Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - Phần II - Chương 5 - Phần 2

3. Cuộc đấu tranh của trí thức Cần Thơ

Đây là phong trào Duy Tân (gọi là cuộc Minh Tân) do Gilbert Trần Chánh Chiếu cầm đầu.

Cần Thơ là nơi mà giới điền chủ Việt có truyền thống văn hóa cao, tuy kém các tỉnh miền trên như Mỹ Tho, Tân An nhưng đứng vào hàng đầu các tỉnh Hậu Giang. Người ở Cần Thơ liên lạc dễ dàng với các tỉnh miền trên. Đặc biệt là giới công chức Cần Thơ có tinh thần dân tộc, đến mức khiến thực dân Pháp phải khó nghĩ, lo ngại.

Phong trào Đông Du lôi cuốn con nhà khá giả ở Bình Thủy và Trà Ôn (nơi giáp ranh vùng Tam Bình). Lão sư Nguyễn Giác Nguyên ở chùa Nam Nhã (chùa Minh Sư, Bình Thủy) được ông Cường Để phong cho chức chủ tỉnh Cần Thơ nếu việc lớn được thành. Về mặt công khai, phong trào Duy Tân khá rầm rộ. Nhân sĩ yêu nước thời bấy giờ lập Hội khuyến học Cần Thơ (1) vào ngày 23-3-1906.

(1) Société d’Enseignement Mutuel des Annamites de Cần Thơ.

Trên điều lệ, mục đích của hội là giúp hội viên học hỏi trau giồi kiến thức về ngôn ngữ, văn hóa của nước Pháp bằng mọi phương tiện. Hội trưởng hội này là Võ Văn Thơm, hai ông phó Hội trưởng là Hồ Hưng Nhường và Nguyễn Háo Văn. Vì chê thành phần Hội khuyến học Sài Gòn lúc bấy giờ kém tích cực và cũng vì muốn hoạt động riêng nên Hội Cần Thơ không tán thành việc gia nhập vào Hội khuyến học Sài Gòn (20 phiếu chống, 2 phiếu thuận). Ông Nguyễn Háo Văn là chiến sĩ đắc lực của phong trào Duy Tân. Về sau, khi vụ án Gilbert Chiếu phanh phui ra, ông bị cách chức vào ngày 19-4-1909 (ông là thư ký hạng nhứt). Và ba ngày sau thực dân cũng cách chức ông tri phủ Nguyễn Công Luận ở Sa Đéc, ông Huỳnh Công Bền tri phủ Cai Lậy, ông Phạm Văn Bảy tri huyện ở chợ Mỹ Tho bị can đồng một tội.

Tuy nhiên, vì không dám khuấy động quá mức, thực dân lúc bấy giờ có thái độ tương đối hòa hưỡn, ông Nguyễn Văn Háo rút đứa con trai đang du học bên Nhựt về, cho tiếp tục học tại Saint Joseph English College Hong Kong (đây là ông Nguyễn Háo Vĩnh, có công trong việc chấn hưng ngành xuất bản sách ở miền Nam).

Trong bài diễn văn đọc kỳ đại hội của Hội khuyến học Cần Thơ ngày 10-1-1908 (E/3), ông Hội trưởng Võ Văn Thơm công khai đề cao tinh thần dân tộc, cổ xúy người Việt nên hăng hái, bớt lười biếng, đứng lên tranh thương với Hoa kiều và Ấn kiều, và trong hiện tại, họ đã nể nang người Việt. Lời lẽ trong bài diễn văn này không dính dấp gì với mục đích của Hội là “phổ biến văn hóa Pháp” cả.

Khi báo cáo cho Thống đốc Nam kỳ về tình hình trong tỉnh, lần lượt các viên chủ tỉnh ở Cần Thơ thú nhận như sau:

Báo cáo năm 1908 - 1909 của L. de Natra: Chủ tỉnh Cần Thơ hồi năm ngoái nhận định rằng “vụ án Gilbert Chiếu và đồng bọn không gây phản ứng gì rõ rệt đối với nhân tâm trong tỉnh. Tuy nhiên, ta phải nhìn nhận rằng một số đông kẻ liên can trong vụ án đều là quê quán ở Cần Thơ. Họ đang bị giam để chờ ngày ra trước tòa án Mỹ Tho...”.

