Cuộc Chiến Tranh Bắt Buộc - Phần II - Chương 11

Năm 1986, tôi ra trường và về lại Mặt trận 479.

Trên chiến trường lúc bấy giờ, tình hình cách mạng Campuchia đã có những bước phát triển một cách toàn diện. Chính quyền các cấp và lực lượng vũ trang cách mạng của Bạn đã có thể đảm đương được toàn bộ công việc. Song trong thâm tâm của mỗi cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam vẫn còn phân vân và lo lắng. Liệu trước những khó khăn lúc này, Bạn đã đảm đương được mọi việc chưa? Đã có thể giữ vững và phát huy được những thành quả cách mạng đã đạt được?

Nỗi lo lắng đó hoàn toàn chính đáng. Bởi vì từ trên đống đổ nát, từ con số “0”, sau gần 10 năm, quân đội ta và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia đã hy sinh biết bao công lao, xương máu mới có thể xây dựng được chính quyền và quân đội cách mạng như ngày nay, trong khi kẻ thù vẫn chưa chịu từ bỏ âm mưu phá hoại chính quyền còn non trẻ của Bạn.

Song, một thực tế cho thấy, trong những năm qua, nhất là trong phong trào hoạt động cách mạng của các tầng lớp nhân dân, đã chứng tỏ được sức mạnh của Đảng nhân dân Campuchia, sự tổ chức điều hành đất nước của chính quyền các cấp và khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang cách mạng có thể tự đảm đương mọi công việc. Đã đến lúc chúng ta cần mạnh dạn tạo mọi điều kiện để Bạn chủ động tự giải quyết mọi vấn đề. Đó là yêu cầu đối với tất cả các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam. Điều này đã được nêu lên thành nghị quyết của các cấp ủy Đảng và trong các chỉ thị của người chỉ huy các cấp, thuộc Mặt trận 479.

Còn kẻ địch đang có nguy cơ bị thất bại hoàn toàn về chiến lược cũng như trên thực tế chiến trường. Bởi vì hầu hết các căn cứ đã bị triệt phá. Chúng chỉ còn dựa vào một số khu vực nhỏ hẹp ở vùng rừng núi, nhưng cũng đã bị truy đánh liên tục. Trong nội địa thì chính quyền cách mạng Campuchia đã mạnh lên về nhiều mặt. Thực sự là địch không còn chỗ dựa. Thế và lực của chúng đang trên đà tụt dốc. Âm mưu của chúng sẽ bị thất bại hoàn toàn trong một giai đoạn không xa.

Từ khi các lực lượng chủ lực bộ đội cách mạng Campuchia đảm nhiệm bảo vệ biên giới. Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam lui về tuyến 2, nhất là từ cuối năm 1986 đến đầu năm 1987 trở đi, thì trên chiến trường không còn xảy ra những trận chiến đấu nào từ cấp tiểu đoàn trở lên. Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam tận dụng điều kiện trong thời gian này để củng cố bộ đội, nâng cao khả năng chiến đáu và sẵn sàng cơ động chi viện cho tuyến 1.

Giai đoạn này chủ trương của Mặt trận 479 là củng cố lại đội ngũ chuyên gia quân sự ở các đơn vị vị trí cách mạng Campuchia. Nhưng kiên quyết không bao biện, làm thay. Để củng cố quan điểm đánh giá tình hình trên chiến trường về ta, về địch và nhất là về sự trưởng thành và khả năng của chính quyền và lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia. Một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng đã được tổ chức từ cơ quan Mặt trận cho đến các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam và các đoàn chuyên gia Việt Nam trên toàn bộ chiến trường Campuchia. Qua đó, đội ngũ chuyên gia được củng cố một bước. Trong giai đoạn này, tôi được điều động sang làm chuyên gia cho đồng chí sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 179 bộ đội chủ lực Campuchia.

