Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - Phần II - Chương 5 - Phần 1

V– CẦN THƠ, ĐẦU CẦU VÀ THỦ ĐÔ CỦA HẬU GIANG

1. Vài nét lớn

Vùng Cần Thơ thời Mạc Thiên Tứ mang tên là Trấn Giang, vào năm 1793. Mãi đến khi người Pháp xâm chiếm, Cần Thơ là vùng không quan trọng. Ngọn rạch Cần Thơ ăn thông qua sông Cái Bé rồi ra vịnh Xiêm La nhưng không rõ rệt. Đời Tự Đức, Đại Nam Nhất Thống Chí mô tả khúc đường ấy: “Cuối đông qua xuân, nước khô bùn cứng ghe thuyền qua lại không được, từ mùa hạ qua đông, nước mưa tràn bờ thì ghe thuyền cỡi lên trên cỏ và bèo mà đi, cứ trông theo phía tả hay phía hữu rừng cây mà nhận dấu đường. Nơi đây không có bóng người, có rất nhiều muỗi và đĩa, người qua lại rất khổ sở” (1). Tóm lại, Cần Thơ chỉ đông đúc ở phía sát bờ Hậu Giang.

(1) ĐNNTC, Hạ, 59.

Về giao thông và kinh tế, từ đời họ Mạc đến lúc người Pháp đến, lúa gạo ở Rạch Giá và ở Cà Mau thì xuất cảng cho những ghe Hải Nam vào chợ Cà Mau và Rạch Giá; lúa gạo ở Sóc Trăng và Ba Thắc thì bán theo cửa Ba Thắc (bản đồ Pháp ghi là cửa Tranh De, chắc là do chữ Trấn Di, đọc trại rồi âm lại). Vùng Cần Thơ chỉ là những xóm sung túc bên rạch Cần Thơ và rạch Bình Thủy, phía bắc là vùng Ô Môn có đất giồng khá tốt.

Đời Gia Long, Cần Thơ thuộc về huyện Vĩnh Định, năm Minh Mạng thứ 13 (1832) nhập qua phủ Tân Thành (do Sa Đéc cai quản).

Vùng Ô Môn đời Tự Đức (và có lẽ từ các đời trước) là khu vực ít nhiều tự trị của người Miên nên Đại Nam Nhất Thống Chí gọi là “thổ huyện”.

Thoạt tiên người Pháp đặt Cần Thơ (vùng rạch Cần Thơ và Ô Môn) là hạt nhưng không quan trọng bằng hạt Long Xuyên (Đông Xuyên) hoặc Sóc Trăng. Nghị định ngày 30-4-1872 lại đặt ra Trà Ôn, phần đất của Cần Thơ nhập qua Trà Ôn. Hạt Trà Ôn lại bị giải tán để rồi ngày 23-2-1876 tái lập hạt Cần Thơ với chợ Cần Thơ là tỉnh lỵ; Trà Ôn chỉ còn vai trò quận lỵ, nhưng là quận lỵ quan trọng nhứt nhì của tỉnh.

Pháp không lầm khi chọn Trà Ôn làm trung tâm quan trọng. Việc bán lúa gạo ra nước ngoài lần hồi không còn do các hải cảng Cà Mau, Rạch Giá (phía vịnh Xiêm La) hoặc Bãi Xàu (bờ Hậu Giang) đảm nhận như trước nữa. Ghe buồm Hải Nam tuy to, chở nặng nhưng làm sao cạnh tranh nổi với các tàu sắt, chạy máy của Tây phương tại bến Sài Gòn.

Tàu máy chở gạo qua Hương Cảng với giá vốn nhẹ hơn. Dầu muốn hay không, lúa gạo miền Sóc Trăng cũng phải mượn đường Trà Ôn để đem bán tại Chợ Lớn. Rạch Trà Ôn nối qua sông Mân Thít bên Tiền Giang, con đường mà trước kia Nguyễn ánh và Tây Sơn giành nhau quyền kiểm soát.

Quan cai trị Pháp biết nhìn xa: dời tỉnh lỵ về rạch Cần Thơ thì chợ Cần Thơ trở thành ải địa đầu quan trọng, nắm luôn nẻo thông thương thứ nhì, cũng nối từ Hậu Giang qua Tiền Giang để lên Sài Gòn – Chợ Lớn. Đó là con đường từ rạch Cái Vồn qua rạch Nha Mân, phía Sa Đéc. Lại còn phía tây Cần Thơ là vùng Rạch Giá, Cà Mau bao la với nhiều triển vọng về lúa gạo, đất hoang chưa khai phá.

