Cuộc Chiến Tranh Bắt Buộc - Phần II - Chương 4

Tổng hợp tình hình tác chiến của trung đoàn bộ binh 726 trên khu vực trục đường số 10, huyện Pailin, trong bản tin số 8 ra ngày 30-6-1979 của Cục chính trị thuộc Mặt trận 479 có ghi: “Đoàn 726 hoạt động tại khu vực Tà Sanh - Sầm Lốt và khu vực “cua chữ V” (Bát Tam Băng) trong tháng 5 năm 1979 đã đánh 20 trận, diệt 158 tên, bắt 30 tên, thu 55 khẩu súng các loại (trong đó có 1 khẩu cối 82 mm, 2 khẩu cối 60 mm, 1 khẩu 12,7 mm), một xe GAT, một máy thông tin PRC25 và nhiều đạn dược, lương thực, quân trang, quân dụng. Trong tháng 6 năm 1979, Đoàn đã đánh 27 trận, diệt 86 tên, bắt 10 tên, ra hàng 23 tên, thu 184 súng các loại, 1 xe ô tô vận tải và nhiều đạn dược”.

Cùng thời gian, trên địa bàn Mặt trận 479, các đơn vị khác cũng đã dấy lên phong trào thi đua diệt giặc lập công, đẩy mạnh công tác giúp Bạn, xây dựng chính quyền cách mạng ở cơ sở. Cũng trong bản tin trên, cho đến ngày 30-6-1979, ta đã giúp Bạn xây dựng được chính quyền 48 xã (tỉnh Bát Tam Băng được 17 xã). Các đội công tác của 3 cơ quan thuộc Bộ tư lệnh Mặt trận 479 đã xây dựng được chính quyền của 28 phum trong tổng số 33 phum thuộc 3 xã ở thị xã Xiêm Riệp. Trong đó xã Xiêm Riệp 1 đã xây dựng được 14/14 phum, tuyển chọn đưa vào đội ngũ 190 du kích; Xiêm Riệp 2 xây dựng được 10/11 phum, 136 du kích; Xiêm Riệp 3 xây dựng được 4/8 phum, 76 du kích.

Đặc biệt qua công tác phát động quần chúng, xây dựng cơ sở cách mạng đã phát hiện ra các chi bộ, đảng viên của các đảng phái phản động Pôn Pốt và Xê-rê-ka (Khơme tự do) và hệ thống địch ngầm trong cơ quan chính quyền các cấp.

Như vậy, tại tỉnh Bát Tam Băng do sư đoàn bộ binh 309 đảm nhiệm từ cuối 1979 đến đầu 1980 đã có tất cả 5 trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh, một tiểu đoàn Tăng - Thiết giáp, một tiểu đoàn pháo phản kích 37 mm, một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn hóa học, một tiểu đoàn trinh sát và một số lực lượng khác. Tổng số khoảng 10 ngàn chiến sĩ.

Về lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia, có sư đoàn chủ lực 196, 3 tiểu đoàn bộ binh huyện, 8 đại đội và nhiều trung đội du kích thôn, xã…

Sau khi các đoàn chuyên gia nói chung trên toàn chiến trường ra đời, ở tỉnh Bát Tam Băng có đoàn 7704 đóng tại thị xã Bát Tam Băng, bên cạnh UBND và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, trên địa bàn đã có sự phân công phân nhiệm một cách chặt chẽ. Các đơn vị bộ đội chủ lực thì hoạt động đánh địch ngoài địa hình, nhằm hỗ trợ trực tiếp cho đoàn chuyên gia quân sự (Sau này, chúng ta tổ chức thêm hệ thống chuyên gia dân sự. Ở Bát Tam Băng có đoàn chuyên gia dân sự do đồng chí Mười Chấp làm trưởng đoàn), chỉ đạo các đơn vị thuộc quyền, các đội công tác tuyên truyền, phát động quần chúng xây dựng chính quyền, xây dựng cơ sở Đảng, các tổ chức quần chúng và lực lượng vũ trang giúp Bạn. Sức mạnh tổng hợp giữa các tổ chức đã được phát huy tối đa, giúp cho công tác giúp Bạn ngày càng tốt hơn, hiệu quả hơn. Lực lượng chủ lực của ta trên chiến trường cũng đã tiến hành triển khai theo thế chiến lược mới để bảo đảm thực hiện nhiệm vụ theo chức năng của từng lực lượng.