Là một sư đoàn chủ lực thuộc Quân khu 4, sư đoàn bộ binh 179 được thành lập vào tháng giêng năm 1979. Do đó, lấy phiên hiệu là sư đoàn bộ binh 179. Cùng một thời gian lịch sử ra đời của nhiều sư đoàn bộ binh khác (sư đoàn bộ binh 196, 286, 6 và 4) đã đươc sinh ra trong cuộc cách mạng lật đổ chế độ độc tài phản động và diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xa-ri - Khieu Xamphon.

Trong những năm qua, các sư đoàn bộ binh này đã sát cánh cùng quân tình nguyện Việt Nam tiến bước dưới ngọn cờ “liên minh chiến đấu Việt Nam-Campuchia” đã làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn kẻ thù.

Tin tưởng rằng các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia nói chung, các đơn vị vị trí trên địa bàn của Mặt trận 479 nói riêng sẽ lớn mạnh không ngừng; là chỗ dựa vững chắc của cách mạng Campuchia, cùng với Quyết định nhân dân Việt Nam vững bước trên con đường tiến vào thế kỷ 21.

Cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia của quân và dân ta được tiến hành trong suốt 10 năm. Chúng ta đã đánh thắng một kẻ thù - nói đúng hơn là làm thất bại một âm mưu chiến lược của địch - và xây dựng lại một đất nước từ con số “0” trở thành một quốc gia có địa vị xứng đáng trên trường quốc tế. Công lao đó lớn lắm chứ!

Song cũng có một điều cần suy nghĩ đến tầm vóc chiến thắng vĩ đại này của chúng ta.

Chúng ta tiến hành chiến tranh trong một không khí “không ồn ào” như các cuộc chiến tranh trước đây. Chiến tranh chống Pháp lâu dài, gian khổ được kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ “chấn động địa cầu”.

Chiến tranh chống xâm lược của đế quốc Mỹ, kẻ thù mạnh nhất, hung bạo nhất được kết thúc bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Mặc dù vai trò quyết định thắng lợi trong các cuộc chiến tranh vừa qua là thuộc về Đảng và sự hy sinh to lớn của cả dân tộc. Nhưng không thể không nói đến sự giúp đỡ to lớn có hiệu quả của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, đã tăng thêm sức mạnh cho quân và dân ta chiến thắng.

Còn trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nghĩa vụ quốc tế lại diễn ra hoàn toàn khác, trong một bối cảnh lịch sử khác. Nếu như trong cuộc chiến tranh giải phóng, các nước tiến bộ trên thế giới nhiệt tình ủng hộ ta, thì trong cuộc chiến tranh này, họ thờ ơ, không thông cảm nổi, thậm chí giúp kẻ địch chống lại chúng ta.

Kẻ thù tưởng rằng sau năm 1975 nước ta đã bị kiệt quệ về kinh tế. Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang tập trung hàn gắn vết thương chiến tranh không còn đủ sức để bảo vệ thành quả cách mạng. Chúng coi đây là thời cơ tốt nhất để tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược mới trên một nửa nước ta.

Song chúng đã nhầm. Chiến thắng vĩ đại của quân và dân ta trên biên giới Tây Nam, tuy chưa có nhiều sách vở nói đến, đã chứng tỏ sự lãnh đạo tài tình của Đảng ta với đường lối sách lược và chiến lược đúng đắn, vơi sự hy sinh to lớn của nhân dân vì độc lập tự do của Tổ quốc, thì dù cuộc chiến tranh nào, trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng giành được thắng lợi.

Để các thế hệ mai sau được biết đến, tôi tin chắc rằng đến một lúc nào đó các nhà viết sử sẽ nói lên những điều mà hiện tại chưa nói đến một cách đầy đủ và chi tiết về cuộc chiến tranh này.

