Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - Phần II - Chương 3 - Phần 4

Phong trào tranh đấu chống thuế điền nổi lên, khi chủ tỉnh Rạch Giá hăm he truy tố vài người chủ điền ra tòa và mặt khác, gởi trát đòi từng người để thúc hối, cảnh cáo. Nhưng chủ tỉnh cho riêng Thống đốc Nam kỳ biết là không thể nào đòi được số thuế điền trong tỉnh còn thiếu lại là trên 135.000 đồng. Lại báo tin rằng điền chủ lớn đang xúi giục điền chủ nhỏ đừng đóng thuế điền năm 1905 rồi theo đà ấy, không đóng thuế luôn qua năm 1906.

Tòa án Rạch Giá đã xử làm gương hai vị điền chủ thiếu thuế. Lúc đầu, hương chức làng mời tới công sở, họ không thèm tới gặp. Ra trước tòa, họ tỏ thái độ ngạo mạn hơn. Khi được hỏi tại sao mà không tới gặp hương chức làng, họ nói thẳng là “chỉ vì họ không muốn đóng thuế, và chẳng có ai được quyền bắt buộc họ đóng”, nếu nhà nước đem phát mãi đất của họ, nhứt định là chẳng ai dám mua (ngụ ý là nếu mua thì sẽ bị họ trả thù). Chủ tỉnh Rạch Giá còn đưa ra đề nghị nên chia những tổng có diện tích quá rộng ra làm đôi, để có thêm cai tổng đi thúc thuế. Đồng thời, cương quyết phạt tù kẻ thiếu thuế, đem đất họ ra phát mãi, dán yết thị ở những làng lân cận để người giàu ở tỉnh khác đến đấu giá.

Để đối phó lại, 81 người “điền chủ lớn” ở Rạch Giá đồng ký tên vào đơn, trình cho chủ tỉnh để xin tha thuế năm 1905, đứng đầu là hai ông Trần Chánh và Huỳnh Thiện Kế (đơn ngày 29-4 năm 1906) với lập luận sắc bén:

– Muốn trở thành điền (tức là canh tác) một mẫu đất, phải nuôi tá điền 20 giạ lúa và vài ba đồng bạc là tối thiểu.

– Năm rồi (năm Thìn, 1904) chủ điền phải vay bạc của nhà băng Đông Dương mà nuôi nhân điền (tá điền).

– “Như hạt Sa Đéc là chỗ điền thổ đã khai mở lâu năm thành khoảnh mà nhà nước còn chuẩn cho các chủ điền đóng thuế hạng nhứt sụt hạng nhì, hạng nhì sụt hạng ba, còn hạng ba thì tha thuế trọn, huống chi là hạt Rạch Giá là hạt mới khai mở không đặng 10 năm, và phần nhiều trong số điền thổ khai phá không đặng 4 năm nay”.

– Nhà nước đã hứa miễn thuế cho điền chủ nghèo, còn với điền chủ lớn thì đợi lúa thóc gặt rồi, cho đóng 1/3. Nay xin tha trọn thuế, vì đất ruộng ở phía sông Cái Bé thất bát 7/10, nước vừa giựt xuống là bị nắng hạn.

– Yêu cầu nhà nước áp dụng luật Gia Long về tỷ lệ miễn thuế, luật này được nhà nước Lang Sa phê ưng và cho thi hành từ năm 1871: theo đó hễ ruộng thất mùa 1/10, không giảm thuế; ruộng thất 2/10, giảm 1/10; khi thất mùa đến mức 8/10 hoặc hơn nữa thì miễn trọn thuế.

Kết quả là Thống đốc Nam kỳ chịu miễn thuế cho những ai chưa đóng thuế năm 1904 mà thôi (tức là cho mùa gặt cuối năm 1903). Còn về hậu quả của bão lụt năm Thìn thì đóng y như cũ. Nhưng điền chủ ở Rạch Giá chưa chịu thua. Họ loan tin rằng nhà nước đã hoàn toàn miễn thuế, khiến cho một số điền chủ bấy lâu rụt rè lại hăng hái lên không thèm đóng.

Theo đề nghị của chủ tỉnh, Thống đốc Nam kỳ cách chức viên cai tổng và phó tổng tổng Kiên Tường (cả hai đều là người Miên) về tội phao tin thất thiệt là hoàn toàn miễn thuế. Thật ra, nhà nước chỉ chấp nhận miễn phần thuế quản hạt (budget local) mà thôi, chớ vẫn thâu trọn phần địa hạt và bách phân phụ trội (centiè additionnels).