Cuối năm 1979, tôi được điều lên sư đoàn với cương vị Phó tham mưu trưởng, rồi Phó sư đoàn trưởng - Tham mưu trưởng sư đoàn 309. Đội hình của sư đoàn bộ binh 309 lúc này đã được điều chỉnh lại như sau:

- Trung đoàn bộ binh 31, đứng chân ở Buôi Chrey và hoạt động ở khu vực Ba núi (tên địa danh này là do ta đặt ra, vì có 3 hòn núi nằm cạnh đường số 10 từ thị xã Bát Tam Băng đi Pailin).

- Trung đoàn bộ binh 250 đứng chân ở Ochipu, gần cao điểm 550, khu vực Tà Sanh - Sầm Lốt.

- Trung đoàn bộ binh 812 đứng ở thị trấn Pailin, cách biên giới Campuchia - Thái Lan khoảng 10 km, là nơi có đồn điền cà phê và mỏ đá kim cương.

- Trung đoàn bộ binh 96 đứng ở Com Riêng, về phía bắc thị trấn Pailin khoảng 20 km và sát đường biên giới Thái Lan.

- Trung đoàn bộ binh 726, từ huyện Pailin, trên trục đường 10, được rút về thị xã Bát Tam Băng và trực thuộc đoàn 7704 làm nhiệm vụ trong nội địa.

- Trung đoàn pháo binh 36 cùng Sở chỉ huy sư đoàn vẫn triển khai ở thị xã Bát Tam Băng.

Xem ra thì lực lượng chủ lực của ta đã bị dàn mỏng, phân tán. Ở đây, chúng ta đã xây dựng một khu vực phòng ngự của một sư đoàn, trong đó có 3 trung đoàn như một bàn tay xòe ra 3 hướng, triển khai trên tuyến một, với chính diện khoảng từ 60 - 80 km, trên bành trướng phía tây tỉnh Bát Tam Băng. Thậm chí, ở sư đoàn bộ binh 309 và một số đơn vị khác của Mặt trận 479, có những đại đội độc lập, cách biệt đội hình cả chục km. Do đó đã gặp rất nhiều khó khăn trong công tác vận chuyển tiếp tế và chi viện chiến đấu, khi bị địch tấn công.

Sang năm 1981, địch từ các căn cứ trên tuyến biên giới tăng cường thâm nhập vào nội địa. Đến cuối năm 1981 và đầu năm 1982, địch đã thực hiện được 3221 vụ thâm nhập vào nội địa, trong đó, trên tuyến biên giới có 2564 vụ, chiếm 79%. Vì vậy, Bộ tư lệnh Mặt trận 479 chủ trương tiến hành một chiến dịch hoạt động tổng hợp, gọi là “Chiến dịch C81”, nhằm bung các lực lượng phía trước ra tiến công, đánh phá các căn cứ của địa dọc tuyến biên giới, đánh cắt đường giao thông vận chuyển, tiếp tế, thâm nhập của chúng từ biên giới vào nội địa. Còn ở trong nội địa, các lực lượng địa bàn tiến hành các hoạt động truy quét, phá các căn cứ lõm, thu gom kho tàng, đạn dược của địch, kết hợp với nhân dân nhằm tiêu diêt địch cài, cắm trong dân, xây dựng thực lực cách mạng.