Như trên đã nói, chúng ta tiến hành chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên tuyến biên giới Tây Nam trong thế bắt buộc. Bắt buộc bởi vì chúng ta hoàn toàn không gây ra chiến tranh, không muốn chiến tranh. Sau năm 1975 chúng ta hoàn toàn muốn có hòa bình để xây dựng lại đất nước đã bị tàn phá. Nhưng kẻ thù không để chúng ta yên. Vì vậy trong suốt giai đoạn lịch sử này, Đảng ta đã khéo kết hợp giữa hai nhiệm vụ: Nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế để đem đến thắng lợi một cách trọn vẹn. Điều đó chứng tỏ rằng việc vận dụng một cách sáng tạo đường lối chiến lược và sách lược của Đảng ta luôn phù hợp trong từng thời kỳ lịch sử của dân tộc.

Đối với cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam, trong một thời gian rất ngắn, chúng ta đã dùng sức mạnh quân sự của những binh đoàn chủ lực, đập tan cả một chính quyền phản động với một đội quân đông đảo ngay trên đất đối phương. Khi chuyển sang làm nghĩa vụ quốc tế giúp Bạn xây dựng lại chính quyền và lực lượng vũ trang Campuchia thì chúng ta lại chuyển sang một phương thức tác chiến khác. Từ những năm 1980 trở đi, chúng ta đã tổ chức ra các Bộ tư lệnh Mặt trận 479, 579, 779, 979 cho phù hợp với nhiệm vụ đặt ra. Sau các Bộ tư lệnh Mặt trận, hệ thống các đoàn chuyên gia từ trung ương xuống đến địa phương cũng đã được tổ chức một cách kịp thời để giúp Bạn cả về quân sự, chính trị và ngoại giao.

Đây là một sự sáng tạo trong giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ.

Tôi muốn nói lên điều này để thấy được mỗi cuộc chiến tranh có một quy luật riêng, một gương mặt riêng, nhưng trong mỗi một cuộc chiến tranh Đảng ta đã vận dụng quy luật vào thực tiễn rất đúng đắn và sáng tạo.

Trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp, Đảng ta đã chủ trương một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện “trường kỳ khánh chiến, vừa đánh Pháp, vừa đuổi Nhật, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc”.

Chiến tranh chống xâm lược của đế quốc Mỹ, ở miền Nam, chúng ta đã thực hiện phương châm kết hợp “hai chân, ba mũi”, quân sự, chính trị song song, ba mũi giáp công. Trên chiến trường chúng ta phát động một cuộc chiến tranh du kích sâu rộng kết hợp với những chiến dịch, những trận đánh quy mô của quân chủ lực. Chúng ta đã xây dựng và phát triển mạnh mẽ ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, tiến công địch đều khắp trên cả ba vùng chiến lược: Rừng núi, nông thôn đồng bằng và đô thị, làm cho kẻ địch mất ăn mất ngủ. Ở đâu chúng cũng cảm thấy không an toàn, phải dàn mỏng lực lượng ra để đối phó. Chúng ta đã đưa chiến tranh vào thành phố, vào tận sào huyệt của địch ở Sài Gòn bằng lực lượng biệt động, tiêu hao địch ở các vùng ven khi chúng đi càn quét và tiêu diệt chúng ngay trong các căn cứ quân sự bằng những quả đấm quyết định của quân chủ lực ta.

Trong khi quân và dân ở miền Nam tiến công, làm thất bại từ âm mưu chiến lược này đến âm mưu chiến lược khác của đich, thì ở miền Bắc Đảng ta vẫn chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội và quyết tâm đánh thắng chiến tranh phá hoại của địch. Miền Bắc là hậu phương lớn của cả nước, với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược”.

Còn đối với cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trên biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia là một sự kết hợp giữa hai nhiệm vụ: nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế, với quan điểm của Đảng ta và nhân dân ta là “Giúp Bạn là tự giúp mình”.

Cuối năm 1986 đầu năm 1987, tôi về công tác ở sư đoàn bộ binh 179, bộ đội cách mạng Campuchia, làm chuyên gia cho đồng chí sư đoàn trưởng So Sa Vươn thay đồng chí đại tá Nguyễn Văn Giang. Đây là công việc mới mẻ đối với tôi. Điều trước tiên, tôi phải làm là tiếp xúc với đồng chí sư trưởng và gần gũi với các cán bộ cơ quan của Bạn, qua đó để nắm được thực chất về khả năng và những hạn chế của đội ngũ cán bộ Bạn ở đây. Đồng thời, bàn bạc thống nhất trong nội bộ chuyên gia của ta, để lập kế hoạch giúp Bạn, nhằm làm chuyển biển những mặt còn yếu trong năng lực tổ chức, chỉ huy tác chiến và các công tác khác.

