Cuộc Chiến Tranh Bắt Buộc - Phần II - Chương 5

Kết thúc chiến dịch C81, sư đoàn bộ binh 309 đã tiêu diệt 255 tên địch, thu 190 súng các loại (trong đó có một khẩu pháo phòng không 37 mm), 6 xe ô tô vận tải, trên 100 xe đạp thồ và nhiều phương tiện chiến tranh khác; triệt phá hoàn toàn hai căn cứ của sư đoàn bộ binh 320 địch từ Phnôm Mê Lai xuống đến Ô-đa với chiều dài trên tuyến biên giới từ 60 - 80 km, tạm thời triệt được nguồn tiếp tế, cắt được trục hành lang thâm nhập nội địa của địch ở phía tây tỉnh Bát Tam Băng.

Tiền phương Bộ Quốc phòng và Bộ tư lệnh Mặt trận 479 đánh giá sư đoàn bộ binh 309 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Sư đoàn được tặng thưởng huân chương quân công hạng nhì và 4 huân chương quân công hạng ba cho các đơn vị: trung đoàn bộ binh 31 và 96, tiểu đoàn bộ binh 9 thuộc trung đoàn bộ binh 31, tiểu đoàn cán bộ 25 của sư đoàn; và 35 huân chương chiến công cho tập thể và cá nhân trong sư đoàn, vì đã lập được thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu.

Chiến dịch C81 kết thúc thắng lợi có ý nghĩa lớn lao, đã có tác dụng trực tiếp với phong trào cách mạng Campuchia trong nội địa tỉnh Bát Tam Băng. Ta đã huy động được hàng vạn dân tham gia phục vụ chiến dịch; qua đó cho thấy khả năng tổ chức, điều hành của chính quyền các cấp của Bạn được nâng cao thêm một bước đáng kể.

Ngày 19-2-1982, tại trận địa pháo 130 mm (nằm về phía tây bắc, cách biên giới với Thái Lan khoảng 10 km), đoàn cán bộ của Bành trướng 719 và Bộ tư lệnh Mặt trận 479, do thượng tướng Lê Đức Anh, tư lệnh Mặt trận 719 và thiếu tướng Lê Thanh, tư lệnh Mặt trận 479, đáp máy bay xuống kiểm tra tình hình tác chiến của sư đoàn bộ binh 309. Các đồng chí tư lệnh đã tỏ ý hài lòng với những kết quả mà sư đoàn bộ binh 309 đã đạt được trong quá trình tiến công tiêu diệt địch và làm chủ được các căn cứ. Đồng thời tư lệnh Mặt trận 719 cũng đã gợi ý Bộ tư lệnh Mặt trận 479 có hình thức khen thưởng xứng đáng đối với sư đoàn. Cuối cùng đồng chí chỉ thị cho chúng tôi về nhiệm vụ trong mùa mưa tới. Với những người trực tiếp thi hành nhiệm vụ trên chiến trường, chúng tôi đã đề nghị đồng chí tư lệnh một số vấn đề cần nghiên cứu:

1. Để bảo vệ các mục tiêu vừa đánh chiếm trên tuyến biên giới, triển khai lực lượng nhằm “khóa chặt biên giới”, không cho địch thâm nhập, vận chuyển vào nội địa thì cần phải có lực lượng bảo đảm hành lang phía sau của ta. Nếu không các lực lượng phía trước của ta dễ bị địch cô lập.

2. Vấn đề bung lực lượng ra để thực hiện việc ngăn chặn địch thâm nhập, sẽ dấn tới việc dàn mỏng đội hình trong suốt những tháng mùa mưa thì rất khó khăn, lực lượng ta dễ bị tiêu hao.

3. Nếu thực hiện các ý định trên thì trong phạm vi 40 - 60 km từ Phnôm Mê Lai xuống đến Ô-đa - Com Riêng cần có một lực lượng khoảng 2 sư đoàn bộ binh, vì chính diện đã rộng mà chiều sâu từ căn cứ trong nội địa của ta ra đến biên giới rất xa, nếu tính từ Bà Văn (sông Mông-côn Bô-rây) đến các lực lượng phía trước, phải đến 60 - 80 km.