Mục tiêu đặt ra cho các đơn vị chủ lực phía trước của ta và Bạn là triệt phá các căn cứ của địch trên tuyến biên giới - nơi xuất phát của những lực lượng xâm nhập vào nội địa của địch. Trên hướng chủ yếu của Mặt trận có các căn cứ Đăng-cum, Ăm-pin, hướng này do sư đoàn bộ binh 5 kết hợp với sư đoàn bộ binh 179 của Bạn đảm nhiệm. Trên hướng Bát Tam Băng gồm các căn cứ của sư đoàn bộ binh 320, như ở Sơ-đa, bắc Ô-đa (là căn cứ của trung đoàn bộ binh 905 thuộc sư đoàn bộ binh 320 Pôn Pốt), căn cứ Com Riêng -Pailin thuộc sư đoàn bộ binh 415, căn cứ Tà Sanh-Sầm Lốt của sư đoàn bộ binh 221. Tất cả những căn cứ này, do sư đoàn bộ binh 309 đảm nhiệm, phải triệt phá cho bằng được. Trên hướng bắc tỉnh Xiêm Riệp thuộc phạm vi hoạt động của sư đoàn bộ binh 302. Bộ đội Việt Nam và sư đoàn bộ binh 266 thuộc bộ đội cách mạng Campuchia.

Mùa khô 1981 - 1982 lại đến với bộ đội ta trên chiến trường; tuy mùa khô khắc nghiệt, nhưng so ra, thì mùa khô vẫn là mùa tương đối thuận lợi. Nếu khắc phục được tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, thì bộ đội có nhiều lợi thế hơn địch. Bởi vậy, trên vai người chiến sĩ trên địa bàn này luôn luôn có mang theo ngoài bi đông, còn thêm một ống tre chứa đầy nước. Đó cũng là kinh nghiệm của người lính sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi mà bất cứ đơn vị nào thuộc Mặt trận 479 đều chưa trải qua. Đơn giản một điều là địa bàn của họ là đồng bằng. Nắm vững tình hình trên địa bàn tác chiến, tôi đã cho lập ra một bản đồ địa chí, đánh dấu tất cả những nơi có nước trong mùa khô ở phía tây tỉnh Bát Tam Băng như ở Nam-sấp, Bua, Ô-đa, Com Riêng, Ăm-pin Prăng-đơm và nhiều nơi khác để khi bộ đội hoạt động trên những khu vực này biết mà sử dụng các nguồn nước đó. Còn ở những nơi không có nguồn nước thì người chỉ huy phải có biện pháp khắc phục.

Để chuẩn bị cho chiến dịch C81 thắng lợi, Bộ tư lệnh Mặt trận 479 đã tổ chức Sở chỉ huy tiền phương, đóng tại xã Bà Văn, do thiếu tướng Lê Chí Thuận, phó tư lệnh Mặt trận chỉ huy, cùng với cán bộ cơ quan 4 Cục và các chủ nhiệm binh chủng. Về phía Bạn có một số đại diện tham gia vào Sở chỉ huy tiền phương, gồm có đồng chí Keo Kim Giang, phó chỉ huy, tham mưu trưởng thuộc Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, đồng chí Ung Sa My, phó chủ tịch hậu cần Ủy ban nhân dân tỉnh Bát Tam Băng và một số đồng chí khác. Trước đó, chúng tôi đã tung nhiều toán trinh sát nắm mục tiêu. Đây là công việc không đơn giản chút nào! Kẻ địch thì rất nham hiểm; với chiến thuật “đầu nhọn, đuôi dài” như đã nói ở phần đầu, chúng luôn luôn tung lực lượng ra bám sát ta từ căn cứ đông quân. Mỗi một hành động của ta từ nơi xuất phát được chúng phát hiện và truyền về căn cứ của chúng. Cho nên, các toán trinh sát của ta đều bị chặn lại từ xa, không sao đột nhập được vào các mục tiêu cần tiến công. Đã có lần, tôi cùng đồng chí Đào Quang Năm - phó sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 309 - đi bằng máy bay trực thăng lên kiểm tra trung đoàn bộ binh 96. máy bay ta không xác định được vị trí của trung đoàn để hạ cánh, đã bay quá lên vùng biên giới giữa Campuchia - Thái Lan. Từ trên máy bay nhìn xuống thấy cả một vùng dọc biên giới hàng chục km, rộng khoảng 500 m, là những căn cứ địch, với những dãy nhà tranh san sát, có cả những công sự, hầm hào xen kẽ trong trại lính. Thế mới biết là từ sau cuộc tổng tiến công, chưa có một lực lượng nào của ta làm chủ khu vực này. Nhiều lần đột nhập chính diện không thành, chúng tôi đã tổ chức một tổ trinh sát gọn nhẹ, có chuẩn bị máy thông tin vô tuyến điện, luồn sâu sang đất Thái Lan, đặt được đài quan sát ở dãy núi Tà-ngók cách biên giới chừng 500 m. Tại Sở chỉ huy trung đoàn bộ binh 31, tôi mở máy canh và hồi hộp chờ đợi. Bỗng đài kỹ thuật bắt được tín hiệu của đài địch. Chúng la ó: có bộ đội Việt Nam trên núi Tà-ngók và cho lực lượng lên đó. Tôi lo lắng và cho báo ngay với tổ trinh sát. Quả nhiên, 20 phút sau thì địch đã nổ súng. May sao, số anh em trinh sát này thoát được an toàn.

