Lịch Sử Khẩn Hoang Miền Nam - Phần I - Chương 4 - Phần 1

IV– LÀNG XÓM, ĐIỀN ĐẤT VÀ NGƯỜI DÂN THỜI ĐÀNG CỰU

Trước khi người Pháp đến, đất Nam kỳ đã là nơi việc cai trị tổ chức thành nền nếp khá minh bạch. Người Pháp nghiên cứu kỹ lưỡng, sửa đổi hoặc noi theo phần nào để áp dụng có lợi cho việc thực dân. Những tài liệu sau đây phần lớn rút từ “Những bài giảng về cách cai trị thời đàng cựu” do viên tham biện nhiều kinh nghiệm là J.B. Eliacin Luro đem dạy tại trường Hậu Bổ Sài Gòn vào năm 1875 (1). Luro từng là sĩ quan tham gia đánh chiếm và bình định xứ Nam kỳ. Thời ấy, tài liệu tuy bị mất mát nhưng còn khá nhiều, vài viên chức thời đàng cựu đã giúp Luro biên soạn, đặc biệt là ông Trần Nguơn Vị (bát phẩm cựu trào, tục danh ông Hạp) làm việc cho Pháp thăng lần đến Đốc phủ sứ. Theo quy chế đàng cựu (thời Tự Đức) ở mỗi tỉnh có năm phòng: phòng Lại, phòng Hộ, phòng Lễ... Ông Hạp là viên chức đứng đầu một phòng, tương đương với chức vụ trưởng ty ngày nay. Mỗi công văn đều lần lượt do thơ lại thảo ra, trình cho ông Hạp, ông Hạp trình cho viên kinh lịch hoặc thông phán xem kỹ trước khi trình lên quan Tổng đốc. Ông Hạp Trần Nguơn Vị là người vùng Lấp Vò (Long Xuyên) nên trưng ra nhiều tài liệu về vùng này.

(1) Luro. Cours d’Administration annamite, Saigon, 1905

1. Về địa bộ năm Minh Mạng thứ 17

Như đã nói, ở Nam kỳ đây là lần duy nhất triều đình tổ chức việc đo đạc do Trương Đăng Quế cầm đầu, cùng với một số viên chức chuyên môn từ kinh đô vào. Nên phân biệt địa bộ và điền bộ:

– Địa bộ ghi rõ từng khoảnh đất: diện tích, loại đất, ranh giới tứ cận, tên người chủ.

– Điền bộ, gọi nôm na là bộ điền, chỉ ghi tên người chủ đất, diện tích, loại đất, đặc biệt là số thuế phải đóng.

Địa bộ nặng về chi tiết liên quan đến tên họ chủ đất, ranh giới, diện tích mà không ghi số thuế hàng năm trong khi điền bộ chỉ chú trọng vào thuế má: thuế ấy ai phải trả?

Năm Minh Mạng thứ 17, mỗi làng phải lập một địa bộ gồm 3 bổn giống nhau.

– Bổn Giáp, gởi về Hộ Bộ ở Kinh đô.

– Bổn ất, giữ tại tỉnh, nơi văn phòng quan Bố chánh.

– Bổn Bính, giữ tại làng.

Từ đó về sau, mỗi khi mua bán đất, nhà nước lấy địa bộ Minh Mạng này ra điều chỉnh.

Xin đơn cử làm thí dụ bổn địa bộ Minh Mạng của thôn Tân Bình, thuộc Tân Phú tổng, Đông Xuyên huyện, Tân Thành phủ, tức vùng Lấp Vò, thuộc tỉnh An Giang.

Hương chức gồm thôn trưởng, hương thân, hương hào đứng tên lập ra, có cai tổng và phó tổng “Thừa nhận thiệt”.

Sau đó là viên tri huyện “Thừa duyệt thiệt”.

Các viên chức của tỉnh (tỉnh phái) cũng ký vào, theo thứ tự:

– Thơ lại của án sát sứ ty “Thừa cứu”.

– Thông phán của Bố chánh sứ ty “Thừa tỷ”.

– Quan Bố chánh và quan án sát của tỉnh An Giang“Thừa hạch thiệt”.

Các viên chức từ Kinh đô đến (Kinh phái) ký vào theo thứ tự:

– Thơ lại của Tào chánh ty, thuộc Bộ Công “Thừa cứu”.

– Viên ngoại lang của Bộ Lễ “Thừa tỷ”.

– Chủ sự của Bộ Binh “Thừa phúc cứu”.

Tổng cộng các hạng điền thổ trong làng Tân Bình là 208 mẫu.