Cuối mùa khô 1982, thời tiết thật oi bức, nhưng buổi chiều đã có những cơn mưa rào báo hiệu một mùa mưa nữa sắp đến. Khí hậu ở Campuchia nói chung cũng gần giống với khí hậu ở Nam Bộ và vùng Tây Nguyên nước ta. Ở đây có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô. Giữa hai mùa đó là cái tết Chôn-Ch’năm - Thực hiện mây, tết té nước để ăn mừng khi mùa mưa đến. Mùa mưa, vạn vật nơi đây sẽ sinh sôi, nẩy nở; cây cối sẽ đâm chồi nẩy lộc; cá Biển Hồ mang trứng và sinh đẻ. Do đó, ở Campuchia, đến mùa mưa, người ta hạn chế đánh bắt cá ở Biển Hồ… Và mùa mưa, các lực lượng vũ trang của ta và Bạn trên chiến trường cũng hạn chế những đợt hoạt động, tập trung co về trong các căn cứ, chỉ tổ chức những phân đội bung ra đánh hành lang để hạn chế sự xâm nhập của địch từ biên giới vào nội địa.

Để tạo thuận lợi cho các hoạt động mùa mưa, cuối mùa khô 1982, Mặt trận 479 còn tổ chức một hoạt động đệm. Trên hướng của sư đoàn bộ binh 309 ở phía tây tỉnh Bát Tam Băng, trung đoàn bộ binh 250 tổ chức đưa lực lượng ra truy quét địch ở khu vực phía nam Sầm Lốt; trung đoàn bộ binh 96 tiếp tục truy quét địch ở khu vực Ô-đa - Sơ-đa và phía nam Phnôm Mê Lai. Các lực lượng khác như xe tăng, thiết giáp, pháo binh và Sở chỉ huy phía trước của sư đoàn rút về căn cứ trong nội địa. Trung đoàn bộ binh 31 được rút ra làm lực lượng dự bị 2 cấp (sư đoàn và Mặt trận 479).

Trên hướng của trung đoàn bộ binh 250 (khu vực Tà Sanh - Sầm Lốt) đã đưa được lực lượng ra gần sát biên giới. Hướng này, từ đầu chiến dịch C81, trung đoàn bộ binh 250 vẫn hoạt động có tính độc lập. Đồng chí Nguyễn Khánh - phó sư đoàn trưởng - được cử xuống trực tiếp chỉ đạo các hoạt động của trung đoàn. Khi trung đoàn bộ binh 250 tiến ra biên giới thì gặp một căn cứ địch thuộc sư đoàn bộ binh 221 đóng ở phía nam Sầm Lốt và bị chúng ngăn chặn quyết liệt. Trong điều kiện địa hình rừng núi, ta lại nắm địch không chắc, nhưng mọi hành động của ta địch lại nắm rất rõ. Thấy đội hình của ta tiến công ở thế bất lợi (dưới chân của một cao điểm), địch từ sườn núi bắn vào bên sườn của trung đoàn bộ binh 250. Đồng thời chúng cho quân luồn ra phía sau đội hình của ta. Do đó, khoảng 1/3 lực lượng phía trước bị chia cắt. Trung đoàn bộ binh 250 đã tỏ ra lúng túng.

Đồng chí Nguyễn Khánh điện cho tôi: “Hiện nay, trung đoàn bộ binh 250 đã bị địch bao vây, tiến không được mà rút ra cũng không xong. Đề nghị cho trung đoàn bộ binh 31 xuống”. Sau khi tôi nắm lại tình hình, trao đổi với đồng chí Nguyễn Thành Út và cơ quan tham mưu, rồi điện xuống cho trung đoàn bộ binh 250 và đồng chí Khánh như sau: “Hãy cho một lực lượng lên chiếm lĩnh điểm cao ở phía nam, đưa hỏa lực lên đó, rồi bắn mạnh vào đội hình địch; đồng thời phải loại trừ được lực lượng địch đang chia cắt đội hình của ta, nối liền phía trước với phía sau”.