Sau một thời gian ngắn, tôi đã nhận ra nhiều vấn đề có liên quan đến công tác chuyên gia giúp Bạn. Nhìn chung, đúng như đánh giá của Đảng ủy mặt trận về những băn khoăn, lo lắng của đội ngũ chuyên gia trước tình hình trên chiến trường và khả năng tự đảm đương công việc bảo vệ Tổ quốc của các lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia. Từ những băn khoăn lo lắng đó, đã có những tác động ngược lại… Hiện tượng bao biện làm thay, dù hình thức này hay hình thức khác, vẫn còn. Từ đó, đã gây cho Bạn tư tưởng ỷ lại và thiếu mạnh dạn trong công việc.

Sau khi triển khai một đợt sinh hoạt chính trị quán triệt nghị quyết của Đảng ủy Mặt trận về công tác giúp Bạn, tôi cùng đồng chí đại tá Vũ Đức Long - chuyên gia về công tác chính trị - đồng chí Vũ Đức Long thay đồng chí đại tá Nguyễn Văn Bạch chuyên gia trưởng về chính trị đi nhận nhiệm vụ khác - chúng tôi thống nhất với nhau một số công việc cần triển khai để tạo điều kiện cho cán bộ Bạn làm tốt chức trách của mình:

- Các chuyên gia chính trị giúp Bạn bồi dưỡng các nội dung về công tác Đảng - công tác chính trị, công tác thanh niên v.v… cho một số cán bộ chủ chốt. Từ đó, số cán bộ này sẽ tổ chức các lớp bồi dưỡng cho cán bộ chính trị ở cơ quan và đơn vị cơ sở.

- Các chuyên gia về quân sự giúp Bạn mở những lớp học ngắn ngày để bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ ở cơ quan tham mưu và các cán bộ quân sự cơ sở về các nội dung: Tổ chức và phương pháp huấn luyện chiến đấu, nguyên tắc chiến thuật tiến công, phòng ngự, kỹ thuật dò, gỡ và bố trí mìn, kỹ thuật bắn súng các loại…

Sau các lớp bồi dưỡng này, hướng dẫn cho Bạn làm giáo án để Bạn tự tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ và huấn luyện bộ đội thuộc quyền.

- Công tác chuyên gia về hậu cần-kỹ thuật cũng được tiến hành theo phương pháp như trên.

Từ đó, đội ngũ chuyên gia của ta cũng đã tự nâng cao được trách nhiệm và kiến thức của mình về các mặt công tác. Đội ngũ cán bộ của Bạn cũng đã chủ động được trong công việc giáo dục, huấn luyện và tổ chức quản lý bộ đội của mình được tốt hơn.

Cuối mùa khô năm 1987, tôi cùng với đồng chí sư đoàn trưởng sư đoàn bộ binh 179 bộ đội Campuchia đi kiểm tra tình hình ở các đơn vị phía trước dọc tuyến biên giới từ Đăng-cum đến Pôi Pét. Trên một tuyến dài 10 km chính diện, những năm trước, khu vực này đi lại gặp rất nhiều khó khăn. Đường đi từ Sơ-vai-chếch lên Đăng-cum, hai bên rậm rạp, địch thường hay phục kích, gài mìn. Đã có biết bao nhiêu đồng chí, kể cả bộ đội ta và Bạn thương vong trên con đường này. Mỗi lần cán bộ lên kiểm tra, đều phải tổ chức dò gỡ mìn địch, cho quân lùng sục hai bên đường, và chốt lại ở những nơi hiểm yếu, mới có thể đi được lên đó. Nhưng từ khi xây dựng được tuyến phòng thủ đến nay, hai bên đường đã phát quang, đường được nâng cấp, và nhất là từ khi căn cứ Đăng-cum bị triệt phá, kẻ địch chưa lần nào đột nhập được vào đây. Trên tuyến chiến hào chống tăng, bờ hào được đắp cao lên như một con đê. Bộ đội được bố trí trong các điểm tựa có công sự chắc chắn. Đứng trên bờ đê này ta có thể thấy rõ được đồng ruộng, làng mạc phía bên kia biên giới Thái Lan. Thời tiết cuối mùa khô mà dưới các đoạn hào chống tăng vẫn đề có nước. Những vườn rau xanh tốt nằm dọc theo đường hào, bên cạnh nhà bếp của các đơn vị. Đồng chí sư đoàn trưởng nói với tôi:

- Từ khi xây dựng được tuyến phòng thủ này, anh em sống ở đây thoải mái anh ạ! Lo nhất là nước, nhưng nay cũng đã khắc phục được rồi nhờ có con hào chống tăng này!

Chúng tôi đi tiếp lên hướng cửa khẩu Pôi Pét. Buổi chiều thấy một số bộ đội Bạn đang tưới nước cho vườn rau, một bộ phận thì đang ngồi trong các công sự nửa chìm, nửa nổi cảnh giới, trực chiến; còn lại thì đang chơi bóng chuyền… Thấy không khí sinh hoạt ở đây như vậy chúng tôi rất mừng.

Đến Pôi Pét, xe của chúng tôi dừng lại cách cửa khẩu khoảng 500 m. Ở đây có một tiểu đoàn bộ binh của Bạn đóng giữ. Chúng tôi đi bộ theo còn đường quốc lộ số 6 vào đến đầu cầu bên này biên giới. Nơi đây, trước kia đã diễn ra những trận chiến đấu quyết liệt. Chiếc cầu bắc qua biên giới giữa hai nước đã bị phá sập. Phía bên này cầu, cả hạ lưu và thượng lưu của con suối là những bãi mìn dày đặc. Hai bên đường các hố đạn pháo chồng lên nhau, cây cối ngổn ngang. Đã có lần quân lính của hai bên bắn nhau qua lại. Tôi còn nhớ cuối năm 1979, lính Thái Lan từ bên kia cầu dùng súng máy được bố trí trên một cái nhà hai tầng bắn sang bên này cầu. Lập tức ở bên này anh em bố trí sẵn mìn “định hướng” cho nổ làm mái ngói của phía bên kia bay mất một mảng. Từ đó đến nay, cả hai bên đều rất cảnh giác. Vì vậy mà lần này, chúng tôi rất vui mừng, ngạc nhiên trước một không khí yên tĩnh bao trùm lên khu vực của hai bên đầu cầu. Chỉ nghe thấy tiếng ve kêu mùa hè và cả tiếng gà gáy bên đất Thái Lan. Trên trận địa của bộ đội Campuchia được ngụy trang kín đáo và lực lượng canh gác luôn sẵn sàng chiến đấu. Tôi nói với đồng chí So Sa Vươn:

- Hiện tại khu vực này đang trong trạng thái chiến tranh, nhưng sau này có thể sẽ là nơi buôn bán sầm uất, qua lại giữa hai nước!

- Chúng tôi cũng đang mong được như vậy! - Đồng chí sư đoàn trưởng nói.

Từ những năm 1985 trở đi, nếu bạn vào các chợ ở Xiêm Riệp, Bát Tam Băng, hoặc các chợ lớn ở thủ đô Phnôm Pênh như cợ Ôk’xây, Olympic… thì hàng hóa Thái Lan đã tràn ngập thị trường Campuchia.

