Luận Anh Hùng - Phần I - Chương 02 - phần 2

Nhưng vì sao Hạng Vũ là quý tộc luôn cung kính thương người, lại không được lòng người như Lưu Bang - vốn là loại lưu manh ngạo mạn hay mắng người?

Bọn Hàn Tín đã giải đáp câu hỏi này. Lúc Cao Khởi, Vương Lăng tổng kết về thành bại, được mất của Lưu, Hạng đã nói với Lưu Bang, bệ hạ thường ngạo mạn và khinh người, Hạng Vũ có lòng nhân và thương người, nhưng bệ hạ cử người đi phá thành chiếm đất, chiếm xong thì ban thưởng cho họ, như vậy mọi người đều được lợi. Hạng Vũ thì sao? Thắng lợi thì không tính đến công lao của mọi người, không ai được hưởng lộc, đương nhiên là mất thiên hạ. Hàn Tín nói rất rõ: Hạng Vũ đối nhân không tồi, luôn hỏi han quan tâm. Nhưng khi một người có công nên ban tước phong đất, đằng này ấn tín cứ nắm trong tay, suốt ngày sờ mó vuốt ve, không muốn ban cho người khác, đó là lòng nhân của đàn bà. Đúng vậy, so với ban tước phong đất, thăng quan phát tài thì ân cần thăm hỏi, bưng cơm bê cháo có nghĩa lý gì? So với việc Lưu Bang ban tiền nhiều, thưởng đất rộng, phong nhiều quan thì Hạng Vũ chỉ như trẻ con.

Tính khí trẻ con của Hạng Vũ có lúc khiến người ta khó hiểu. Chiếm Hàm Dương, không lên làm hoàng đế, không ở trong cung điện, Hạng Vũ cho quân đốt phá cướp bóc, bao nhiêu vàng bạc châu báu, đàn bà con gái xinh đẹp, cho hết lên xe chạy về Bành Thành (nay là Từ Châu, Giang Tô), lên làm Tây Sở Bá Vương. Đúng như suy nghĩ của A.Q, chỉ lo khênh được chiếc giường kiểu mới của vợ tú tài về bên chùa Thổ Cốc, không nghĩ rằng có thể ngủ ngay trong nhà tú tài. Có người khuyên Hạng Vũ, Quan Trung địa thế hiểm trở, đất đai mầu mỡ, dựng đô nơi đây, nghiệp bá sẽ thành. Hạng Vũ lại nói, phú quý mà không quay về thì khác gì áo gấm đi đêm. Ai có thể ngắm được? Rõ tính khí trẻ con! Người đương thời bàn rằng, người Sở giống như lũ vượn đội mũ người(2), quả nhiên là vậy!

(2) Ý nói chẳng mấy chốc vượn sẽ vứt bỏ mũ, trở lại với bản chất của vượn (BTV).

Người nói câu đó, lập tức bị Hạng Vũ cho ném vào vạc dầu, nhưng Hạng Vũ cũng chẳng tiến bộ được, thì câu nói ấy đã trở thành sự thực. Vương Bá Tường cho rằng, áo gấm đi đêm chỉ là câu nói thác của Hạng Vũ. Thực tình Hạng Vũ đã nghĩ, căn cứ địa của quân Sở ở tận Giang Đông, quay về vừa yên tâm, vừa không sợ Hoài Vương. Kỳ thực, Sở vương chỉ là con rối hữu danh vô thực, từ một đứa trẻ chăn dê được Hạng Vũ dựng lên, có gì đáng nói? Đoạt thiên hạ đâu cần phải chọn căn cứ địa? Năm đó, nếu quân Thanh sau khi chiếm được Bắc Kinh cũng quay về Phụng Thiên thì làm gì có vương triều Đại Thanh?

Đó chính là lòng dạ hẹp hòi. Hẹp hòi nên Hạng Vũ đã mưu sát Hoài Vương, từ đó mà mất lòng dân. Hẹp hòi nên Hạng Vũ đã nghi ngờ Phạm Tăng, từ đó để mất đi cánh tay phải. Trẻ con nên mọi người xem thường, lòng dạ hẹp hòi nên chẳng ai thương. Những người có chí hướng, có năng lực bên cạnh Hạng Vũ như Trần Bình, Hàn Tín đều lần lượt ra đi, còn lại chỉ là một con tuấn mã, một người đẹp sát cánh không rời Hạng Vũ.

Cô độc, thất bại đều do Hạng Vũ tự chuốc lấy.

Phạm Tăng là người trung thành nhất bên cạnh Hạng Vũ.