Trong số này, ruộng canh tác gồm 88 mẫu: 19 mẫu thảo điền và 69 mẫu sơn điền.

Đất ruộng đổi thành vườn cau, có gia cư: 11 mẫu.

Đất ruộng đổi thành vườn chuối, tre, có gia cư: 13 mẫu.

Đất trồng dâu và trồng mía: 10 mẫu.

Đất trước kia trồng dâu, nay trồng đậu, khoai: 17 mẫu.

Đất trồng tre: 30 mẫu.

Đất trồng lá dừa nước: 30 mẫu.

Đất trước kia trồng dâu, nay đổi thành đất lập chợ phố: 5 mẫu.

Ngoài ra còn đất gò quá cao, đất làm nghĩa địa, đất bỏ hoang không đo đạc diện tích.

Về sự phân khoảnh đất ruộng, 19 mẫu thảo điền đã kê khai chia làm ba sở: 5 mẫu, 8 mẫu, 6 mẫu.

Về sơn điền, chia ra 4 sở: 17, 18, 12 và 20 mẫu.

Địa bộ của làng chỉ có tên họ năm bảy ông điền chủ mà thôi.

Khu đất dành để cất chợ là 5 mẫu, do hai người đứng tên làm chủ. Cuối bổn địa bộ, hương chức làng cam kết không khai thêm bớt, nếu sai lạc hoặc còn đất ẩn lậu mà không khai thì chịu tội.

Về điền bộ, (tức là bộ ghi thuế điền) trước sau chỉ lập ra có bốn lần từ hồi nhà Nguyễn tới khi thực dân Pháp đến, gọi là Đại Tu Điền Bộ, làm chuẩn để thêm bớt vào những năm sau.

Bốn lần ấy là:

– Năm Thiệu Trị thứ ba.

– Năm Tự Đức nguyên niên.

– Năm Tự Đức thứ 11.

– Năm Tự Đức thứ 16.

Cũng làng Tân Bình (Lấp Vò) nói trên, so với địa bộ Minh Mạng hồi 12 năm về trước, có sự thay đổi rõ rệt: đất ruộng chịu thuế đã giảm về diện tích trong khi các loại đất trồng đậu, khoai và trồng tre vẫn như cũ. Trong địa bộ Minh Mạng không ghi đất công điền, nhưng trong điền bộ sau này ghi rõ các sở công điền. Có lẽ diện tích sút giảm vì dân qua các làng khác làm ăn, hoặc có sự ẩn lậu về diện tích để trốn thuế. Đây là một làng thuộc tỉnh An Giang, thành lập từ đời Gia Long nên dân lậu rút bớt qua các làng tân lập, khiến các chủ điền vì sợ đóng thuế không nổi nên hiến cho làng để làm công điền; một số đất khác thì lần hồi canh tác rồi cũng bỏ hoang.

Đất thiệt trưng, tổng cộng 165 mẫu trong đó “điền” (đất làm ruộng) là 58 mẫu và “thổ” (các loại trồng tỉa khác) là 106 mẫu.

Thảo điền gồm một sở công điền 5 mẫu và 10 mẫu tư điền khác chia làm hai sở.

Sơn điền gồm 42 mẫu, trong đó công điền ba sở, tư điền hai sở. Đáng chú ý là có một sở 12 mẫu do Mai Văn Ngọc làm chủ, ông này vì can án theo ngụy (phải chăng là theo ngụy Khôi) nên đất bị tịch biên đem vào công điền.

Ngoài số đất ruộng nói trên, những phần đất trồng tre, trồng dâu, trồng khoai đậu không thay đổi mấy.

Trong làng Tân Bình, bộ điền ghi 18 mẫu liệt vào loại“hoang phế” (vì dân đã thất lạc) từ năm Thiệu Trị thứ 5, bỏ hoang dưới 5 năm.

Lại còn 28 mẫu ghi vào loại “cửu kinh hoang phế” tức là bỏ hoang lâu hơn. Một số đất lần hồi trở thành xấu, lúc trước canh tác được nhưng về sau đất chai lần, sanh ra sỏi (loại đá ong). Lại còn vài mẫu đất phù sa mới bồi, ghi vào bộ. Một số người khẩn đất trước kia bỏ xứ mà đi, không biết lý do, đất trở thành công điền. Lại có người chết không có con cháu thừa tự nên đất cũng trở thành công điền.

Về thuế đất, năm Tự Đức nguyên niên, thấy ghi rõ trong bộ như sau:

Thảo điền, mỗi mẫu thâu tô túc 26 thăng, thập vật tiền là 3 tiền.