Nhà cầm quyền Thái Lan đã cho xây dựng dọc tuyến biên giới với Campuchia những khu vực tập kết hàng hoá. Những kho hàng đủ loại, cao ngất rồi tuồn qua thị trường Campuchia và sang đến cả Việt Nam bằng những con đường nhập lậu. Hồi đó, những ai đã công tác, chiến đấu ở Campuchia, khi về nước ít nhất cũng một lần đã vào các chợ này mua những món quà khi thì tút thuốc lá Sa-mít, lúc thì xấp vải Thái Lan đem về gia đình, hoặc tặng lại người thân. Đến khi giải quyết được vấn đề Campuchia, nơi đây sẽ là cửa khẩu quốc tế giao lưu buôn bán giữa hai nước.

Sau một ngày đi kiểm tra, chúng tôi đã cảm thấy yên tâm và suy nghĩ đến vấn đề đánh giá tình hình, khả năng chiến đấu và các vấn đề khác của Đảng ủy Mặt trận là hoàn toàn có cơ sở.

Tuy được chuyển sang làm công tác chuyên gia, nhưng tôi vẫn theo dõi tình hình diễn biến trên tuyến biên giới phía tây tỉnh Bát Tam Băng. Ở đó sư đoàn bộ binh 309 đang cùng với hai sư đoàn chủ lực của Bạn làm nhiệm vụ.

Từ khi sư đoàn bộ binh 309 rút về tuyến 2, bộ đội Bạn đã hoàn toàn đảm nhiệm quản lý trên tuyến biên giới đã hơn 1 năm qua. Tuy nhiên tình hình vẫn không có gì thay đổi. Bộ đội ta đã có một thời gian tương đối để củng cố lại thế bố trí, thường xuyên luyện tập các phương án, cơ động chi viện cho Bạn khi bị địch tấn công. Trong nội địa, các nhà máy, xí nghiệp vẫn tiếp tục sản xuất cho ra những sản phẩm. Sáng sáng trẻ em vẫn cắp sách đến trường, công nhân viên chức vẫn đến công sở làm việc. Trên các cánh đồng rộng lớn, những “con trâu sắt” chạy phăng phăng để lại phía sau những đường cày phẳng tắp, đem đến cho nhân dân nơi đây những vụ mùa bội thu… Nhìn thấy khung cảnh nhộn nhịp của một đất nước, có ai nghĩ rằng nơi đây vừa mới thoát khỏi cảnh địa ngục trần gian dưới chế độ diệt chủng của Pôn Pốt - Iêng Xa-ri - Khieu Xamphon?… Thế mới thấy được trong những năm qua quân đội ta cùng với nhân dân Campuchia đã nỗ lực rất lớn mới có được những thắng lợi như thế. Thắng lợi này là thắng lợi của “liên minh chiến đấu Việt Nam - Campuchia”, thắng lợi của mối đoàn kết truyền thống lâu đời giữa hai dân tộc, không một kẻ thù nào có thể phá vỡ nổi.

Đã đến lúc chúng ta hoàn thành sứ mệnh lịch sử, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế vẻ vang mà Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta giao phó.

Cuối năm 1988, theo sự thỏa thuận của hai Đảng và chính phủ Việt Nam - Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam chuyển giao toàn bộ nhiệm vụ cho quân đội cách mạng Campuchia và chính quyền các cấp của Campuchia để chuẩn bị cho việc rút quân về nước.

Trong những ngày tháng này, trên đất nước Campuchia, từ nông thôn đến thành thị đã diễn ra những hoạt động tuyên truyền cho việc rút quân về nước của quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam. Có biết bao những hình ảnh cảm động mà nhân dân Campuchia đã dành cho bộ đội Việt Nam và chuyên gia Việt Nam. Ở đâu hình ảnh tốt đẹp của anh bộ đội Cụ Hồ cũng sáng ngời lên trong lòng người dân Campuchia. Những cuộc liên hoan, họp mặt thâu đêm suốt sáng, những cuốn sổ ghi đầy những dòng lưu niệm cảm động: “Cảm ơn bộ đội Việt Nam đã cứu sống nhân dân Campuchia chúng tôi! Công ơn này chúng tôi nguyện suốt đời ghi nhớ”, “Liên minh chiến đấu giữa hai quân đội Campuchia - Việt Nam đời đời bất diệt!”, hoặc là “Chúng tôi sẽ trở lại đất nước này khi nhân dân Campuchia anh em yêu cầu”, “Cảm ơn các mẹ, các chị đã giúp đỡ rất nhiều cho bộ đội Việt Nam trong những năm qua! Việt Nam - Campuchia Xa-ma-ki!” v.v…