Một lúc lâu, các đồng chí dưới đó vẫn chưa giải quyết được và tiếp tục điện về Sở chỉ huy sư đoàn, xin cho trung đoàn bộ binh 31 tăng viện. Thấy tình hình căng thẳng, một mặt, tôi điện báo cáo tư lệnh Mặt trận 479 xin ý kiến (vì hiện giờ trung đoàn bộ binh 31 cũng là lực lượng dự bị của Mặt trận); đồng thời tôi điện cho đồng chí Khánh (đồng điện cho trung đoàn 250) như sau: “Trung đoàn bộ binh 31 đã trải qua một đợt hoạt động từ đầu chiến dịch, nay đã rút ra củng cố để làm lực lượng dự bị chung cho 2 cấp. Sức chiến đấu đã giảm sút, vả lại, nếu đưa trung đoàn bộ binh 31 xuống đó phải được lệnh của tư lệnh Mặt trận. Trong khi đang chờ ý kiến của trên, các đồng chí động viên bộ đội xử trí tình huống này cho tốt”. Tôi cũng nhắc lại là phải đưa được một lực lượng của ta lên chiếm lĩnh điểm cao phía nam và đưa hỏa lực lên đó. Cuối ngày hôm đó, các đồng chí ở đây cũng đã giải quyết được mọi việc. Sau đó trung đoàn bộ binh 250 cũng rút về căn cứ.

Trước khi bước vào mùa mưa, theo chỉ thị của tư lệnh 719 và Bộ tư lệnh Mặt trận 479, tất cả các lực lượng chung trên tuyến biên giới lùi sâu vào tuyến 2 - tức là tuyến xuất phát - trước khi bước vào chiến dịch C81. Với chủ trương là tập trung các trung đoàn trên từng khu vực, lấy tiểu đoàn, đại đội làm cơ sở để xây dựng các điểm chốt có công sự vững chắc, kết hợp với hệ thống hỏa lực và vật cản; từ đó, tung từng toán ra bên ngoài để tiến hành đánh, cắt hành lang vận chuyển của địch trên tuyến biên giới. Đồng thời, các lực lượng trong nội địa phối hợp liên tục, truy quét địch, hỗ trợ cho phong trào cách mạng của nhân dân.

Từ đây, những khái niệm “điểm tựa”, “cụm điểm tựa”, “khu vực phòng ngự” xem ra được áp dụng lần đầu tiên trên chiến trường Campuchia của quân ra. Đây là một vấn đề mới, có phần phù hợp với quy luật tất yếu sẽ diễn ra trong quá trình chiến tranh.

Nếu dàn mỏng lực lượng ra để thực hiện ý muốn “khóa chặt biên giới” thì với địa hình như phía tây tỉnh Bát Tam Băng và với đối tượng tác chiến phân tán, đánh du kích với ta, thì lực lượng ta dễ bị tiêu hao, dễ bị chia cắt và gặp muôn vàn khó khăn. Do đó, phải bố trí đội hình tập trung trên một phạm vị nhất định (có thể chi viện được cho nhau trong một cự ly tương đối gần) là hoàn toàn hợp lý.

Trong điều kiện mùa mưa, công tác vận chuyển, tiếp tế từ căn cứ hậu cần trong nội địa ra biên giới ở đây quá xa, gần cả trăm cây số. Cho nên đội hình có về tuyến trung gian là phù hợp. Vì thế, cần quán triệt tư tưởng tiến công địch trong chiến đấu: phòng ngự là việc phải đặt lên hàng đầu. Phải giải quyết bằng được mâu thuẫn là giữa dàn mỏng lực lượng để khóa chặt biên giới thì sẽ gặp khó khăn nhiều mặt; nếu co về trong các điểm tựa, cụm điểm tựa thì địch dễ dàng thâm nhập vào nội địa và đưa các lực lượng ép sát, quấy rối và bức rút lực lượng ta. Phải xác định điểm tựa, cụm điểm tựa là nơi xuất phát, tung một bộ phận lực lượng ra bên ngoài, để chiến đấu ngăn chặn địch: là nơi dựa vào công sự, vật cản đánh địch, bảo vệ trận địa và cũng là nơi để các lực lượng phía sau thay nhau nghỉ ngơi, sinh hoạt.