Sơn điền, mỗi mẫu tô túc 23 thăng, thập vật tiền là 3 tiền.

Tang căn thổ (đất trồng dâu), mỗi mẫu 2 quan.

Viên lang thổ (đất lập vườn cau), mỗi mẫu 1 quan 4 tiền.

Vu đậu thổ (đất trồng khoai đậu), mỗi mẫu 8 tiền.

Thổ trạch, mỗi mẫu 8 tiền.

Thanh trúc thổ (đất trồng tre), mỗi mẫu 4 tiền.

Dà diệp thổ (đất trồng lá dừa nước), mỗi mẫu 4 tiền.

Biểu thuế trên đây tính theo lệ đã ban hành từ năm Minh Mạng thứ 17.

2. Lập làng mới

Đời Tự Đức, ở Nam kỳ Lục tỉnh, nhà nước khuyến khích lập làng để thúc đẩy khẩn hoang, thâu thêm thuế đinh và thuế điền. Việc lập làng được hưởng ứng, bất kể dân giàu hay dân nghèo.

– Người giàu (thường là bá hộ) được dịp ban ơn bố đức cho dân đi khẩn đất. Trong giai đoạn đầu, người khẩn đất cần vốn liếng để sắm nhà cửa, ghe xuồng, nông cụ, quần áo, gạo để ăn, tiền để xài. Ông bá hộ cho vay tiền, vay lúa với mức lời rất nặng, trên 50 phần trăm mỗi năm. Ngoài ra, nếu ông bá hộ trực tiếp khẩn đất thì có thể canh tác với nhân công mướn rẻ, đó là những người bạn làm ruộng ăn lương hàng năm, khi rảnh việc cày cấy gặt hái thì chủ bắt chèo ghe, sửa nhà, đắp bờ, đào mương vườn. Bạn làm công luôn luôn mượn tiền trước với tiền lời rất nặng, lắm khi vì đau yếu hay cờ bạc, vợ và con phải làm việc thay thế để trừ nợ.

– Người nghèo không gia cư, đã túng thiếu đổ nợ ở các làng cũ nếu có chí thì đi nơi khác xin lập làng mới, chịu khó làm ăn thì có thể trở thành điền chủ nhỏ, được làm hương chức. Trong nhiều trường hợp, người đi lập làng thường lôi kéo theo nào là bạn thân, nào là bà con xa, bà con gần để trong việc làm ăn hàng ngày họ sống trong bầu không khí thân mật và tin cậy hơn.

Đơn xin lập làng làm ra hai bổn, dâng lên quan Bố chánh. Trong đơn ghi rõ:

a) Ranh giới tứ cận của làng mới lập.

b) Tên những người gia trưởng (điền hộ).

c) Ranh giới các sở đất xin khẩn, tên chủ đất, diện tích, loại đất gì (sơn điền, thảo điền hoặc vu đậu).

d) Nêu rõ tên làng mới (xin đặt tên).

e) Xin miễn thuế, miễn sưu và miễn lính trong ba năm.

g) Ghi tên những người dân bộ (bộ đinh) để bảo đảm có số thuế tối thiểu trong tương lai.

Quan Bố chánh nhận đơn, chỉ cần biết rõ ranh giới làng mới và tên tuổi của dân lập làng (gồm dân đã từng đứng bộ trong làng khác và dân lậu) rồi phê vào mấy chữ: “Phú hồi sở tại phủ viên khám biện”.

Khi nhận được lịnh, quan phủ bèn đến tận nơi với vài nhân viên (lại lệ), đòi hương chức các làng kế cận, luôn cả viên cai tổng để xác nhận rằng làng mới xin lập không lấn ranh vào những làng đã có ở bốn phía và chẳng ai ngăn cản. Dân xin lập làng phải có mặt để xác nhận chịu khẩn và chịu đóng thuế, sở đất của người này không lấn ranh vào sở của người kia. Dân lậu xin lập làng cũng đến để được điều tra xem có tội trạng, tiền án, hoặc có giả mạo tên tuổi không. Quan phủ cho đo diện tích để biết lần đo trước của dân làng có chính xác chăng (dư hoặc thiếu), xem ranh giới từng sở đất, tên người chủ, loại sơn điền, thảo điền hoặc đất trồng dâu, trồng khoai đậu... Luôn dịp ấy, quan phủ nhìn nhận cho người xin lập làng làm chức thôn trưởng, cấp cho con dấu nhỏ, hình chữ nhựt, theo nguyên tắc con dấu phải làm bằng cây (vì vậy gọi là mộc ký, hoặc nói gọn là con mộc). Đồng thời quan phủ cho phép làng cũ hủy bỏ tên những người dân đã di chuyển để ghi vào bộ sổ của làng mới lập.