Phạm Tăng người Cư Sào (nay là huyện Sào, An Huy). “Nhà nghèo mà kế hay lạ”, là nhân vật kiểu Gia Cát Lượng. Lúc Hạng Lương khởi nghĩa, ông đã bảy mươi tuổi, nhưng vẫn theo quân cùng Hạng Lương, Hạng Vũ nam chinh bắc chiến, xây dựng sự nghiệp. Ông luôn nhìn vấn đề ở một tầm cao hơn, trúng vào điểm mấu chốt. Ông thường nói với Hạng Lương, Trần Thắng thất bại là lẽ đương nhiên. Tần diệt sáu nước, nước Sở vô tội, nên mới có lời sấm truyền: “Sở tuy chỉ còn ba nhà, nhưng diệt Tần tất là Sở”. Trần Thắng cầm đầu nghĩa quân, không lập đời sau của Sở vương lại tự lập, tất sẽ không bền. Các hạ đời đời là tướng nước Sở, nếu lập đời sau của Sở để hiệu triệu thì quần chúng sẽ theo ngay. Lời nói rất có lý, Hạng Lương làm theo ngay, rõ ràng rất hiệu quả. Sau khi Lưu Bang vào Quan Trung trước, Phạm Tăng nói với Hạng Vũ, lúc ở quê Lưu Bang tham tài háo sắc thành tính, lần này vào Quan Trung đã không phạm một sai lầm nào, không tơ hào một cắc, không đụng tới gái, rõ ràng dã tâm không nhỏ. Lời nói tuy đơn giản nhưng thấy ngay được tầm suy nghĩ. Từ đó Hạng Vũ rất tôn trọng Phạm Tăng, tôn ông là “á phụ” (chỉ dưới cha mình) gọi ông là “á thúc”, giống như Tề Hoàn công gọi Quản Trọng là “Trọng phụ”, Lưu A Đẩu gọi Gia Cát Lượng là “Tổ phụ”, Trần Bình cũng coi Phạm Tăng là số một trong mấy vị “thần cốt cán” của Hạng Vũ.

Nhưng vị á phụ đã bị Lưu Bang dễ dàng ly gián. Kế sách rất đơn giản: Sứ giả của Hạng Vũ đến chỗ Lưu Bang, Lưu Bang mở tiệc linh đình để khoản đãi. Khi sắp vào tiệc lại vờ như bàng hoàng lo lắng: Ngỡ là sứ giả của á phụ, đâu ngờ của Hạng vương. Thế rồi bày tiệc với những món ăn chẳng ra gì để đuổi khách, đúng là “trẻ con” hết mức, nhưng Hạng Vũ đã trúng kế, bắt đầu nghi ngờ và cho theo dõi Phạm Tăng. Phạm Tăng rất thông minh đã nói với Hạng Vũ: “Thiên hạ đã định, quân vương hãy tự lo liệu!”, rồi phẩy tay ra đi và đã chết trên đường về nhà.

Chút âm mưu quỷ kế của Lưu Bang, Trần Bình đã có tác dụng và chẳng bao lâu mọi người đã nhận ra và tất cả đều do tính ích kỷ hẹp hòi của Hạng Vũ.

Đường đường là quý tộc mà tính khí như trẻ con, một nam tử hán thân cao tám thước mà lòng dạ hẹp hòi, nhìn bề ngoài thực khó hiểu, nhưng xét kỹ thì cũng có lý. Thực ra, quý tộc rất dễ biến thành kẻ hẹp hòi (cho dù không nhất định). Bởi quý tộc nhờ vào cao quý, mà người cao quý lại là thiểu số. Như vậy cái khuôn của quý tộc rất nhỏ. Một người nếu từ bé cứ phải sống trong cái khuôn nhỏ bé đó thì tâm hồn khó lòng được rộng mở. Cho dù sau này có được sống trong khoảng trời bao la thì do cao quý và cao ngạo bẩm sinh, họ cũng khó lòng hòa hợp với mọi người. Hạng Vũ chẳng có cách gì xóa bỏ được cảm giác cao quý trong lòng mình, thường vô ý bộc lộ ra, thêm nữa, được sống trong cảnh giàu sang, nên không thấu hiểu được nỗi khốn khó của mọi người. Hạng Vũ dù có thực lòng quan tâm tới người khác, vẫn cho họ một cảm giác như vờ vĩnh, vì cái mà họ cần lại không được nhắc tới. Anh em tướng sĩ vào sinh ra tử, chiến đấu quên mình là vì cái gì? Há chẳng phải vì “phong thê ấm tử(3)” rạng rỡ tổ tông! Cái đáng phong thì Hạng Vũ không phong, cái đáng thưởng thì Hạng Vũ không thưởng, chỉ có mấy giọt nước mắt, chỉ có mấy việc bưng cơm bê nước thì đáng kể gì?