Chủ tỉnh de Natra nói là những biến cố năm 1908 chứng minh một cách khá rõ rệt rằng dân Nam kỳ bấy lâu chỉ lo làm ăn và cầu mong được yên ổn, lại bị xúi giục. Đa số người đi xúi dục này đều là những kẻ thọ ơn nhà nước Pháp. “Người bổn xứ, mà ta có thể tin cậy là trung thành với chế độ đã tìm mọi cách mà họ có thể có được để chuẩn bị khởi loạn”.

Báo cáo năm 1909 - 1910: Từ khi xảy ra vụ án Gilbert Chiếu tới nay, chẳng có sự việc gì nổi bật, đáng ghi... “Nhưng khi tiếp xúc với người bổn xứ, ngay đến những người đã từng phục vụ nhà nước Pháp một cách hữu ích, ta phải giựt mình vì thái độ chỉ trích của họ đối với tất cả những gì liên quan đến chính quyền thuộc địa, một lối chỉ trích mỉa mai, cay cú”.

Báo cáo năm 1910 - 1911: “Không có cuộc biến loạn, không có sự bộc lộ cụ thể nào xảy ra. Tuy nhiên, dưới bề ngoài yên ổn này ta nhận ra một cách dễ dàng là còn một phần của dân chúng – may thay số người này không đông đảo cho lắm – họ có thái độ đối lập và thái độ chỉ trích không nhân nhượng, tận gốc, đối với tất cả những gì của chánh quyền, những gì xuất phát từ phía người Pháp”. (...) “Gilbert Chiếu được tòa xử miễn tố, vì vậy mà họ càng lừng lẫy hơn, lại còn một số người đồng lõa trong vụ án cũng được miễn tố. Dân trong tỉnh đủ sức đóng thuế, nhưng tình hình bên Mãn Châu đã có ảnh hưởng ở toàn cõi Viễn Đông. Cầm đầu nhóm chống đối chính quyền, có nhiều viên thư ký hoặc quan lại đã bị cách chức, họ đang sống ngày qua ngày”.

Thiên Địa Hội phát triển đặc biệt ở vùng Rạch Giá. Tháng 5-1909, nhà nước phát giác từ 300 đến 400 người gia nhập hội, chừng 15 người cầm đầu bị đưa ra tòa. Năm 1910 – 1911, chủ tỉnh Cần Thơ lại bực mình vì sau 50 năm thống trị của người Pháp mà những hội như thế ấy tại sao lại có thể tồn tại và phát triển? Theo viên chủ tỉnh này, lý do chánh là sự bất lực của các tòa án đã xử phạt quá nhẹ nên dân không sợ.

Một tài liệu (2) khám phá tổ chức Thiên Địa Hội ở vùng Cần Thơ thuộc về Nghĩa Hòa đoàn (gọi theo giọng Tàu là Dì Hóa). Về cách tổ chức thì giống như các nhóm Thiên Địa Hội khác, với chủ soái, phó chủ soái, chánh chủ hương, phó chủ hương. Hội viên lấy bí danh, theo họ của các vị ngũ tổ thời trước như Vạn Vân Long, Hồng Vạn Chương. Chỉ trừ một số người Huê kiều làm chánh chủ soái, còn bao nhiêu đều là hương chức. Đặc biệt là về chức vụ thảo hài, hồng côn, bạch phiến, có riêng một người là võ bạch phiến, một người là văn bạch phiến, văn thảo hài, võ thảo hài. Phải chăng họ chú trọng đến vấn đề quân sự để khởi nghĩa trong ngày gần nhứt?

(2) E/10.

Vào những năm 1907, vùng biên giới tỉnh Cần Thơ xảy ra nạn cướp bóc, chuyên đánh ghe buôn và những chủ điền ở nơi hẻo lánh. Cần Thơ gồm đất đai ở hai bên bờ Hậu Giang, giữa sông lại có cù lao, bọn cướp hoành hành nơi giáp ranh với Sóc Trăng, Vĩnh Long, Long Xuyên, Rạch Giá. Cầm đầu bọn cướp gồm những tay khét tiếng đầy đủ bản lãnh, nổi danh nhứt là Sáu Nhỏ. Theo lịnh của cấp trên, các làng được phép truy nã bọn cướp qua làng bên cạnh, mặc dầu khác tỉnh. Vì bọn chúa đảng lần hồi sa lưới nên các vụ cướp giảm lần từ 43 vụ, khoảng 1906 – 1907, sụt còn 14 vụ, khoảng 1908 – 1909.

