đã biến đổi nhiều, nhưng đôi khi do không để ý lại để lộ chân tướng. Sau khi xây dựng xong cung Vị Ương, hoàng đế Lưu Bang mở tiệc khoản đãi quần thần. Lúc rượu đã say, Lưu Bang đã nói với ông Lưu, bây giờ đã là Thái thượng hoàng: Cha à, lúc trước ông vẫn nói tôi lười biếng, không bằng anh hai, bây giờ ông xem, của cải tôi và anh hai ai nhiều hơn ai?”. Thế mà quần thần trên điện đều hưởng ứng, hô vang vạn tuế, nói cười thoải mái, chẳng ra thể thống gì!