Thống đốc lại cho một viên chủ tỉnh nhiều năng lực là Albert Lorin nghiên cứu vấn đề. Lorin phúc trình rằng Rạch Giá có 6 tổng, mỗi tổng đều quá rộng nên khó theo sát từng điền chủ để làm áp lực. Trong vòng hai năm mà ở Rạch Giá lại thay đổi 4 lần chủ tỉnh nên chánh sách không được liên tục. Theo ý kiến của Lorin, chỉ nên giảm thuế cho chủ điền nhỏ, chớ chủ điền lớn thì vẫn còn dư tiền để mua đất, khẩn đất thêm: Hiện tại, ở tòa Bố Rạch Giá còn đến 439 đơn xin khẩn một diện tích là 14.031 mẫu, chứng tỏ điền chủ bổn xứ hãy còn hăng hái trong việc làm ăn.

Năm 1911, tỉnh Rạch Giá trải qua một cơn mất mùa trầm trọng, nhà nước đành cứu xét miễn thuế, tuy miễn ít nhưng những ai lì lợm thì cũng bỏ luôn.

Cuộc tranh đấu trên đã bộc lộ một sự thật khách quan: vào năm 1905, giai từng điền chủ đã thành hình, có tinh thần chống Pháp nhứt là vào những năm kế tiếp khi đa số điền chủ lớn ở Nam kỳ đều hưởng ứng cuộc Minh Tân (phong trào Duy Tân) do Bùi Chi Nhuận và Trần Chánh Chiếu điều khiển, ủng hộ ông Phan Bội Châu và ông Cường Để. Điền chủ trong nước thấy rõ là thực dân pháp ngăn cản không cho họ tiến xa hơn để họ tự do kinh doanh, trở thành những chủ xưởng, những thương gia như ở bên Nhựt. Thực dân Pháp, thương gia Huê kiều (nắm độc quyền về mua bán, thao túng giá lúa gạo). Ấn kiều cho vay đều là những chướng ngại mà họ muốn san bằng.

Còn vài chi tiết cần ghi nhớ về vai trò của giới điền chủ, không riêng gì cho tỉnh Rạch Giá:

– Mua nhiều trâu bò từ Cao Miên đem về (từ tỉnh Tà-Keo) nhờ đó mà việc cày cấy thêm phát triển. Mua sắm nhiều ghe độc mộc từ sông Lớn (Cao Miên, Lào) giúp phương tiện vận tải.

– Thích sống xa hoa theo lối Pháp, tiêu thụ rất nhiều hàng hóa nhập cảng, nhất là rượu Tây.

– Vào những năm lúa có giá và giá lúa được vững (1928, 1929 luôn cả năm 1930), mức sống lên cao tột bực, điền chủ bực trung ở Hậu Giang dư sức cho con qua Pháp du học, có gia đình đi cả hai ba người, học siêng năng thì thành bác vật, bác sĩ; ăn chơi thì trở thành “công tử”.

– Một số không nhỏ điền chủ ở Rạch Giá là người Minh Hương hoặc Huê kiều. Người Huê kiều nếu làm điền chủ thì bị đồng hóa, trở thành Việt Nam trong vài năm (khăn đóng áo dài khi làm hương chức hội tề, cúng đình). Riêng người Huê kiều ở chợ chuyên nghề buôn bán thì giữ nếp sống riêng.

9. Về đời sống của tá điền

Tá điền chẳng có quyền tham dự sinh hoạt chính trị nào cả. Hương ấp, phó quản (gọi là hương chức nhỏ) do hương chức hội tề chỉ định. Hương chức làng thì do bọn hương chức chọn lựa lẫn nhau, giới thiệu bà con vây cánh, sau đó được cai tổng và chủ quận chuẩn y. Cai tổng và phó tổng, ban biện được cử do một số thừa sai (người thay mặt, délégué)); tùy theo số dân bộ mà mỗi làng được gởi nhiều hay ít, đổ đồng 50 dân bộ có một người. Các vị thừa sai thay mặt cho dân phải là hương chức làng (trừ xã trưởng, hương thân, hương hào), phó xã hoặc điền chủ. Hội đồng canh nông, hội đồng địa hạt hoặc hội đồng quản hạt (Conseil colonial) là chuyện riêng của một số hương chức làng và điền chủ đi bầu. Tóm lại, người dân nghèo chẳng bao giờ được đi bầu cử ai cả.