Bước vào mùa mưa năm ấy, đội hình của sư đoàn bộ binh 309 được bố trí như sau:

- Phía trước vẫn là 3 trung đoàn bộ binh gồm: trung đoàn bộ binh 812 ở thị trấn Pailin, xây dựng 3 cụm điểm tựa cấp tiểu đoàn: một ở bắc thị trấn trên trục đường 58 xuống Pailin, một ở phía tây, gần cầu Sập, đối diện với biên giới Campuchia - Thái Lan và một ở đầu đường số 10, phía đông thị trấn Pailin. Sở chỉ huy trung đoàn và các phân đội trực thuộc đóng tại trung tâm thị trấn.

- Trung đoàn bộ binh 96 lùi vào khu vực Nam-sấp, cách biên giới Campuchia - Thái Lan khoảng 15 km, xây dựng các cụm điểm tựa ở dãy cao điểm 230 đông bắc Nam-sấp, một cụm điểm tựa ở Bua, cao điểm 309. Lực lượng còn lại làm nhiệm vụ bảo vệ đường vận chuyển từ Ăm-pin – Prăng-đơm lên Nam-sấp. Sở chỉ huy trung đoàn và các bộ phận trực thuộc bố trí ngay tại Nam-sấp.

- Trung đoàn bộ binh 250 vẫn bố trí như từ đầu tại Tà Sanh - Sầm Lốt, xây dựng một số điểm tựa và bảo vệ đường vận chuyển với sư đoàn bộ binh 196 của Bạn từ đường số 10 xuống Tà Sanh.

- Trung đoàn bộ binh 31 được đưa về khu vực Ba núi làm lực lượng cơ động.

- Trung đoàn pháo binh 487 vẫn về đứng ở xã Tà Hen.

- Sở chỉ huy sư đoàn và các đơn vị trực thuộc vẫn như trước khi bước vào chiến dịch C81, tức là đóng tại khu vực đập nước Pinh Puôi.

Giải quyết tốt công tác bảo đảm

Trong những năm làm nhiệm vụ quốc tế trên chiến trường Campuchia, không thể không nói đến công tác bảo đảm cho một lực lượng lớn quân tình nguyện và chuyên gia chiến đấu, công tác trong điều kiện xa hậu phương. Trong thắng lợi chung trên các chiến trường, cả về quân sự lẫn chính trị thì công tác bảo đảm tất cả các mặt đã đóng góp một phần rất quan trọng vào thắng lợi chung. Với sự nỗ lực của ngành hậu cần - kỹ thuật của các Quân khu phía nam nói riêng, cùng với sự quan tâm sâu sắc của nhân dân các tỉnh phía nam, đã bảo đảm được tương đối đầy đủ theo nhu cầu chiến đấu và các hoạt động khác của ta trên chiến trường, trong điều kiện đất nước ta vừa mới giải phóng.

Ngay từ những ngày đầu của cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, những người ở hậu phương chắt chiu từng hạt gạo; các công - nông trường đã nỗ lực phấn đấu sản xuất để vừa xây dựng lại đất nước sau chiến tranh, vừa cung cấp cơ sở vật chất cho quân đội chúng ta, với khẩu hiệu: “Tất cả hướng về biên giới Tây Nam”. Từng đoàn xe vận chuyển hàng ra phía trước là kết quả của những năm tháng lao động vất vả trên đồng ruộng, trong các nhà máy, xí nghiệp của hàng triệu con người. Đặc biệt là Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, hậu phương vững chắc của Mặt trận 479. Đây không chỉ là nơi cung cấp cơ sở vật chất, kỹ thuật cho các đơn vị thuộc Mặt trận 479, mà còn quan tâm lo lắng cho hậu phương quân đội của những người đang làm nhiệm vụ trên đất Bạn. Hầu hết gia đình của cán bộ chiến sĩ chúng tôi đều đã được ổn định.