Giữa năm 1989, tất cả đội ngũ chuyên gia cơ bản đã rút hết về nước. Các đơn vị bộ đội tình nguyện trên các Mặt trận, trước khi rút về nước, còn để lại một số trung đoàn bộ binh hỗ trợ với Bạn hoạt động thêm một thời gian nữa. Trong số các đơn vị ở lại đó có trung đoàn bộ binh 31 thuộc sư đoàn bộ binh 309. Trung đoàn bộ binh 31 được đưa về đứng tại vị trí của sở chỉ huy sư đoàn - đập Pinh Puôi.

Trung đoàn bộ binh 31 ở lại một thời gian nữa phối thuộc cho Quân khu 9 tiếp tục hoạt động, đòi hỏi công tác Đảng - công tác chính trị phải đặc biệt quan tâm. Trong thời điểm này, nếu không xác định tốt cho bộ đội, thì dễ có những diễn biến phức tạp. Một lần nữa, trung đoàn bộ binh 31 luôn thể hiện là ngọn cờ đầu của sư đoàn bộ binh 309, xứng đáng với truyền thống hai lần Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Ngày 26 tháng 9 năm 1989, trước sự chứng kiến của quốc tế, quân tình nguyện Việt Nam rút khỏi Campuchia trong sự lưu luyến, tiễn đưa của Đảng, Chính phủ và nhân dân Campuchia.

Đây là một sự kiện có ý nghĩa nổi bật trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Campuchia và khu vực Đông Nam châu Á.

Trước ngày quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam rút quân, tại tỉnh Bát Tam Băng và nhiều nơi trên đất nước Campuchia tổ chức những cuộc mít tinh của các tầng lớp nhân dân Campuchia, ca ngợi công lao to lớn của quân tình nguyện Việt Nam chuyên gia Việt Nam trong 10 năm qua đã tận tình giúp đỡ cuộc cách mạng của nhân dân Campuchia đi đến thắng lợi, ca ngợi truyền thống lâu đời của hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.

Trên các phố phường từ thành thị đến nông thôn, quốc kỳ hai nước Việt Nam - Campuchia phấp phơi tung bay. Khẩu hiệu, biểu ngữ, áp phích… được giăng lên khắp nơi dưới ánh nắng vàng rực rỡ trên đất nước Chùa Tháp.

Để bảo đảm cho cuộc rút quân của ta được an toàn, trên các trục đường chính từ các tỉnh về thủ đô Phnôm Pênh, bộ đội Bạn và các lực lượng rút sau của quân ta đã được triển khai bảo vệ chu đáo.

Những hình ảnh cảm động trên đường rút về nước của quân ta đã nói lên tất cả tình cảm tha thiết của Campuchia, của nhân dân Campuchia đối với quân tình nguyện Việt Nam và chuyên gia Việt Nam. Có nhiều gia đình từ những vùng nông thôn, thành thị ở tận miền cực bắc và tây bắc Campuchia đã thức dậy từ sáng sớm để chuẩn bị hành lý đi theo, tiễn đưa bộ đội Việt Nam đến tận biên giới hai nước. Có nhiều người dân dã khóc ròng mấy ngày qua.

Tại cửa khẩu Mộc Bài, nơi diễn ra cuộc tiễn đưa của Đảng, Nhà nước và nhân dân Campuchia, và cũng là nơi đón tiếp của Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân ta đối với quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam thật cảm động… Những giọt nước mắt của nhân dân hai nước như hòa quyện vào nhau, làm cho những người lính chúng tôi mãi mãi không thể nào quên được.

Quân dội nhân dân Việt Nam đã hoàn thành nghĩa vụ quốc tế một cách vẻ vang…