Tuy chưa nắm được thật cụ thể yêu cầu của một đơn vị chiến thuật, nhưng những gì tổ trinh sát đã nắm được và qua khai thác một số tù binh, hàng binh, cũng đã đủ để chúng tôi hạ quyết tâm tiến công vào căn cứ của trung đoàn địch ở bắc Ô-đa.

Đầu năm 1981, đồng chí Lê Chí Thuận - sư đoàn trưởng - và đồng chí Nguyễn Văn Chước - chính ủy sư đoàn lên Mặt trận 479 nhận công tác. Đồng chí Lê Đức Thiện - trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh 812-lên thay, với cương vị là sư đoàn trưởng. Đồng chí Nguyễn Thành Út được bổ nhiệm phó sư đoàn trưởng về Chính trị lên thay đồng chí Nguyễn Văn Chước. Thời kỳ này, quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia đã thực hiện cơ chế một chỉ huy.

Khi bước vào mùa khô 1981 - 1982 đồng chí Lê Đức Thiện chuyển sang làm chuyên gia sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 196 bộ đội cách mạng Campuchia, tôi được bổ nhiệm làm sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 309 và bước vào chiến dịch C81.

“Quả đất xoay tròn”, năm 1977, khi tôi là phó hiệu trưởng trường Hạ sĩ quan Quân khu 5, anh Nguyễn Văn Chước là chính ủy nhà trường, còn anh Nguyễn Thành Út là Chính trị viên của một tiểu đoàn học viên đóng quân ở Hòa Hội, thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, ba chúng tôi đều được điều động về đây để thành lập và xây dựng sư đoàn bộ binh 309. Lúc tôi là trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh 31 thì anh Nguyễn Thành Út là phó chính ủy, kiêm chủ nhiệm chính trị trung đoàn. Hôm nay, khi tôi là sư đoàn trưởng thì anh Út lại là phó Chính ủy sư đoàn. Hai anh em đã cùng hợp lực xây dựng các đơn vị từ trước đến nay. Số phận đã gắn bó cuộc đời chúng tôi lại với nhau trong những năm chiến đấu, công tác trên đất nước Campuchia này gần 10 năm. Có biết bao những kỷ niệm, vui có mà buồn cũng có. Mỗi người trong đời thường có một hoàn cảnh, những tất cả chúng tôi đều là những cán bộ chỉ huy, lãnh đạo; đều tập trung toàn tâm, toàn ý là làm thế nào để sư đoàn hoàn thành nhiệm vụ mà Đảng và hai Nhà nước đã giao phó. Mối quan hệ này đã tạo nên sức mạnh, là điều kiện thuận lợi để góp phần vào việc hoàn thành nhiệm vụ của sư đoàn.