Hai gánh nặng cho tá điền là thuế thân và xâu (sưu). Thuế thân (impôt personnel) thời Pháp thuộc được quy định đồng đều (trừ những năm sau cùng của chế độ thực dân, chia ra người có hằng sản và người không có hằng sản). Thuế chánh chỉ là một đồng bạc nhưng dân phải đóng thêm một số tiền gọi là bách phân phụ trội cho ngân sách. Số bách phân này thay đổi tùy theo năm để cho ngân sách được quân bình chi tiêu. Ngoài ra mỗi người phải chịu năm ngày làm xâu, có thể chuộc bằng tiền, lại còn phụ thâu về thủy lợi, về rừng.

Nếu là dân ở xa tới, chưa vào bộ thì đóng thêm một số tiền gọi là thuế dân ngụ. Tính trung bình vào những năm đầu thế kỷ, thuế thân cộng thêm các khoản linh tinh vừa kể là 5 đồng, làng này đóng nhẹ nhưng làng kia lại đóng nặng. Nên nhớ là lúc bấy giờ lúa bán vài cắc một giạ, một đứa trẻ chăn trâu suốt năm chỉ được khoảng 10 đồng thôi. Có làng lại đặt ra thuế nóc gia hoặc quy định tiền chuộc công sưu (đóng tiền để khỏi đi làm sưu) với giá quá cao, thí dụ trường hợp làng Vĩnh Hòa Hưng, tổng cộng là 8 đồng 3 xu về thuế thân, năm 1914.

Số đông tá điền không đóng nổi thuế thân hoặc không muốn đóng vì suốt năm họ không có việc gì để đi ra khỏi làng. Thỉnh thoảng lính mã tà vào làng xét hỏi, dân lậu thuế (gọi là trốn xâu lậu thuế) chạy trốn ngoài ruộng hoặc vô rừng mà ẩn náu. Bị bắt về tội thiếu thuế thân là 5 ngày tù với 15 quan phạt vạ. Khi mãn tù phải đóng thuế, ai không tiền thì làm cu-li cho nhà nước tại chợ lấy tiền mà bù vào.

Người nào trốn thuế quá lâu mà muốn vô bộ thì hương chức giải quyết bằng cách ăn hối lộ rồi cấp cho một giấy thuế thân mà làng đã xin cho người khác (nhưng người ấy đã trốn, bỏ làng). Trường hợp thay đổi tên họ như thế thường xảy ra. Gặp năm mất mùa hễ không đóng nổi thuế thân và không trả được địa tô cho chủ điền thì cứ trốn qua xứ khác mà làm ruộng lưu động, để rồi tiếp tục dời chỗ (gọi nôm na là làm ruộng dạo, làm ruộng hàng xáo).

Ngao ngán nhứt cho người dân là việc làm xâu (sưu). Trong những năm cần đào kinh hoặc đắp đường, nhà nước trưng dụng quá thời hạn 5 ngày mà luật đã định. Cai tổng và hương chức lợi dụng để bắt nạt tống tiền, ai muốn ở nhà thì lo hối lộ. Mãn hạn thì người làm xâu được về nhưng hương chức thường bắt buộc làm thêm vài ngày (trường hợp làm đường lộ Rạch Giá – Hòn đất năm 1905) (E/6). Năm 1911, khi bày việc đào kinh từ rạch Cái Su đến rạch Thứ Nhứt, dân phải làm đến 20 ngày, tự túc đem theo ky, cuốc, xuổng, gạo, nhà nước không cấp phát gì cả (E/7). Trong vài trường hợp nhà nước có cấp phát tượng trưng bằng tiền mặt. Người ở gần sông, đặc biệt là ở phía sông Cái Lớn hoặc Cái Bé tiếp giáp qua Cần Thơ lại phải làm xâu vớt lục bình, đề phòng sông rạch bị chận nghẹt, ghe thuyền khó qua lại (E/3). Thời thực dân hễ gom dân làm xâu, trong văn kiện làng công khai gọi là “đuổi dân xâu ra nhà việc”. Khi phóng lộ hoặc tiếp tay với nhơn viên Công chánh đắp lộ, dân phải làm cu-li với giá rẻ, nhiều người trốn.

Người Miên khổ cực hơn người Việt. Trong những địa phương người Miên quá đông, hương chức làng đa số là người Miên. Họ cai trị theo lối phong kiến đặc biệt. Khi bị đòi tới làng, tới quận là họ sợ bị tù. Khi cần hợp thức hóa đất ruộng mà họ dày công khai phá, họ lại vắng mặt. Họ ít khi dám đòi hỏi quyền lợi chánh đáng, thà chịu thua thiệt mà được ở nhà.