Cần Thơ có khí hậu tốt, đất hoang tuy chưa được khai thác đúng mức nhưng là rừng chồi thưa thớt, không như rừng tràm ở nước mặn phía Rạch Giá, Cà Mau. Giữa Cần Thơ, Sóc Trăng và ranh tỉnh Rạch Giá còn một cánh đồng bát ngát, nước ngọt, không quá thấp như Đồng Tháp Mười, không quá sình lầy và nhiều phèn. Đó là cánh đồng sau này trở thành quận Phụng Hiệp, đầy lau sậy, có voi (voi ăn sậy và lau). Thoạt tiên người Pháp gọi đó là “Đồng Sậy” (Plaine des Roseaux) nhưng vì khai phá xong nên địa danh này không còn thông dụng như trường hợp Đồng Tháp Mười hay rừng tràm U Minh.

Rạch Cần Thơ chạy dài tới Phong Điền, nhà cửa đông đúc. Rạch Cái Răng là nơi đất tốt. Đất ở rạch Bình Thủy không đâu sánh bằng; rạch Cần Thơ và rạch Bình Thủy như nối tiếp nhau ở cuối ngọn. Tuy không là văn vật như miền Tiền Giang nhưng dân ở hai con rạch này khá thuần thục, thông hiểu lễ nghĩa “trai Nhân ái, gái Long Xuyên”.

Thực dân Pháp nhắm mục đích biến Cần Thơ thành trung tâm quan trọng nắm giềng mối đường giao thông về Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch Giá, Cà Mau trong giai đoạn mà đường thủy nắm ưu thế. Về sau, sau trận thế chiến 1914 – 1918, những con lộ xe cũng nhằm phục vụ mục tiêu chiến lược này. Phải qua Cần Thơ mới lên Sài Gòn được, đa số lúa gạo gom về Cần Thơ vì đây là con đường vận tải ngắn nhứt.

Khi Pháp đến, vùng Ba Láng (nhánh của rạch Cần Thơ) là nơi khởi nghĩa của Đinh Sâm. Đinh Sâm thất bại nhưng vào tháng 3 dương lịch 1870, chừng 200 nghĩa quân tụ tập lại ăn tiệc, chuẩn bị đánh tòa tham biện Cần Thơ. Thực dân phát giác kịp, bắt giam 111 người, trong số này chừng 55 người mà thực dân cho là nguy hiểm bị đề nghị đày ra Côn Nôn hoặc đảo Réunion (2). Tham biện lúc bấy giờ là Alexandre dùng dân địa phương làm xâu, cất nhà lá chung quanh nhà lồng chợ để bán hoặc cho mướn lại.

(2) SL. 1695.

Theo báo cáo (3) thì ở Cần Thơ việc kiện thưa đất đai xảy ra quá nhiều chứng tỏ người dân thấy tương lai sáng sủa của nghề nông. Chủ tỉnh ra lịnh lập bộ điền cho kỷ hơn để thâu thuế. Năm 1887, đất canh tác là 85.000 mẫu, so với năm trước (khai để đóng thuế) tăng thêm 17.000 mẫu. Diện tích của tỉnh là 205.000 mẫu, tức là còn lại 110.000 mẫu có thể canh tác. Dân ghi trong bộ để chịu thuế trong toàn tỉnh là 26.500 người.

(3) SL. 2827.

2. Đào kinh xáng Xà No

Kinh xáng Xà No là công trình lớn lao đầu tiên của Nam kỳ về đường thủy, có thể so sánh với việc thiết lập đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho về đường bộ. Kỹ thuật Tây phương đã biểu diễn với tất cả sức mạnh và hiệu năng.

Đời Gia Long và Minh Mạng, vua và các quan đã nhận rõ vai trò quan trọng của kinh đào đối với miền Tiền Giang và Hậu Giang. Kinh Thoại Hà, kinh Vĩnh Tế là những công trình chiến lược đứng đắn, nối vịnh Xiêm La qua Hậu Giang để rồi lên Mỹ Tho, Chợ Lớn, Sài Gòn. Ai cũng biết đào kinh thì đất ráo phèn, ruộng nương dễ khai phá, dân chúng thích quy tụ ở nơi “sông sâu nước chảy”.