Sau khi đoàn chuyên gia quân sự 7704 được thành lập, Sở chỉ huy sư đoàn bộ binh 309 chuyển lên đập Pinh Puôi phía đông bắc đường 10, cách xã Lâm Chầm Pâu (Ba núi) khoảng 10 km. Nơi đây có một đập nước được tạo thành bởi một con đê nối liền giữa 2 ngọn núi cách nhau khoảng 2 km đường chim bay. Sở chỉ huy được đặt ở đầu con đê (cũng là con đường xe ô tô đi được) về phía đông bắc. Trước mặt Sở chỉ huy là đồng ruộng, làng mạc và đập nước; phía sau lưng, về phía tây là một dãy các điểm cao. Thật là một địa hình lý tưởng! Tôi đã cho thiết lập một chốt quan sát trên điểm cao. Dưới chân điểm cao này là Sở chỉ huy sư đoàn, phía sau điểm cao là tiểu đoàn trinh sát; kế đến là tiểu đoàn vận tải và hệ thống kho tàng. Quang cảnh ở đây trên là núi, dưới là đập nước mênh mông, đúng với câu “sơn thủy hữu tình”, không khác gì một khu an dưỡng, nghỉ mát.

Để tạo nên nếp sống văn hóa trên chiến trường, chúng tôi đã chú ý đến công tác xây dựng doanh trại, duy trì các chế độ chính quy. Ngoài các công trình chiến đấu như hầm hào, công sự, chúng tôi đã tiến hành xây dựng một loạt các công trình khác như hội trường, nhà kho, bệnh xá, doanh trại bộ đội, với các công trình thể thao, thể dục. Và, đặc biệt là quan tâm đến hệ thống đường sá cơ động từ Sở chỉ huy đi các hướng.

Trung đoàn pháo binh 36 (nay đổi tên là trung đoàn pháo binh 487) từ thị xã Bát Tam Băng được điều lên đứng chân ở xã Tà Hen trên trục đường 58. Trục đường này chạy dài từ Si-sô-phôn đến Bà Văn - Lô-via - Tà Hen về Sơ-rê-an-tiếc, xuống thị trấn Pailin, hợp điểm với đường số 10 tại Pailin.

Các đơn vị trực thuộc cũng được điều chỉnh như tiểu đoàn Tăng-Thiết giáp ở đầu đập Pinh Puôi về phía nam. Tiểu đoàn hoa học ở ngay đoạn giữa đập nước, tiểu đoàn 25 công binh ở đoạn giữa, trên đường đi từ Sở chỉ huy sư đoàn đến trung đoàn pháo binh 487. Tất cả các đơn vị phía sau đã được điều chỉnh hoàn tất trước khi sư đoàn bước vào chiến dịch C81. Còn các trung đoàn bộ binh hầu như không có gì thay đổi.

Ngày 12-1-1982, sau khi báo cáo quyết tâm lần cuối và kế hoạch chiến đấu trong chiến dịch C81 lên Sở chỉ huy Mặt trận 479, sư đoàn bộ binh 309 và các đơn vị trên toàn chiến trường bắt đầu bước vào chiến dịch.

Trận đánh mở đầu trên hướng Bát Tam Băng của sư đoàn bộ binh 309 chúng tôi là trận tiến công đánh chiếm căn cứ của trung đoàn bộ binh 905 thuộc sư đoàn bộ binh 320 Pôn Pốt ở phía bắc Ô-đa. Căn cứ này nằm sát biên giới Thái Lan trên phần đất của Campuchia, xung quanh núi cao, rừng rậm tạo thành cái lòng chảo, chính giữa là con suối Phasi - người Thái gọi là suối Nam Sai. Và cũng là đường biên giới giữa hai nước. Phía đông là các dãy núi đá vôi. Cao nhất là điểm cao 505, và trên điểm cao này, chúng tôi đặt đài quan sát pháo binh. Lực lượng tham gia trong trận này gồm trung đoàn bộ binh 31 (chủ công), trung đoàn bộ binh 96, một đại đội Tăng - Thiết giáp, một đại đội lựu pháo 105 và các lực lượng khác như công binh, trinh sát,… Sở chỉ huy phía trước của sư đoàn đặt tại điểm cao 309, phía sau hướng chủ yếu khoảng 500 m. Xác định đây là một trận tập kích hiệp đồng binh chủng với quy mô sư đoàn (thiếu một trung đoàn bộ binh), với đặc điểm là địa hình rừng núi. Điều khó khăn lớn nhất là trên các hướng có thể tiếp cận được, thì địch đã bố trí những bãi mìn dày đặc, kể cả mìn chống bộ binh và chống xe tăng.