(3) Phong thê ấm tử: Vợ được phong tước, con được tập ấm, tức vinh hoa phú quý (BTV).

Quý tộc còn một nhược điểm nữa là thanh cao. “Thanh” thì dễ bẩn, “cao” thì dễ gãy, vì vậy thế giới nội tâm của họ luôn luôn yếu đuối, dễ dàng biến thành hẹp hòi. Bản thân họ tự cho là trong sạch hoàn hảo, nên họ luôn đòi hỏi người khác phải đầy đủ chu toàn. Nếu như người đó là ẩn sĩ thì chẳng sao, nhưng là một thống soái thì khó tránh nghi thần nghi quỷ. Kết quả là cái khuôn kia ngày một nhỏ lại. Trần Bình từng nói, những người bên cạnh Hạng Vũ phải luôn trong sạch hoàn hảo, chú trọng cốt cách, giữ gìn tiết tháo, nho nhã thanh lịch, còn cạnh Lưu Bang toàn những kẻ tham tài háo sắc, trộm chó cướp gà. Nhưng người loại nào nhiều, loại người nào ít, loại người nào thì được việc, loại người nào chẳng làm được gì, chẳng phải đã rõ ràng sao?

Trên thực tế, do cao quý nên ở quý tộc sản sinh ra hai loại tính cách, hai loại tâm lý. Một loại rất khoan dung, một loại rất hẹp hòi. Người khoan dung lập luận thế này: Ta đã cao quý nhất thì không nên bài xích bất cứ thứ gì. Giống như biển cả mênh mông, mênh mông vì bao dung tất cả. Kẻ hẹp hòi lại nghĩ khác: Chỉ mình là cao quý, những kẻ khác chẳng là gì. Như ngọn núi tuyết cao ngất kia, chẳng chứa thêm được gì. Kẻ quý tộc hẹp hòi, một khi vào đời sẽ không có nơi thích hợp; một khi sa sút lại được giàu sang quyền thế, thì tính khí chẳng khác gì trẻ con. Y sẽ coi mọi thứ có được là do năng lực phi phàm, khí chất cao quý của mình, không thừa nhận công sức của người khác. Y coi mọi thứ là của riêng, không để mọi người cùng hưởng. Y luôn coi người khác chẳng là gì cả. Với tâm lý đó, y tự cho mình là cao quý, người khác lại thấy y tầm thường. Hạng Vũ chính là loại người như vậy.

Cũng như vậy, do ti tiện con người trở thành lưu manh, lưu manh cũng chia ra hai loại. Một loại là tầm thường ti tiện, một loại là hào phóng rộng rãi. Loại trước chẳng lấy gì làm may mắn, suốt đời làm tay sai, ăn cắp vặt, không thể mở mày mở mặt. Loại sau có nhiều vận may, thường gây dựng thành đại nghiệp. Thứ nhất, họ chẳng có gì ngoài chiếc gậy và tờ giấy trắng, chẳng nghĩ ra được gì, đôi lúc lại muốn làm chuyện lớn, như “làm hoàng đế” chẳng hạn. Có ước muốn lại có thời cơ, đúng là “mong ước thành sự thật”. Thứ hai, họ vốn chẳng có gì, nếu có, thì phần lớn là của bất nghĩa hoặc là nhặt được, không phải là do lao động mà có, chẳng hề xót thương, dám “phân phát cả ngàn vàng”. Thứ ba, bản thân họ chẳng mấy trong sạch, làm gì còn chuyện đi bới móc thói hư tật xấu của người khác. Tự nhiên, họ sẽ biết bỏ qua cho người khác. Hơn nữa, họ là người cùng cực nhất, họ hiểu rõ nhân tình thế thái và nỗi khổ của con người, người ta sợ gì và muốn gì. Họ có nhiều cách để thu phục lòng người. Đã biết cách dùng người hiểu người, lại là người hào phóng rộng rãi, thì chẳng lo không mua được chó săn, không lo không có người yêu mến, phò trợ. Một khi thiên hạ đại loạn, khói lửa ngút trời, nhân đó mà ra tay dẹp loạn đoạt quyền. Lưu Bang chính là loại người đó.

Thắng lợi cuối cùng của Lưu Bang không phải là không có lý.

Xưa có câu “Được lòng người thì được thiên hạ, mất lòng người thì mất thiên hạ”. Việc được, mất của Lưu, Hạng đúng là phải xem xét từ chuyện “được lòng người”.