Kinh xáng Xà No nối Hậu Giang qua vịnh Xiêm La, xuyên qua vùng đất tốt và to rộng giữa nhánh sông Cái Lớn và rạch Cần Thơ (nhánh sông Cái Lớn nơi ấy gọi là Rạch Cái Tư).

Từ năm 1866, nhà nước dùng xáng mà vét lại rạch Bến Lức và kinh Bảo Định nhưng kết quả chưa được như ý muốn. Năm 1875, đô đốc Duperré cho đào lại kinh Chợ Gạo và kinh Trà Ôn, dùng dân xâu. Năm 1893, quan toàn quyền De Lanessan cho đấu thầu ở Paris. Công ty Montvenoux trúng thầu với giá là ba cắc rưỡi một thước khối, trong tháng đầu phải đào 60.000 thước khối đất và năng xuất tăng thêm, trong tháng thứ 25 phải đào 200.000 thước khối.

Sáng kiến đào kinh Xà No trước tiên do hai người Pháp là Duval và Guéry nêu ra vì quyền lợi ích kỷ. Họ thấy đất tốt và rộng nên xin trưng khẩn. Và khi chưa được giấy phép trưng khẩn chánh thức là họ đã vận động với quan toàn quyền Paul Doumer (17-5 năm 1900). Chủ tỉnh Cần Thơ cho biết là trước đó, năm 1896, đã đào kinh Ô Môn (nối ngọn sông Cái Bé từ Rạch Giá qua Ô Môn) dùng dân xâu nhưng tạm ngưng vì ở vùng đào kinh xảy ra nạn dịch khí. Kinh Xà No nếu đào được thì ích lợi vô cùng, giúp khai thác hàng mấy chục ngàn mẫu đất tốt phía địa phận Cần Thơ. Nhưng Duval và Guéry lại muốn nhà nước đào thật gấp, trong vòng một năm cho xong và bắt đầu đào ở phần đất mà họ đang xin trưng khẩn (tức là khởi đầu từ khoảng giữa) để họ thâu lợi sớm.

Vì kinh Xà No ăn qua địa phận tỉnh Rạch Giá nên viên chủ tỉnh Rạch Giá khi được tham khảo ý kiến trả lời rằng kinh này rộng và dài, khó đào bằng dân xâu. Ở địa phận Rạch Giá kinh này dài 22 cây số ngàn, nếu đào sâu 3 mét, rộng trên miệng 10 mét, ở dưới đáy 5 mét thì phải có ít nhứt 13.000 dân xâu và phải tốn thêm 26.000 đồng (E/11).

Kinh vừa khởi đào là Guéry được nghị định của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer cấp cho không (con-cesssion gratuite) một sở đất tốt với diện tích khổng lồ là 2.500 mẫu nằm trên vùng đào kinh, tọa lạc tại làng Nhân Nghĩa, tổng Định Bảo, tỉnh Cần Thơ (nghị định số 338 ngày 14-2 năm1901).

Kinh Xà No đào từ 1901 đến tháng 7-1903 là xong, bề ngang trên mặt rộng 60 mét, dưới đáy 40 mét tốn phí 3.680.000 quan. Lần này, nhà thầu sử dụng loại xáng lớn chạy bằng hơi nước, với những giàn gàu bằng sắt. Máy của xáng mạnh 350 mã lực, mỗi giàn múc được 375 lít, thổi bùn ra xa đến 60 mét. Giàn gàu của xáng chạy theo vòng tròn (như xa đạp nước). Từ xa, chiếc xáng giống như chiếc chiến hạm, máy chạy vang rền suốt năm ba cây số ngàn, mang theo một số chuyên viên, nhơn công hàng trăm người. Dọc theo hai bên phải chở củi đem tới sẵn, vì xáng đốt nồi sốt-de bằng củi.

Vài chuyện khôi hài xảy ra: một số dân chạy theo xáng, dùng thúng mà hứng bùn để tìm vàng, nhưng chỉ gặp xương người xương thú. Nhiều người cho rằng cứ “cắm dùi” là đất ấy về phần mình, vì mình đến trước nhứt. Cu-li của hãng xáng tụ tập, bày ra đánh bài, uống rượu hoặc đi ăn cướp, bọn cặp-rằn đo đất thì hăm dọa những chủ nhà ở gần con kinh sắp đào để tống tiền, ai cho tiền thì nhà cửa, vườn tược khỏi bị đào ngang. Bọn chuyên viên người Pháp đứng cao trên xáng, hò hét như các vị chỉ huy chiến hạm. Khung cảnh trầm hùng này đã in sâu vào giai thoại thời ấy, trở thành ca dao, chiếc xáng của Tây là sức mạnh cơ khí vô địch.