Quan phủ soạn tờ phúc bẩm, trình với quan Bố chánh việc mình đã làm, kèm theo bản đồ tổng quát của làng tân lập, vị trí các sở đất, loại đất, tên người xin khẩn, diện tích. Trên bản đồ thường vẽ hình cây lâm vồ, chòm tre, lung bàu hoặc hình chùa miễu để làm chuẩn. Thôn trưởng ở mấy làng giáp ranh đồng ký vào.

Tờ phúc bẩm này được quan phủ dâng cho quan Bố chánh, làm hai bổn. Khi nhận được, quan Bố chánh phê “trình biện”; chuyển lên quan Tổng đốc thì được phê “chiếu biện” khi chấp thuận.

Một bổn có lời phê trên đây lại gởi trả xuống cho quan phủ hoặc quan huyện. Lập tức, quan phủ hoặc quan huyện đến làng tân lập nọ, lần thứ nhì, để làm tờ khám án (Luro dịch là jugement procès-verbal). Trong tờ này ghi là đã đến nơi, gọi các viên cai tổng, thôn trưởng kế cận đến để xác nhận, rồi kê khai các sở đất, diện tích, loại đất, tên người khẩn như trong tờ phúc bẩm. Bên dưới là chữ ký của thôn trưởng, hương thân, của dân làng tân lập cùng các ông cai tổng sở tại và lân cận.

Tóm lại, việc lập làng chia ra ba giai đoạn:

– Dâng đơn lên quan Bố chánh.

– Quan phủ hoặc quan huyện đến nơi làm tờ phúc bẩm.

– Khi được quan Tổng đốc đồng ý, quan phủ trở lại làng, làm tờ khám án.

Trường hợp làng Châu Quới tân lập, tách ra từ làng Châu Phú (nay là vùng chợ Châu Đốc) lúc mới làm đơn xin chỉ có 7 người dân đứng tên (2 người dân có bộ cũ, 5 người dân lậu), đất khẩn các loại tổng cộng 66 mẫu (trong đó chỉ có 2 mẫu thảo điền và 3 mẫu sơn điền) giúp ta thấy rõ tình trạng làng xóm lúc bấy giờ, quan trên tỏ ra dễ dãi, những người đứng tên là tiểu điền chủ, sau này sẽ quy tụ thêm dân đến làm công hoặc làm tá điền cho họ.

Nói chung, hương chức làng (hương dịch) chia ra làm 2 hạng: “các chức lớn”“các chức nhỏ”. Các chức nhỏ là người thi hành, đi gặp dân để truyền lịnh của các chức lớn. Muốn được hương chức cần có điều kiện tuy đơn giản nhưng gắt gao: phải cư ngụ trong làng, có hằng sản hoặc uy tín lớn (thí dụ như người nghèo nhưng ông cha ngày xưa làm quan hoặc đã sáng lập làng). Lúc ban đầu chỉ đặt ra thôn trưởng (xã trưởng) và hương thân (theo Luro, chức hương thân do Nguyễn Tri Phương bày ra). Lần hồi khi làng đông dân, thuế má dồi dào thì cử thêm ấp trưởng, cai tuần, trùm cả, thủ hộ, biện lại, biện đình. Hương chức lớn thì có thêm hương hào, hương sư, hương chánh, hương lễ...

Nhiều người cho rằng hương chức làng là tổ chức dân chủ. Đó là nói quá đáng, nếu không sai lạc: tổ chức phong kiến, của phe đảng thì đúng hơn. Khi thiếu một người hương chức thì mấy người sáng lập làng hoặc những người đang làm hương chức bèn nhóm lại rồi cử người trong nhóm, trong phe. Dân nghèo không hằng sản, tức là không điền đất hoặc không vốn liếng to để làm nghề mua bán thì chỉ được quyền đứng ngoài xa mà nhìn, hoặc là nấu nước pha trà cho các ông hương chức uống khi họ bầu cử lẫn nhau. Vua chúa ngày xưa nhắc nhở đến dân, “dân vi quý”hoặc gọi tổng quát là bá tánh. Nhìn qua bộ điền hoặc địa bộ của làng, ta thấy tên họ của những người dân mà thời phong kiến đề cập tới: đó là những điền chủ lớn nhỏ, những ông bá hộ. Dân lậu, không tên trong bộ, không được nhìn nhận là dân.