Đêm hôm trước ngày nổ súng, tiểu đoàn công binh 25 của sư đoàn do tiểu đoàn trưởng, đại úy Nguyễn Văn Khạ và trung úy Nguyễn Văn Hòa - phó tiểu đoàn trưởng - chỉ huy đã tiến hành phát quang, cưa cây, gỡ mìn, để chuẩn bị đường cho xe tăng vào chiếm lĩnh. Những nơi gần địch thì các đồng chí cho gài sẵn thuốc nổ vào gốc cây lớn, để khi nổ súng thì cho bộc phá nổ phá cây.

Trận địa pháo 105 mm triển khai phía sau, bên phải Sở chỉ huy sư đoàn khoảng 200 m. Chúng tôi cũng dùng những biện pháp như trên để phát quang xạ giới. Trung đoàn bộ binh 96 được giao nhiệm vụ mở một mũi đột kích chính diện từ hướng đông bắc mục tiêu, nhằm chia cắt giữa 2 căn cứ Ô-đa và Sơ-đa. Hai căn cứ này cũng thuộc sư đoàn bộ binh 320 của địch và cách nhau khoảng 2 km, có đường ô tô nối liền nhau.

Trên hướng chủ yếu, trung đoàn bộ binh 31 được tăng cường đại đội Tăng - Thiết giáp, mở một mũi đột kích từ hướng đông nam thẳng vào mục tiêu. Trận này chúng tôi không tổ chức lực lượng dự bị chung, nhưng trên các mũi, các hướng đều có lực lượng dự bị. Như vậy, chỉ còn phía sau căn cứ địch là không có lực lượng luồn sâu, vu hồi; vì đó là đất Thái Lan và địa hình rất phức tạp. Sau này, khi ta nổ súng thì phần lớn lực lượng của địch đã chạy qua đó.

Xin bạn đọc cần lưu ý rằng: đây là lần đầu tiên chúng tôi tiến công đánh chiếm căn cứ này. Về sau, căn cứ này địch đã khôi phục lại và chúng tôi còn phải tiến công đánh chiếm lại lần nữa, vào mùa khô năm 1984.

Sáng ngày 15-0-1982, thời tiết lúc này đang là mùa khô, nhưng vì địa hình rừng núi nên 7 giờ mới thấy rõ mục tiêu. Đài pháo binh ở điểm cao 505 báo cáo: “Tình hình trong mục tiêu vẫn bình thường”. Và trên các hướng bộ đội đã vào vị trí xuất phát. Tại Sở chỉ huy sư đoàn, mọi người đều hồi hộp chờ đợi. Tất cả các phương tiện thông tin đều mở máy, sẵn sàng nhận lệnh. Đúng 7 giờ 10 phút, trận địa pháo của ta bắt đầu nổ súng. Nhưng quả đạn đầu tiên theo đài quan sát báo cáo thì không trúng mục tiêu mà vọt qua bên kia biên giới Thái Lan. Sau ít phút hiệu chỉnh thì pháo ta bắn trúng vào căn cứ địch. Địch trong căn cứ bắt đầu nhốn nháo.

Trong 10 phút bắn chuẩn bị, đồng thời từ các hướng, các mũi bí mật tiếp cận vào gần mục tiêu; công binh giật bộc phá để làm nốt phần còn lại là mở thêm một đoạn đường gần 100 m nữa, để cho xe tăng chuẩn bị đột kích. Trên hướng trung đoàn bộ binh 96, mìn địch quá nhiều nên đội hình nhích lên rất chậm. Sau 10 phút pháo ngừng bắn, trung đoàn bộ binh 31, dưới sự chi viện trực tiếp của xe tăng, đã tiến công mãnh liệt vào căn cứ. Địch chống trả quyết liệt. Pháo cối từ bên đất Thái Lan bắn vào đội hình trung đoàn bộ binh 31, nhưng lúc này bộ đội ta đã đánh chiếm được một khu vực phía nam căn cứ, đội hình phía sau đang tiến dần vào sát mục tiêu. Do đó, đạn pháo địch hầu hết đều vọt ra phía sau.