Vậy hai người họ đã đối xử với người khác như thế nào?

Vậy thì hai người đó đối đãi người khác như thế nào?

Đại thể là, Hạng Vũ quan tâm người, Lưu Bang tín nhiệm người.

Quan tâm hoặc tín nhiệm vốn đều có thể thu phục được lòng người. Nhưng vấn đề là, Hạng Vũ quan tâm người, nhưng quan tâm không đúng chỗ. Lưu Bang tín nhiệm người và tín nhiệm đến cực điểm. Như phần trên đã nói, Trần Bình vốn là người bị ngờ là “tư thông với chị dâu, chiếm đoạt tiền vàng, phản phúc vô thường”. Chí ít, Trần Bình từng nhận hối lộ là sự thật. Nhưng chỉ sau một lần trò chuyện, Lưu Bang đã hết sức tín nhiệm Trần Bình. Lưu Bang hỏi Trần Bình: Thoạt đầu tiên sinh ở Ngụy, sau lại sang Sở, bây giờ thì đến với quả nhân, chẳng nhẽ một người trung thực thành tâm lại luôn đổi ý như vậy sao? Trần Bình đáp lời: Đúng vậy, trước sau tôi đã phụng sự Ngụy vương rồi Hạng vương. Nhưng vì Ngụy vương không biết dùng người nên đành phải sang với Hạng vương. Hạng vương không thể tín nhiệm người, tôi lại đành phải chạy đến với đại vương. Tôi ra khỏi đó với hai bàn tay trắng, không nhận sự giúp đỡ của người khác thì sống sao nổi? Nếu đại vương dùng được mưu kế của tôi thì xin nhận cho, bằng không, tôi xin được “thôi việc”. Số tiền người ta cho, tôi chưa đụng tới, xin trao hết cho ngài. Nghe xong, Lưu Bang đứng lên, có lời xin lỗi, còn trao chức quan lớn cho Trần Bình. Về sau, Trần Bình bàn với Lưu Bang dùng kế phản gián bên quân Hạng Vũ bằng cách bắn đạn bằng bạc, lập tức Lưu Bang đã cho xuất bốn vạn cân hoàng kim (đồng) để Trần Bình tùy ý sử dụng, không cần phải báo lại. Kết quả, Trần Bình vừa dùng kế nhỏ, quả nhiên khiến Hạng Vũ sinh nghi, không còn tín nhiệm những viên quan tâm phúc như Phạm Tăng, Chung Ly Muội...

Không chỉ dùng người thì không nghi mà còn phải rộng rãi thoải mái, hoàn toàn tương phản với thái độ hẹp hòi của Hạng Vũ. Đối với người khác Lưu Bang thực rộng rãi. Lưu Bang đã học được tính rộng rãi từ người mẹ mỗi khi phải trả gấp bội số tiền nợ rượu của Lưu Bang, nhưng quan trọng hơn là “ý chí không nhỏ” của mình. Lưu Bang muốn giành lấy cả thiên hạ, đương nhiên không thể tính toán tới sự được mất của thành trì nào đó, càng không thể chi li với món tiền nhỏ đó. Vì “mục tiêu lớn lao”, Lưu Bang có thể nhẫn nhịn, ví dụ kìm nén dục vọng của mình. Năm 206 TCN, Lưu Bang từ Vũ Quan vào Tần, vào thành Hàm Dương. Trước mặt là “cung thất, màn trướng, chó ngựa, của cải, hàng ngàn cô gái”, Lưu Bang không phải không động lòng. Lưu Bang không hề để ý tới lời khuyên ra khỏi cung của Phàn Khoái. Cũng thật dễ hiểu, làm gì có chuyện một anh nhà quê từ một nơi hẻo lánh tới, đứng trước bao nhiêu của quý kỳ lạ như hoa như ngọc, vàng xanh rực rỡ mà lại không hoa mắt ù tai, thần kinh hoảng loạn? Chỉ e từ trong cuống họng cũng giơ tay ra. Nhưng sau khi nghe những lời nghịch tai mà chân thành của Trương Lương, Lưu Bang ra khỏi cung Tần, đưa quân về Bá Thượng, kiên quyết làm mọi việc để giữ lòng dân, ngay cả rượu thịt, bò dê, người Tần dâng lên úy lạo quân sĩ, Lưu Bang cũng không nhận, còn nói quân sĩ đã có quân lương, không nỡ phung phí của dân, khiến người Tần không nén nổi mừng vui, chỉ sợ Lưu Bang không thể là Tần vương. Lưu Bang chơi nước cờ rất cao tay, sánh với lúc Hạng Vũ vào Hàm Dương đã cho quân sĩ cướp bóc giết người, đốt trụi thành trì trong suốt ba tháng, rõ ràng Lưu Bang càng được lòng dân.