Lễ khánh thành kinh Xà No là ngày trọng đại, có lẽ đó là lần đầu tiên mà quan Toàn quyền Đông Dương chịu đặt chân đến miền Hậu Giang. Quan lại địa phương, thân hào nhân sĩ từ các tỉnh lân cận đến tề tựu đón rước, ban quân nhạc từ Sài Gòn đến, lại có tổ chức dạ vũ.

Phần đất mà Duval và Guéry trưng khẩn thuộc vào loại tốt nhứt nhì của Nam kỳ. Những năm 1908 – 1910, trong khi ở tỉnh Cần Thơ điền chủ bổn xứ và điền chủ Pháp rầu lo vì nạn đói, nước mưa dâng quá cao thì phần đất của Duval và Guéry chẳng bao giờ bị lỗ lã nhờ ở sát bờ kinh. Điền của Guéry mướn bọn cựu quân nhân Pháp làm cai điền (garde champétre) với súng ống hẳn hòi, xét bắt ghe xuồng qua lại. Ai chở lúa lậu thì bọn cai điền được chủ tỉnh cho phép lập biên bản giải tòa. Dân ở gần điền và các chủ điền lân cận đều bực dọc về thể thức xét hỏi: lúa của họ bị kiểm soát, khi cần mượn đường nước để đi ngang qua điền. Kinh đào là của nhà nước, nhưng bọn điền Tây xem như là khu vực quân sự riêng của họ.

Vào những năm đầu thế kỷ, ở Cần Thơ người Pháp và người Việt có Pháp tịch làm chủ 36.000 mẫu (1910). Dường như chỉ có Duval và Guéry là thành công nhứt, vài công ty khác như Société des Rizières franco-annamites, hoặc Michel-Villaz et Cie đều lỗ lãi, hoặc có những tư nhân như Balmann đã phá sản.

Công ty Associaton Rizicole Indochinoise thành hình vào năm 1910, gởi chuyên viên qua Mỹ quốc nghiên cứu các loại máy cày thích hợp rồi cho một kỷ sư canh nông là Alazard đến Thới Lai (Ô Môn) mang theo máy cày, máy bừa, máy gieo mạ, xin chánh phủ thuộc địa trợ cấp để thí nghiệm cải tiến kỹ thuật nhưng không đạt kết quả khả quan. Tên Duquet thử thí nghiệm việc cày máy vào mùa nắng, đầu năm 1911.

Tư nhơn Pháp sẵn sàng góp tay với nhà nước để trong điền đất của họ có kinh đào cho riêng họ thủ lợi, dân xâu phải tiếp tay (trường hợp Sambue và Belin trợ cấp 8.600 đồng nhân dịp đào kinh Thới Lai).

Năm 1907, để phục vụ cho mùa 1907-1908 nhà nước thiết lập ở Cần Thơ một phòng Dinh Điền (Bu-reau de Colonisation de Cần Thơ) nhằm mục đích tìm nhân công cho các điền của người Pháp ở Cần Thơ, mộ dân nghèo ở Bắc kỳ vào. Nhưng tốp dân mộ này vì bị quan lại ở quê xứ cưỡng bách, nên khi đến Cần Thơ lại lãng công, thiếu thiện chí. Rốt cuộc, nhà nước trả họ về quê để khỏi chịu tốn kém về cơm gạo.

Phòng Dinh Điền bèn kiên nhẫn thí nghiệm lần thứ nhì, nhờ quan Công sứ tỉnh Thái Bình chọn lựa kỹ lưỡng hơn, nhằm khẩn hoang vùng Phụng Hiệp. Người ứng một phải ký giao kèo chịu ở Nam kỳ ít nhứt là 3 năm, mỗi gia trưởng khi đến Cần Thơ được tạm cấp 4 mẫu đất, 5 năm sau trở thành sở hữu chủ, trong giai đoạn khai thác đầu tiên được miễn 5 năm khỏi đóng thuế điền và thuế thân. Sau này, đất bán lại với giá rẻ cho người khai thác, lại còn giúp đỡ cụ thể về tiền bạc để sắm quần áo, nông cụ.