4. Lộ xe, chợ phố và trung tâm ngã bảy (Phụng Hiệp)

Nhiều con kinh tiếp tục đào nối liền các rạch nhỏ trong tỉnh, quan trọng nhứt là công trình mở mang đường giao thông ở cánh đồng Phụng Hiệp mà trước kia người Pháp gọi là Plaine des Roseaux. Đất Cần Thơ phía tả ngạn Hậu giang đã có dân cư từ lâu. Phía hữu ngạn là đất tốt tuy hoang vu đầy lau sậy nhưng dầu sao đi nữa với địa thế tương đối cao (so với Châu Đốc hoặc Rạch Giá), với phù sa nước ngọt (dễ trồng hoa màu phụ), nhứt là gần đường giao thông về Sài Gòn (lúa bán có giá) thì vẫn là nơi lý tưởng mà ai cũng muốn bám vào, không xong thì mới xuống Rạch Giá – Cà Mau là nơi đất thấp, nhiều muỗi mòng.

Liệt kê việc đào kinh ở tỉnh Cần Thơ là điều rắc rối vì nhiều con kinh đào đợt đầu, rồi đợt nhì nối dài rồi mở rộng, rồi vét lại cho sâu nhiều lượt.

Nên chú ý là số dân xâu dùng vào việc đào kinh nhỏ khá nhiều, cực khổ nhứt là dân vùng Rạch Gòi (về sau quận lỵ dời về Ngã Bảy – Phụng Hiệp).

Chuyên viên thủy nông nghiên cứu không chính xác. Lắm vùng đất làm ruộng được, nhưng bỗng nhiên lại trở thành đất thấp, bị ngập lụt triền miên chỉ vì ảnh hưởng của mấy con kinh đào lân cận. Trong trường hợp ấy, dân làng và điền chủ phải tự nguyện xin làm xâu, đào thêm kinh phụ để cứu nguy cho ruộng đất của mình.

– Đào kinh Trà Ết (1902), đào kinh Bà Thậm qua Tân Lược (1899), vét lại năm 1904.

– Đào kinh từ ngọn Cái Bé qua Thốt Nốt từ 1908 đến 1910.

– Vét kinh Nhiêu Sự để nối liền Bò Hút qua Sa Đéc (1909).

– Vét kinh Vàm Bi (1909 – 1910), điều chỉnh lại kinh Ô Môn qua ngọn sông Cái Bé (1911

– 1912).

– Đào kinh Xẻo Vông (1908 – 1912).

Năm 1911, vào ngày 9-4, quận Rạch Gòi có đến 2.150 dân xâu làm việc thường trực để đào kinh. Riêng về rạch Ông Rầy (nối qua Rạch Giá) dùng đến 1.230 dân xâu. Năm 1910, quận Ô Môn cung cấp 3.250 dân xâu (Định Thới: 1.130 người, Thới Bảo: 2.120 người). Việc đào kinh không theo nguyên tắc mà luật lệ đã định (5 ngày) nhưng là làm khoán, trung bình mỗi chuyến làm xâu, mỗi người phải đào cho xong chừng 15 thước khối đất.

Năm 1909, một kế hoạch có ích lợi thực tế được thực hiện, đó là đào con kinh ngắn, cắt ngang cù lao Mây (coupure cù lao Mây) để ghe chở lúa từ phía Phụng Hiệp đi tắt qua vàm Trà Ôn, khỏi đi vòng quanh phân nửa cù lao như trước.

Lộ xe từ Cần Thơ đi Sóc Trăng, đi Long Xuyên, đi Vĩnh Long cứ đắp từ từ, dùng dân xâu và cu-li mướn rẻ tiền, từ năm 1908 về sau. Bấy giờ chưa có hủ-lô chạy máy nên dân phải thay phiên nhau đẩy “ống cán” để cán đá. Đá đã tới bến thì dùng sức người để đẩy xe rùa trên đường rầy bằng sắt mà đưa tới chỗ cán, hao tổn sức lực. Khi làm đường lộ, có cai và đội lục lộ trông coi, ai lười biếng thì bị rầy la, ai muốn trốn về nhà thì cứ lo hối lộ. Nhà nước phát chừng 4 cắc bạc mỗi ngày, nhưng tiền này thường bị ăn bớt (1).

(1) E/5, E/10, E/12.

Cánh đồng Phụng Hiệp lần hồi có nhiều kinh quy tụ về một trung tâm, gọi là Ngã Bảy (Etoile de Phụng Hiệp).