Ngoài việc chăm lo cho hậu phương quân đội, Đảng bộ và chính quyền các cấp của thành phố luôn động viên, cổ vũ về mặt tinh thần đối với chúng tôi. Năm 1980, Hội nông dân thành phố - đại diện cho hàng vạn bà con nông dân - đã trực tiếp sang chiến trường xa xôi này để cùng với Bộ tư lệnh sư đoàn tổ chức lễ kết nghĩa giữa sư đoàn bộ binh 309 và Hội nông dân thành phố. Từ đó, hàng năm, bất kể mùa nắng hay mùa mưa, Hội nông dân thành phố Hồ Chí Minh cử các đơn vị đại biểu vượt hàng ngàn km lên tận biên giới phía tây tỉnh Bát Tam Băng để động viên bộ đội cả về tinh thần lẫn vật chất; có khi Hội đưa cả đoàn văn công Trần Hữu Trang đem lời ca tiếng hát sang phục vụ ngay trong những ngày tết cổ truyền của nước ta trên chiến trường. Cùng với Hội nông dân thành phố, công ty cao su Bình Long cũng đã sang động viên, thăm hỏi bộ đội ta không những năm làm nhiệm vụ Quốc tế tại Campuchia mà cả những năm sau, khi quân tình nguyện Việt Nam rút về nước.

Đó là những nguồn cổ vũ, động viên to lớn của hậu phương đối với tiền tuyến nói chung và của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh phía nam nói riêng dành cho quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia. Chúng tôi mãi mãi ghi nhớ và nguyện làm hết sức mình để xứng đáng với lòng tin cậy và yêu thương của đồng bào, đồng chí trong cả nước. Để bảo đảm cho các hoạt động trên chiến trường của bộ đội ta, ngay từ những ngày đầu chuyển sang làm nhiệm vụ Quốc tế, Bộ Quốc phòng và Bộ tư lệnh Quân khu 7 đã tổ chức khu vực hậu cứ của Mặt trận 479 tại thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 23-5-1979, Đoàn 583 (hậu cứ của Mặt trận 479) được thành lập. Bộ Quốc phòng đã dành cho mặt trận một diện tích hàng chục héc-ta tại căn cứ Hoàng Hoa Thám, thuộc quân Tân Bình. Nơi đây đã giải quyết được biết bao công việc. Là một đầu mối cung cấp mọi cơ sở vật chất, kỹ thuật cho Mặt trận, giải quyết mọi chế độ trước mắt và sau này cho bộ đội ta. Và mãi mãi về sau, một bộ phận cán bộ chiến sĩ của Mặt trận 479 đã gắn bó cuộc đời mình, gia đình mình tại nơi đây.

Công tác phục vụ chiến trường được tổ chức chặt chẽ và khá chu đáo. Mọi nguồn tiếp tế được vận chuyển bằng đường không, đường bộ và cả đường thủy với hàng ngàn km mỗi chuyến. Chỉ tính riêng công tác vận chuyển bằng đường bộ trong 10 năm qua, sư đoàn bộ binh 309 đã vận chuyển được 3902 tấn hàng hóa, 2505 ca thương binh với 2.190.318 km đường vận chuyển. Phần lớn từ tuyến trung đoàn ra phía trước, lượng hàng hóa đều nằm trên vai bộ đội.

Song trên đường vận chuyển, không phải lúc nào cũng thuận lợi. Chỉ tính cung đường (đường số 6) vận tải từ Xiêm Riệp đến Si-sô-phôn - Bát Tam Băng mỗi năm cũng đã xảy ra hàng chục vụ phục kích, đánh mìn của địch. Trên tuyến đường số 5, Phnôm Pênh - Bát Tam Băng cũng không kém phần phức tạp. Nhiều vụ phục kích, gài mìn, đánh sập cầu cống do địch gây ra, nhất là đoạn đường đi qua tỉnh Công Pông Chơ Năng, Pua Xát. Từng viên đạn, từng hạt gạo, từng lít xăng dầu cũng đã nhuốm máu, mồ hôi và nước mắt của người lính tiếp vận. Trong 10 năm qua, riêng sư đoàn bộ binh 309 đã có 546 đồng chí hy sinh (18,4%), 660 đồng chí bị thương (11,9%) trên các cung đường vận chuyển.

Trước tình hình như vậy, Mặt trận đã phải phái ra những lực lượng bộ đội chủ lực kết hợp với lực lượng vũ trang của Bạn, ngày đêm làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ đường; công binh của Mặt trận và công binh các đơn vị tham gia bắc cầu, sửa đường; đội ngũ cán bộ, chiến sĩ lái xe và lực lượng áp tải được trang bị thêm vũ khí, kiên quyết không vì địch đánh phá mà ngừng trệ công việc tiếp tế cho chiến trường.