Thực dân Pháp khinh thường người Miên ra mặt. Trừ một số ít người mang họ (Sơn, Thạch...) do ông bà truyền lại từ đời Tự Đức, hoặc lai Tàu (họ Trần, họ Lý nhưng không có chữ lót) thì tất cả đều không họ. Trong bộ sổ, cứ gọi là tên này tên kia (Danh), đàn bà thì gọi là Thị.

Trong công tác khẩn hoang, người Miên góp công lao đáng kể. Họ làm công hoặc làm tá điền cho người Việt, dầm mưa dãi nắng rất dẻo dai, sở trường của họ là chèo ghe, đốn tràm, đào mương, tát đìa bắt cá. Đàn bà Miên giỏi về cấy và gặt lúa, gặt cấy rất kỹ lưỡng và vén khéo tuy chậm chạp. Gia đình Miên nào nghèo thì khó tả: ngủ nóp, hoặc ngủ trần với bếp un, ở nơi muỗi mòng mà nhiều đứa trẻ từ khi lọt lòng đến tuổi mười hai mười ba vẫn ở trần ở truồng, không biết áo quần là gì, ăn uống quá đạm bạc. Vài người đã mất đất vì ham cờ bạc, quá cao hứng lúc uống rượu say nên sẵn sàng điềm chỉ vào bất cứ giấy nợ hoặc giấy bán đất. Về thuế thân thì mười người trốn hết bảy tám.

Đặc biệt là ở Rạch Giá, người Huê kiều lại tích cực khẩn hoang với sở trường là làm rẫy ở đất giồng ven sông Cái Lớn và Cái Bé (những giồng này gọi là thanh lang). Họ có mặt tại xứ Rạch Giá từ đời Mạc Cửu nhưng con cháu số người cố cựu ấy đã trở thành Việt Nam từ lâu rồi. Đợt người sang cư trú khi Pháp đến gồm đa số là người Triều Châu. Theo bảng kê khai (F/4) vào tháng giêng năm 1906, tỉnh Rạch Giá có:

Quảng Đông: 266 người

Hẹ (Akas): 17 người

Hải Nam: 331 người

Phước Kiến: 108 người

Triều Châu: 876 người

Người Triều Châu làm rẫy cư ngụ thành xóm đông đúc, siêng năng không ai bì kịp, ăn ít, làm việc thì nhiều, bất chấp giờ giấc. Khóm (thơm) ở Tắc Cậu, khoai lang ở Ngã Ba Đình, khoai lang ở Trà Bang (Long Mỹ), ổi ở Bến Nhứt một dạo nổi danh toàn cõi Hậu Giang. Đa số nghèo khó, không được quyền làm thừa sai (délé gué) để bầu cử ông Bang, vì muốn làm thừa sai thì phải có hằng sản, đứng bộ điền hoặc đóng thuế môn bài. Họ cưới vợ Việt, gặp năm rẫy thất mùa, đời sống nói chung là cơ cực vì còn phải trả tiền mướn đất rẫy.

Thuế thân của Hoa kiều cao gấp ba lần thuế của người Việt. Người nào làm ăn khá, còn sức khoẻ thì Bang trưởng đứng ra bảo đảm đóng thuế giùm, sau này trả lại. Nhưng gặp trường hợp quá nghèo, đau yếu thì chẳng ai dám bảo lãnh giùm cả. Thiếu thuế nhiều năm liên tiếp, theo luật là bị trục xuất về Trung Hoa. Người thiếu thuế 4 năm nếu bị bắt thì phải đóng 62 đồng, cộng thêm 30 đồng tiền phạt. Một số làm ăn thất bại, trốn xuống tàu buồm Hải Nam mà đến xứ khác như qua Xiêm, Mã Lai, rủi bị trục xuất về Tàu thì xảy ra cảnh chồng Bắc vợ Nam. Huê lợi về rẫy không được bền, sau năm bảy năm, họ trồng các loại khác, kém huê lợi hơn vì đất lần lần mất chất màu mỡ. Người quá nghèo không còn bà con bên Tàu thì cố gắng ở lại xóm rẫy. Trong trường hợp thiếu thuế, họ đành tự giam hãm trong làng, lo hối lộ từng chập cho hương chức hội tề để khỏi bị bắt. Hoặc dời chỗ, cải trang như trường hợp của người mang tên là Trần Văn Sơn, 60 tuổi, người Triều Châu (T/6) để búi tó, mặc quần áo như người Việt Nam bị bắt vào tháng chạp 1914 ở Gò Quao vì bị tình nghi là theo Thiên Địa Hội. Ông này khai thật rằng qua Việt Nam hồi năm 38 tuổi, ở Bạc Liêu làm ăn 3 năm, ở Cần Thơ 8 năm, ở Cà Mau 3 năm, ở Rạch Giá từ 3 năm qua nhưng rốt cuộc làm ăn không khá, đành mua tấm giấy lão của người Việt tên Phạm Văn Lê. Vì sợ tung tích bại lộ nên ông ẩn lánh ở sốc người miên.