Trung đoàn bộ binh 96, tuy tốc độ tiến công có chậm nhưng cũng đã cắt được đoạn giữa của 2 căn cứ địch. Bị hỏa lực xe tăng và hỏa lực đi cùng bộ binh tiến công dồn dập, địch hoảng sợ, tháo chạy lên hướng Sơ Đa - Cao Mê Lai, gặp phải mũi tiến công chia cắt của trung đoàn bộ binh 96, chúng vượt qua biên giới, sang đất Thái Lan, để lại nhiều xác chết.

Sau 30 phút chiến đấu, ta đã làm chủ hoàn toàn căn cứ địch, diệt tại chỗ 25 tên, thu một số súng, trong đó có một khẩu pháo phòng không 37 mm. Từ 10 giờ trở đi cho đến khoảng 15 giờ chiều, các trận địa pháo cối của địch bên đất Thái Lan bắn liên tục dưới chân núi trên hướng tiến công của trung đoàn bộ binh 31. Đạn pháo cối nổ chát chúa đến nỗi khi tôi rời Sở chỉ huy để vào với trung đoàn bộ binh 31 - đang ở trong căn cứ địch - cứ bị đạn pháo chặn lại. Tại đài quan sát, pháo binh phát hiện rất rõ khẩu sơn pháo 85 của địch khi bắn chóe lửa đầu nòng, nhưng pháo của ta hiệu chỉnh mãi vẫn không trúng. Đến khi có một số quả pháo của ta rơi xung quanh thì địch mới kéo pháo chạy sâu vào nội địa Thái Lan. Song, các trận địa cối 120 mm của địch vẫn cứ bắn mãi vào chân núi.

Tại Sở chỉ huy, chúng tôi suy nghĩ và đặt câu hỏi với nhau: “Tại sao ta đã làm chủ được căn cứ địch từ sáng đến giờ mà pháo cối địch vẫn cứ bắn khu vực gần cửa mở trên hướng chủ yếu?”. Anh em ở Sở chỉ huy nhận định rằng: có thể còn có một mục tiêu nào đó mà ta chưa phát hiện được. Địch bắn pháo để ngăn chặn sự phát triển của quân ta.

Chúng tôi lệnh cho trung đoàn bộ binh 31 lùng sục, tảo trừ xung quanh căn cứ địch vừa mới chiếm được; quả nhiên, sau một lúc, đồng chí trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh 31 Lê Văn Thuận báo cáo: “Đã phát hiện được một cái hang đá, trong đó có một số xe ô tô, chưa nắm được có bao nhiêu chiếc. Nhưng địch bố trí mìn dày đặc nên chưa vào được”. Tại Sở chỉ huy, chúng tôi mừng run lên. Tin trung đoàn bộ binh 31 thu được xe ô tô của địch lan nhanh ra các đơn vị trong sư đoàn, rồi được báo cáo lên Sở chỉ huy Mặt trận 479. Mọi người rất mừng rỡ.

Tôi đã nghĩ ngay đến việc làm thế nào để đưa được xe ô tô về phía sau, dù chỉ 1 - 2 chiếc; vì có như vậy thì ý nghĩa của trận đánh được nâng cao hơn, đề phòng địch cho quân vào phá hủy mất. Tôi ra lệnh cho đồng chí Lê Văn Thuận: “Sử dụng ngay một đại đội bộ binh lùng sục quanh khu vực hang đá, chốt chặn tất cả ngả đường vào hang, đề phòng địch luồn sâu vào phá hủy số xe đó. Nhắc nhở bộ đội chú ý mìn địch. Tôi sẽ cho tiểu đoàn công binh xuống ngay để dò mìn và sẽ tổ chức đưa xe ra!”.