Từ Sở chỉ huy sư đoàn ra phía trước, công tác bảo đảm cho chiến đấu lại càng khó khăn, phức tạp hơn, nhất là mùa mưa. Ngoài việc các cầu cống bị hư hại, bị địch đánh phá (vì đây cũng là một mục tiêu của chúng); đường sá từ phía sau ra phía trước ở địa bàn tỉnh Bát Tam Băng rất lầy lội cũng gây nhiều khó khăn cho việc tiếp tế hậu cần. Trên trục đường từ xã Bà Văn, huyện Mông-côn Bô-rây lên Prăm-đơm, Nam-sấp trong mùa mưa hầu như không sử dụng xe cơ giới được. Đường số 58 chạy dọc bờ sông Mông-côn Bô-rây lên Sơ-rê-an-tiếc - Com Riêng - Pailin cũng ở trong tình trạng tương tự. Trong quân số chiến đấu của sư đoàn, chúng tôi đã phải chuyển gần 1/3 lực lượng rải ra trên các trục đường vận chuyển; ấy thế mà vẫn bị mìn, vẫn bị địch phục kích liên tục. Đã có nhiều đồng chí chiến đấu rất dũng cảm để bảo vệ phương tiện, bảo vệ hàng hoá. Nhiều chuyến xe đã phải nằm lại dọc đường trong điều kiện mưa gió và kẻ địch luôn bám sát để tấn công. Cán bộ chiến sĩ của ta làm công tác tiếp vận đã hy sinh, hoặc bị thương trên các tuyến đường vận tải trong những năm qua cũng không phải là ít.

Đứng trước tình hình đó, chúng tôi đã vận dụng trong việc bố trí đội hình, chủ yếu bám vào các trục đường, vừa là nơi đóng quân, xây dựng doanh trại, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ đường; cùng với chính quyền địa phương, nơi có các trục đường vận chuyển đi qua; đưa dân về định cư dọc 2 bên các tuyến đường để dựa một phần vào dân và lực lượng vũ trang địa phương trong nhiệm vụ bảo vệ hành lang vận chuyển; tổ chức các lực lượng hỗn hợp ta và Bạn, lập ra các chốt bảo vệ hệ thống cầu, cống trên các trục đường.

Việc xây dựng và bảo vệ hệ thống kho tàng cũng đã được các ngành hậu cần - kỹ thuật từ Quân khu, Mặt trận xuống đến các đơn vị cơ sở hết sức quan tâm. Trong điều kiện hậu phương, khí hậu, thời tiết khắc nghiệt; nhất là về mùa mưa thì công tác cung cấp, dự trữ một khối lượng hàng hóa nhiều chủng loại, không đơn giản chút nào. Ngoài cơ số đạn dược, lương thực, thực phẩm, thì thuốc quân y trang bị cho các đơn vị chiến đấu được bổ sung thường xuyên; trên hướng Bát Tam Băng, ngành hậu cần, kỹ thuật của chúng tôi còn xây dựng được 5 cụm kho tại các khu vực:

- Cụm kho đạn dược, lương thực, thực phẩm, xây dựng tại thị xã Bát Tam Băng. Cụm kho này, sau khi bàn giao địa bàn nội địa cho các đơn vị thuộc đoàn chuyên gia quân sự 7704, chúng tôi chuyển lên đập Pinh Puôi cùng với Sở chỉ huy sư đoàn vào năm 1982.

- Cụm kho tại Nam-sấp để cung cấp cho trung đoàn bộ binh 96 và các đơn vị của sư đoàn được tăng cường trên hướng đó.

- Cụm kho ở khu vực Tà Sanh - Sầm Lốt cung cấp cho trung đoàn bộ binh 250.

- Cụm kho ở thị trấn Pailin cung cấp cho trung đoàn bộ binh 812 và các lực lượng khác.

- Ngoài ra, trung đoàn bộ binh 31 tự tổ chức kho tàng và trực tiếp tiếp nhận vật chất của sư đoàn chuyển xuống, vì trung đoàn bộ binh 31 là đơn vị cơ động, vị trí không được ổn định.