Voi rừng bị bắn chết, một mớ thì bị mấy thày ngải từ Nam Vang tới bắt; nhà nước đã xuất ra 241 đồng để thưởng mấy thày ngải này (2).

(2) T/1893-1910.

Có thể nói khoảng 1908 – 1909 là những năm lạc quan nhứt về mặt phát triển, xây dựng cơ cấu kinh tế: cất xong nhà chợ (chợ cá) tại chợ Cần Thơ, ráp nhà lồng chợ mới ở Cái Răng, nhà lồng chợ Cái Răng thì bán cho chợ Ô Môn, nhà lồng chợ Ô Môn thì bán cho chợ nhỏ hơn là chợ Rạch Gòi.

Cuối năm 1910, nhà thầu đã cẩn xong bờ sông Cần Thơ (chỗ vàm rạch Cái Khế): cẩn bằng cừ cây, lót vỉ sắt, tráng xi-măng bên ngoài cho nước không làm lở và đồng thời cẩn đá luôn bờ sông tại chợ.

Năm 1911, chỉnh đốn lại mấy “mũi tàu” rạch Cái Vồn Lớn, Cái Vồn Bé và bờ rạch Trà Ôn. Mấy nẻo yết hầu này là đường chở lúa gạo từ Hậu Giang qua Tiền Giang; dùng kỹ thuật đặc biệt, cẩn từng cục xi-măng cứng (gọi là cuirasse Decauville) để khỏi bị nước xoáy làm lở bờ. Năm 1908, chủ tỉnh Outrey đưa ra kế hoạch biến Phụng Hiệp trở thành một thương cảng (port fluvial).

Xáng đào thêm con kinh nối Phụng Hiệp với Sóc Trăng, năm 1901.

Bấy lâu, lúa từ Cà Mau chở lên Mỹ Tho rồi lên Sài Gòn theo con đường quanh co, không thuận lợi: từ Cà Mau theo kinh lên Bạc Liêu, qua Cổ Cò, Sóc Trăng, ra Đại Ngãi, vượt Hậu Giang rồi theo con rạch Tiểu Cần đến Láng Thé, rồi qua Tiền Giang đến Mỏ Cày, qua Bến Tre rồi Mỹ Tho. Năm 1914, kế hoạch đào kinh Quan Lộ được nghiên cứu và thi hành gấp, nối liền Cà Mau thẳng lên Phụng Hiệp để từ đó qua Cái Côn rồi qua Trà Ôn, con đường rút ngắn hơn nhiều. Ngoài ra, hai bờ kinh Quan Lộ sẽ quy tụ dân đến khẩn đất, nhà nước thêm lợi.

Năm 1915, quận lỵ Rạch Gòi dời đến Ngã Bảy – Phụng Hiệp, gọi là quận Phụng Hiệp. Đây là quận thành hình giữa vùng lau sậy hoang vu, sau 10 năm đào kinh xáng, nằm trên đường thủy từ Cà Mau ra Hậu Giang, đem lúa và sản phẩm lên Sài Gòn.

Trên những nét chánh, việc khẩn hoang được hoàn tất, khi đường thủy nắm ưu thế. Qua trận thế chiến thứ nhứt, đường bộ bắt đầu phát triển. Cần Thơ vẫn nắm giềng mối của các tỉnh giàu có như Sóc Trăng, Bạc Liêu (và Cà Mau). Đồng thời phân nửa tỉnh Rạch Giá cũng nhờ Cần Thơ mà đến Sài Gòn theo đường bộ ngắn nhứt.

Nhờ dân đông đúc nên việc giáo huấn ở Cần Thơ phát triển mạnh hơn các tỉnh khác ở Hậu Giang. Năm 1903, đã lập trường nữ tiểu học với một nữ giáo viên người Pháp cai quản, trường dạy thêm môn thêu thùa và có bàn máy may biểu diễn cho học sinh và cha mẹ học sinh xem.

Từ năm 1910, dân ở Cần Thơ và ở Trà Ôn được xem chiếu bóng (chiếu bóng câm) do nhóm Batissou cho chiếu lưu động những phim ngắn, khôi hài hoặc thời sự khoa học. Năm 1917, An Hà nhựt báo ra đời tại Cần Thơ, đó là ấn bản chữ Việt của tờ Courrier de l’Ouest cũng ra mắt tại Cần Thơ.

Năm 1926, trường Trung học Cần Thơ (Collège de Cần Thơ) nhận học sinh năm đầu tiên (lớp thứ nhứt).