Lưu Bang kìm nén dục vọng, kìm nén cả tình cảm. Năm 203 TCN, Hàn Tín hạ xong hơn bảy mươi thành của nước Tề, có vùng đất rộng lớn như vậy, đô thành đều là địa bàn của Hàn Tín. Có một vốn liếng lớn như vậy, Hàn Tín muốn mặc cả với Lưu Bang. Hàn Tín cho người cầm thư tới chỗ Lưu Bang, nói người Tề hay mưu mẹo biến đổi, Tề là nước luôn luôn phản phúc, phía nam lại liền với nước Sở. Nếu không lập ngay một ông vua giả để trấn giữ thì e tình thế sẽ không yên. Lúc này Lưu Bang đang bị quân lính Hạng Vũ vây khốn ở Huỳnh Dương, Thái công và Lã thị đang trong tay Hạng Vũ, tức giận đầy bụng không biết xả đi đâu. Lưu Bang vừa thấy sứ giả mang thư đến, lửa giận lại bùng lên thành lời: Đồ khốn! Lão bị khốn ở đây, ngày ngày chờ người đến cứu, nay ngươi lại muốn làm Tề vương giả! Lưu Bang lớn tiếng mắng tiếp, Trương Lương và Trần Bình biết lúc này không nên đắc tội với Hàn Tín, liền đạp vào chân Lưu Bang làm ám hiệu Lưu Bang lại mắng: Rõ là một lũ chẳng ra gì! Nam tử hán đại trượng phu, lấy công dựng nghiệp, bình định chư hầu, vua thật phải như vậy, vì sao lại phải làm vua giả! Đó chính là công phu tùy cơ ứng biến, về điểm này Hạng Vũ không làm được. Hạng Vũ cũng không biết kìm nén bản thân. Nếu việc này rơi vào tay Hạng Vũ, chắc Hạng Vũ chẳng nói nửa lời, cho chém người luôn, hơn nữa còn tự tay đi giết Hàn Tín.

Đây không phải là vấn đề tính cách. Chẳng ai có sẵn tính “nhẫn”, do bức bách mà phải “nhẫn”. Có hai loại nhẫn. Một loại là không thể không nuốt giận vào trong khi đứng trước cường quyền bạo ngược, nói đó là nhẫn nại, chẳng thà nói đó là không biết làm sao. Đánh thì không đánh được, liều mạng thì không đủ sức, không nhẫn thì biết làm gì? Như vậy không thể coi là nhẫn. Nhẫn đúng nghĩa là muốn làm việc gì đó và có khả năng làm được nhưng nhẫn nhịn không làm. Như muốn chiếm của cải, cung nữ trong cung Tần và có thể chiếm được, nhưng đã tự động bỏ đi, làm được như vậy không phải dễ. Rõ ràng đây mới là nhẫn thực sự. Tức là, bản thân chiến thắng bản thân, tự mình xuống tay với chính mình. Phía trên chữ nhẫn là chữ đao, là cầm dao rạch vào tim mình! Một người có thể xuống tay với chính mình, chắc chắn không run tay khi đối phó với người khác. Vì vậy, người biết nhẫn nhịn là người có trái tim sắt. Lưu Bang có trái tim sắt. Một lần quân Sở truy kích Lưu Bang, để có thể thoát thân, Lưu Bang đã đẩy con trai, con gái của mình xuống xe. Người phu xe là Hạ Hầu Anh ba lần ôm chúng lên xe và lại ba lần Lưu Bang đẩy chúng xuống. Hạ Hầu Anh không chịu nổi, nói: Việc tuy gấp, nhưng vẫn có thể cho xe chạy nhanh hơn mà? Sao có thể bỏ mặc chúng? Lúc này Lưu Bang mới trốn chạy cùng với hai con. Người xưa nói, hổ dữ không ăn thịt con, hẳn phải là người quá độc ác, tàn nhẫn mới dám vứt bỏ con ruột của mình.

Vì vậy, lúc Phạm Tăng phát hiện thấy một kẻ ham tài hiếu sắc như Lưu Bang, khi vào Hàm Dương không tơ hào một thứ gì, Phạm Tăng mới hiểu đây là kẻ thù cực kỳ hung hãn tàn nhẫn, nếu không sớm trừ đi, tất sẽ mang họa nuôi hổ dữ. Đáng tiếc, lúc đó có nhiều người không nhìn ra điểm này, kể cả Hạng Vũ lẫn Hàn Tín.