Mỗi một căn cứ hậu cần đều bao gồm cả các trạm quân y dã chiến, bãi hạ cánh cho máy bay trực thăng để khi cần có thể vận chuyển thương bệnh binh về phía sau trong các mùa mưa. Do khí hậu, thời tiết và những điều kiện ăn ở của bộ đội hết sức khó khăn. Sư đoàn cũng đã quan tâm đến các vùng trọng điểm để tăng cường lực lượng, phương tiện và thường xuyên cử cán bộ xuống kiểm tra. Nhất là khu vực Nam-sấp và Tà Sanh - Sầm Lốt. Các cơ quan từ Bộ Quốc phòng đến cơ quan Quân khu và Mặt trận cũng thường có những phái đoàn xuống kiểm tra, chỉ đạo và tạo điều kiện giúp đỡ các đơn vị trên 2 khu vực trọng điểm này. Nhờ có những nỗ lực đó mà dần dần về sau, những điều kiện tối thiểu trong công tác bảo đảm chiến đấu được cải thiện rõ rệt. Thương binh, bệnh binh đều được chuyển bằng máy bay về phía sau; và cứ mỗi chuyến bay lên chuyển thương binh, tử sĩ về phía sau lại chuyển luôn thuốc men, dụng cụ y tế ra phía trước.

Trong điều kiện bảo đảm cho chiến đấu, trên chiến trường vừa xa hậu phương, vừa phức tạp như thế; cho nên ngay từ đầu, trong công tác giúp Bạn, các cấp, các ngành - từ Mặt trận xuống đến các đơn vị cơ sở - đã quán triệt sâu sắc quan điểm tự lực cánh sinh, cần kiệm xây dựng với một nỗ lực cao nhất, bảo đảm cho bộ đội càng đánh càng mạnh, càng trưởng thành về nhiều mặt. Trên chiến trường, nơi địa bàn chúng tôi đảm nhiệm, do quán triệt được quan điểm đó, cho nên bộ đội đã tận dụng tối đa những điều kiện cho phép như về khí hậu, đất đai… để phát động phong trào tăng gian sản xuất, chăn nuôi tại chỗ, để tăng thêm chất lượng bữa ăn hàng ngày cho bộ đội và góp một phần vào việc cứu đói cho dân. Từ đó, vườn rau, ao cá, đàn gà, đàn vịt, chuồng heo được phát triển hầu như ở tất cả các đơn vị trong sư đoàn. Lúc còn là sư đoàn trưởng, đồng chí Lê Chí Thuận đi đâu, đến đâu cũng hô hào trồng cây ăn quả (chuối, đu đủ) với miệng nói, tay làm, đã kích thích được phong trào tăng gia sản xuất, chăn nuôi ở đơn vị chúng tôi và nhiều đơn vị khác trong Mặt trận 479. Từ đây, trong các bữa ăn của bộ đội đã có đủ các món thịt, cá, rau, quả. Và ở trung đoàn bộ binh 31 đã sản xuất được đậu, bắp, bộ đội đã được uống sữa đậu nành liên tục trong các mùa khô.

Theo số liệu tổng hợp chưa đầy đủ, từ đầu năm 1980 đến cuối năm 1988, toàn sư đoàn 309 đã sản xuất được 225.760 kg chất bột tính ra gạo, 168.151 kg đậu, lạc, vừng (mè), 2.450.201 kg rau xanh, 7.707 con heo, 2.035 con bò, 102.792 gà vịt, 381.175 kg cá tươi, trồng 9 héc-ta đay thu 17.000 đồng tiền Riel (tiền Campuchia). Xây dựng cơ bản được 372.447 m2nhà ở, kho tàng, sản xuất 50.500 viên gạch, ngói; 55.000 tấn vôi, khai thác 982 m2đá, cát và hàng trăm m3gỗ, hàng ngàn cây tre nứa để phục vụ cho công tác xây dựng doanh trại trên chiến trường.

Về công tác bảo đảm kỹ thuật cũng được các cơ quan và nhân viên ngành kỹ thuật quan tâm: ngành ô tô, máy kéo đã sửa chữa nhỏ 1.833 lần/chiếc xe, sửa chữa vừa 191 lần/chiếc, sửa chữa ở cấp trên sư đoàn 91 lần/xe. Ngành vũ khí - đạn sửa chữa vừa và nhỏ được 16.223 lần/khẩu, súng pháo các loại 8.273 lần/khẩu, ngành xe tăng - thiết giáp sửa chữa nhỏ được 252 lần/chiếc, sửa chữa lớn 32 lần/chiếc. Tự gia công tại chiến trường 904 chi tiết xe ô tô, 246 kim hỏa súng các loại, 362 chi tiết phụ tùng sửa chữa súng và hàng trăm xẻng bộ binh.