Đích thân viên đầu phòng Dinh Điền ra tới tỉnh Thái Bình để ký giao kèo với các gia trưởng chịu vào Cần Thơ nhưng làm sao viên chức này biết rõ cách thức tuyển mộ của quan Công sứ tỉnh Thái Bình? Đợt người vào Nam này gần như bị quan trên bắt buộc phải đi, gồm có: 84 gia đình tổng cộng 328 người, chia ra 84 người cha, 85 người mẹ, 122 trẻ con, 37 người lớn tuổi.

Cuối tháng 5-1908, họ vào Cần Thơ, đưa đến vùng Phụng Hiệp (bấy giờ còn hoang vu) cứ 8 ngày là phát gạo, 15 ngày là phát tiền. Họ lãng công, một số chịu làm lụng nhưng không quen kỹ thuật làm ruộng ở địa phương, một số đông thì trốn, bỏ vợ con. Theo báo cáo của quan huyện ở Rạch Gòi thì tốp người ứng mộ này chỉ gồm chừng 5 hay 6 người là nông dân, còn bao nhiêu là dân mà viên chức ngoài Bắc cứ lùa vào Nam, tạp nhạp, theo kiểu bắt phu. Vì thế mà cuộc di dân không thu được kết quả gì ráo.

Từ tháng 12-1908 đến tháng 4-1909, họ lần lượt bị đưa về Bắc, còn sót lại 19 người đang ở tù, vì bất hảo (phúc trình hằng năm về tình hình tổng quát tỉnh Cần Thơ, niên khóa 1908 – 1909 của chủ tỉnh L. de Natra).

Trong đợt di dân đầu tiên, 50 người gọi là “cu li Bắc kỳ” tới điền của Duval và Guéry với một viên đội và 2 người cai canh chừng, nhà nước yêu cầu chủ điền cho lãnh lương hơi cao một tí để họ siêng năng làm việc. Nên hiểu cuộc dinh điền của Pháp chỉ là mô phỏng vụng về hình thức lập ấp đời Tự Đức. Đây là hình thức nô lệ trá hình, bị thất bại vì thiếu chính nghĩa.

Câu hát “Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền. Anh thương em cho bạc cho tiền, đừng cho lúa gạo xóm riềng họ hay” phản ảnh tâm trạng lạc quan của người dân thời ấy.

Vàm Xáng (vàm của kinh Xáng) là nơi kinh Xà No khởi đầu bên phía Cần Thơ (Xà No, Srok Snor, xóm có nhiều cây điên điển). Ngã ba này trở nên tấp nập, ghe xuồng đậu để chờ con nước thuận lợi mà qua Rạch Giá hay ra chợ Cần Thơ.

Năm 1908, hương chức làng Nhân ái đứng đơn xin lập chợ, gọi là chợ Vàm Xáng để thâu huê lợi cho làng. Một thân hào tình nguyện cho làng khoảnh đất để cất chợ (E/5), nhà canh và phố. Về sau, nhà tước tách địa phận này qua làng Nhân Nghĩa. Hương chức làng Nhân ái lại phản đối, lấy lý do: “Làng Nhân ái này là của ông bà cha mẹ chúng tôi lập ra hơn một trăm năm nay, nên luôn luôn rất bình an”, nếu cắt đất chợ mà nhập qua làng khác, e hư phong thủy (nhưng thật ra hương chức làng mất dịp làm ăn).

Năm 1913, một thân hào khác lại tặng cho làng sở đất 880 thước vuông để cất nhà trường làng “dạy trẻ con học hành phong hóa”. Lúa từ phía Rạch Giá theo kinh Xà No chở ra chợ Cái Răng, do người Huê kiều mua về, mướn nhà máy xay ra gạo tại chỗ trước khi đem về Chợ Lớn mà xuất cảng. Nhờ đó, chợ Cái Răng trở thành kho lúa gạo to lớn với nhiều dịch vụ mua bán mà người Huê kiều thao túng trên thị trường nội địa.

Năm 1908, chợ Cái Răng đã sung túc đến mức hương chức hội tề sở tại bán cái sườn nhà lồng chợ cho làng Thới Thạnh để mua cái sườn nhà chợ khác, to và chắc chắn hơn (E/5).

Vào đầu năm 1911, nhiều người bày ra sáng kiến lập chành, thoạt tiên chành cất bằng lá. Và cũng năm này, công ty Asiatic Petroleum xin phép cất cây cầu sắt dài 15 mét tại bến Cái Răng cho tàu chở dầu cặp bến dễ dàng hơn.