Trong khi đó, địch vẫn tiếp tục nã cối từ đất Thái Lan sang, đạn rơi xung quanh hang đá. Chúng tôi đã tính đến việc mở đường mới để đưa số xe ô tô chiến lợi phẩm ra ngoài, nhưng địa hình ở đây không thể được, vì nếu làm như vậy sẽ rất chậm. Mặt khác, tôi cũng rất tin tưởng vào trình độ phát hiện và dò gỡ mìn địch của anh em công binh nên đã nhất trí với đề nghị là sẽ dò gỡ sạch mìn và đưa xe ra theo đường xe ô tô cũ, đã bỏ từ lâu. Phải nói rằng tiểu đoàn công binh của sư đoàn bộ binh 309 thật tuyệt vời cả về tinh thần chiến đấu dũng cảm, lẫn trình độ chuyên môn kỹ thuật và có ý thức trách nhiệm rất cao. Địa hình ở đây rất phức tạp cho việc cơ động binh khí kỹ thuật, trong khi địch cài mìn dày đặc. Thế mà tiểu đoàn công binh, ban đêm đốt đuốc, phát cây, dò gỡ mìn địch, làm đường cho xe tăng, pháo binh ta vào chiếm lĩnh được bí mật, an toàn và đúng với thời gian quy định.

Nhận nhiệm vụ rà phá mìn địch để đưa xe ô tô chiến lợi phẩm ra, đồng chí Hoàng Văn Khạ - tiểu đoàn trưởng và đồng chí Nguyễn Văn Hòa đã tổ chức ngay lực lượng và trực tiếp chỉ huy bộ đội thi hành nhiệm vụ. Các đồng chí mang theo cả máy dò mìn và các dụng cụ khác. Song với địa hình ở đây thì chủ yếu vẫn là đôi tay, đôi mắt và cái đầu thông minh của bộ đội. Kẻ địch rất nham hiểm. Toàn bộ những xe ô tô còn mới nguyên, mỗi xe đã có sẵn một cơ số xăng dầu trên xe; còn trên đồng hồ số km thì còn thấp. Theo tính toán trên bản đồ thì có thể số xe này mới nhập của nước ngoài, chạy từ một quân cảng nào đó đến đây. Toàn bộ có 6 chiếc và hàng trăm xe đạp thồ còn nguyên đai, nguyên kiện. Địch đã gài mìn dày đặc xung quanh hang đá, dưới ghế ngồi và xung quanh các bánh xe. Hễ cứ xê dịch bánh xe khoảng 3 - 5 phân là mìn sẽ nổ. Vậy mà anh em công binh của ta đã phát hiện và dò gỡ được hàng trăm quả mìn của địch. Chúng tôi cho các chiến sĩ lái xe của tiểu đoàn vận tải xuống kiểm tra và đưa được toàn bộ số xe đó và các loại chiến lợi phẩm khác về phía sau được an toàn.

Chớp thời cơ lúc địch còn đang hoang mang dao động, sau khi đánh chiếm căn cứ trung đoàn bộ binh 905 ở bắc Ô-đa, 2 trung đoàn bộ binh 31 và 96 tiếp tục phát triển lên Sơ-đa, Phnôm Mê Lai tiêu diệt thêm một số địch và làm chủ hoàn toàn các căn cứ địch từ Phnôm Mê Lai xuống đến bắc Pailin, dọc tuyến biên giới, với chiều dài trên 60 km. Cũng trong thời gian này, trên hướng chủ yếu của Mặt trận 479, sư đoàn bộ binh 5 cũng đã đánh chiếm căn cứ Đăng-cum của sư đoàn một sư đoàn địch dọc biên giới Campuchia - Thái Lan, cách cửa khẩu Pô Pét khoảng 30 km về phía đông. Tại Sở chỉ huy tiền phương Mặt trận 479, đồng chí Keo Kim Giang đã chỉ đạo và tổ chức cho các lực lượng vũ trang tỉnh phối hợp cùng quân tình nguyện Việt Nam hoạt động truy quét địch tại các khu vực Xai-xa-mon; nam, bắc Ăm-pin – Prăm-đơm và nhiều nơi khác thuộc huyện Mông Côn Bô Rây. Ủy ban nhân dân tỉnh Bát Tam Băng đã huy động hàng vạn dân bắc cầu Bà Văn, phát quang, làm đường từ Bà Văn lên Prăng-đơm - Nam-sấp, từ Si-sô-phôn lên Sơ-vai-chếch và nhiều nơi khác.