Trung tá, chủ nhiệm hậu cần Phạm Văn Vị, trung tá chủ nhiệm kỹ thuật Nguyễn Văn Ngọc, các cán bộ kế tiếp của ngành hậu cần -kỹ thuật: thiếu tá Hoàn Kinh Cánh, thiếu tá Nguyễn Xuân Lục, đại úy Lê Văn Duyệt, Hoàn Văn Đông và nhiều đồng chí khác là những người luôn luôn có mặt ở những nơi khó khăn nhất. Tất cả các mùa khô khi bộ đội chiến đấu trên tuyến biên giới, thì các đồng chí cùng với các lực lượng phục vụ cũng luôn luôn có mặt trên các tuyến đuờng vừa cung cấp cho các đơn vị về cơ sở vật chất, kỹ thuật trong các chiến dịch mùa khô; vừa bảo đảm đủ lượng dự trữ cho mùa mưa đến.

Phải nhìn nhận rằng trong thắng lợi chung trên chiến trường có sự đóng góp to lớn của cán bộ, chiến sĩ ngành hậu cần - kỹ thuật sư đoàn. Tôi không nêu cụ thể lên đây hàng năm ngành hậu cần - kỹ thuật phải bảo đảm cho trên 10 ngàn người chiến đấu bao nhiêu tấn lương thực, thực phẩm, đạn dược, xăng dầu, quân trang, quân dụng… mà chúng ta hãy hình dung mọi nhu cầu cần thiết cho cả một sư đoàn có thời kỳ gồm 5 trung đoàn bộ binh, 1 trung đoàn pháo binh, các tiểu đoàn pháo phòng không, tiểu đoàn tăng - thiết giáp, hóa học, công binh, thông tin, trinh sát và các phân đội trực thuộc… có đầy đủ các vật chất kỹ thuật chiến đấu trong suốt 10 năm trên một chiến trường xa hậu phương hàng ngàn km, thì sẽ thấy được một khối lượng vận chuyển không nhỏ.

Với sự nỗ lực của ngành hậu cần - kỹ thuật đã bảo đảm cho toàn sư đoàn thường xuyên có đủ một cơ số các loại trang bị cho bộ đội, hai cơ số để tại các cụm kho phía trước, ba cơ số dự trữ tại kho sư đoàn. Việc bảo vệ hệ thống kho tàng ở chiến trường cũng là vấn đề được các cơ quan hậu cần - kỹ thuật sư đoàn và các đơn vị rất quan tâm. Đó là việc chống ẩm ướt trong mùa mưa, chống cháy nổ trong mùa khô và chống địch phá hoại thường xuyên.

Mọi công tác bảo đảm an toàn trong quá trình vận chuyển cũng đã được các cấp từ cơ quan Mặt trận đến các đơn vị quan tâm. Ấy thế mà có lúc cũng đã xảy ra những trường hợp đáng tiếc. Ngoài một số vụ do bất cẩn trong công tác bốc dỡ, vận chuyển còn để xảy ra những trường hợp làm nổ tung một xe chở đạn, chở mìn và cháy nổ ở một số đơn vị thuộc Mặt trận. Mùa khô năm 1982, trên một chuyến xe chờ đạn hỏa lực của sư đoàn bộ binh 309 từ phía sau lên Nam-sấp để trang bị cho trung đoàn bộ binh 96, có nhiều đồng chí từ phía sau ra phía trước, ngại đi bộ, đã bám lên xe chở đạn. Khi xe đến chân cao điểm 309 - Nam-sấp, do đường xấu, xe bị sóc đã kích nổ hoàn toàn một xe chở đạn. Thật là đau xót… Tất cả số anh em ngồi trên xe đều bị tử nạn. Một sự hy sinh mất mát không đáng có. Đó là những bài học xương máu rất thấm thía, khi không thực hiện đúng những điều lệnh, quy chế trên chiến trường.