Về tình trạng của nông dân nghèo năm 1908, nhà cách mạng Trần Chánh Chiếu cũng là điền chủ lớn ở Rạch Giá đã viết bài đăng trên tờ Lục Tỉnh Tân Văn số 42, tháng 9-1908 (hai tháng sau là ông bị bắt vì việc vận động Đông Du). Bài lấy hai câu thơ “Nhị ngoạt mại tân ti. Ngũ ngoạt khiếu tân cốc” làm nhan đề.

“Người Nhiếp di Trung làm bài thơ Mảng Nông có câu thơ rằng: tháng hai bán tơ mới, tháng năm bán lúa sớm, cắt thịt vá ghẻ nghĩa là đỡ ngặt vậy chớ khổ cũng hoàn khổ.

Thương hại cho dân nghèo ra thân đi làm tá điền, vì trong tay không có nghề sản nên mới chui đụt đỡ giấc, nói tiếng làm ruộng chớ kỳ trung đi kiếm ăn cho qua ngày tháng. Làm ruộng gì mà mãn nhứt đại không có dư một hột lúa dính tay, lẽ thì ba năm làm mới có một năm thiếu ăn, có đâu hụt trước thiếu sau, lúa gặt vừa rồi đã đi lãnh ruộng giao (1), lãnh công cấy công phát.

(1) Một hình thức cho vay. Đầu mùa con nợ lãnh tiền trước rồi cày, bừa, dọn cỏ, sau khi cấy xong thì giao lại, để cho chủ nợ gặt hái huê lợi. Tùy theo số tiền nợ mà số ruộng giao nhiều hay ít.

Một năm 12 tháng, làm ruộng thật sự có bốn năm tháng còn bảy tám tháng dư linh làm nghề chi? Vì không có nghề trong tay nên mới rủ nhau đánh cờ chó, hoặc đi coi đánh cờ bạc, chà lết mòn quần rách áo.

Thương ôi, dốt đặc hơn cá tôm, vụng về hơn trùng dế. Dân nước khác tiếc tới giờ tới phút như tiền bạc, dân nước mình phí ngày tháng như nước trôi.

Uổng thay, từ già tới trẻ, từ nam tới nữ đều luống những đêm ngày. Nghe ai cho vay thì mừng hớn hở, hỏi rồi nào lo trông trả. Vì vô nghề nghiệp nên mới sanh tệ trong xứ như thế. Làm người phải biết thương cái thể diện của mình.

Kẻ thương quê hương phải hết sức giúp cho nền công nghệ thì có ngày trừ đặng việc tình tệ mới bày tỏ trước đó.”

Hơn 20 năm sau, vài học giả Pháp nghiên cứu tình hình kinh tế, tình hình đất đai miền Nam, cách khẩn hoang ở Hậu Giang, vấn đề cho vay, việc phân phối đất đai... rồi đưa ra vài biện pháp “xây dựng”. Nhưng gẫm lại, việc nghiên cứu của họ chỉ là thương vay khóc mướn, không tiến bộ bằng bài báo trên. Vấn đề chánh là tá điền sống trong tình trạng bán thất nghiệp, ruộng một mùa, độc canh; kỹ thuật thì không hơn thời vua Tự Đức, nếu không nói là thời Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp.

Bi thảm nhứt là năm mất mùa, bao nhiêu lúa phải gom lại để trả địa tô để rồi xuất cảng, trong khi “những người mạnh khỏe, nếu tìm được công việc làm (làm mướn trong xóm) cũng khó đủ tiền để mua gạo ăn trong ngày, vì giá lúa cứ tăng lên tại địa phương” (2).

(2) Bulletin de la Chambre d’Agriculture, số 138, năm 1912, trang 10, 11.