Thế Giới Người Điên - Chương 21 - Phần 1

THẾ GIỚI NGƯỜI ĐIÊN

1.

Má ơi! Con muốn điên rồi,

Má còn trông đứng đợi ngồi mà chi...

Ầu ơ...

Ví dầu con Má có sao

Có điên, có dại Má nào bớt thương.

Đó là những câu thơ của nhà văn, nhà thơ, nhà báo Nguyễn Ngu Í (1921 – 1979) bật lên trong những ngày điên loạn. Giữa ngổn ngang hiện vật trong phòng lưu trữ của nhà thương điên Biên Hòa, chúng tôi tìm thấy bút tích lời kêu cứu của ông viết vào năm 1976 như sau:

Tôi là Nguyễn Hữu Ngư, năm mươi tám tuổi, bút hiệu Nguyễn Ngu Í, là nhà văn, nhà giáo, nhà báo nông chuyên nghiệp, hiện là bệnh nhân ở khu ba, bệnh viện tâm thần Biên Hòa (tức nhà thương điên Biên Hòa). Xin có lời kêu cứu với các bạn, các thầy, học trò cũ và những người quen biết:

Tôi mắc bệnh cuồng não tuần hoàn từ năm mười tám tuổi. Lúc trẻ, năm bảy năm bệnh tái phát một lần, càng có tuổi chu kỳ càng hẹp. Biến cố lịch sử tết Mậu Thân xúc động tôi quá mạnh, tôi lên cơn dữ dội. Nay chu kỳ bệnh lại công phạt, cứ vài tháng là bệnh cũ tái phát trở lại, tôi phải sống nhờ cơm của nhân dân, lấy bệnh viện làm nhà. Vừa rồi tôi suýt chết, tôi thấy sức lực tôi đã mòn nhiều, sống ráng độ vài năm nên tha thiết yêu cầu người quen giúp phương tiện để tôi có thể: Một- Mua một kính cận thị bị anh em quận đội đánh bể vì tôi đột nhập vào quận đội nửa đêm tết năm ngoái. Hai- Làm một hàm răng giả (tôi phải ăn nuốt trọng từ một năm nay). Ba- Tái bản quyển “Sống vô vi”, “Có những bài thơ”, “Hạnh phúc chính nơi bạn”. Bốn- Xuất bản hai tập hồi ký “Nếu tôi nhớ kỹ” và “Những bức thư tình tưởng không bao giờ viết”.

Bác sĩ Nguyễn Gia Khanh sau khi đọc cho tôi ghi lời kêu cứu của Nguyễn Ngu Í, ông nói: “Một người điên mà biết trăn trở vì sống nhờ hạt cơm của nhân dân thì quả là một người điên cực kỳ tử tế”.

Trong hồ sơ bệnh lịch của Nguyễn Ngu Í nhập viện hồi năm 1964 có đoạn viết: “Bệnh khởi phát từ năm 1940 với triệu chứng nói nhiều, chửi bới, lui tới lăng xăng. Đã điều trị ở bệnh viện Chợ Quán một đợt sáu tháng, được choáng điện nhiều lần, khi về đi dạy học được. Đến năm 1947, bệnh tái lại, điều trị ở trại an trí Quảng Ngãi sáu tháng, bệnh giảm, vài tháng bệnh trở lại, đến Biên Hòa, ra vào mười hai lần, mỗi lần hai ba tháng...

Theo nhà văn Sơn Nam thì Nguyễn Ngu Í là một nhà văn nổi tiếng yêu nghề và yêu nước, luôn xót xa vì chuyện đất nước chia đôi. Dường như cả một đời dạy học và hoạt động báo chí ở Sài Gòn, Nguyễn Ngu Í lúc nào cũng trong trạng thái nửa tĩnh nửa điên. Có lần, chính quyền sài Gòn tổ chức hội nghị triển khai kế hoạch bình định cấp tốc vùng đồng bằng sông Cửu Long tại căn cứ Đồng Tâm, có cả cố vấn Mỹ tới dự. Nguyễn Ngu Í cũng tới dự với tư cách nhà báo. Ông mặc áo sơ mi trắng, thắt cà-vạt nhưng lại mang guốc vông. Chính điều đó đã biểu hiện một trạng thái bất thường. Sau bài phát biểu của một cử tọa, Nguyễn Ngu Í xin phát biểu cảm tưởng của một nhà báo. Hội trường vang lên tiếng vỗ tay. Ông nghiêm mắt nói: “Làm công việc bình định đồng bằng sông Cửu Long nhưng vị quận trưởng có mặt tại đây là một người đạo đức giả, là kẻ gian phu! Ông ta thông dâm với tất cả những nữa giáo viên xinh đẹp trong vùng. Trong số gái mất nết ấy, vài người hiện có mặt tại đây...”

Nguyễn Ngu Í vừa nói vừa chỉ vào mặt viên quận trưởng, vừa lia lia ngón tay về phí các cô giáo. Trước tình thế quá căng thẳng, một viên chức địa phương phải lên phân trần với cố vấn Mỹ và các quan chức chủ tọa rằng đó là một nhà báo mắc bệnh thần kinh đang lên cơn. Có lẽ vì Nguyễn Ngu Í mang đôi guốc vông không giống ai nên ông thoát nạn.

Trong phòng lưu trữ của nhà thương điên Biên Hòa, chúng tôi còn tìm thấy tờ đơn xin nghỉ phép của Nguyễn Ngu Í đề ngày 13 tháng 8 năm 1976, ông viết: “Kinh xin bác sĩ cho tôi được về phép ngày chủ nhật ngày 15 tháng 8 năm 1976 để đến thăm gia đình một bạn thân ở tỉnh lỵ Biên Hòa, anh Nguyễn Văn Thuyết, con trai cố bác sĩ Nguyễn Văn Hoài (Giám đốc bệnh viện tâm trí Biên Hòa từ 1945-1955 – NV).

Nguyễn Ngu Í là bạn thân với nhà văn Bình Bình Lộc, mà Bình Nguyên Lộc lại có người con trai là bác sĩ Tô Dương Hiệp làm giám đốc bệnh viện tâm trí Biên Hòa những năm 2972-1973. Bản thân nhà văn Bình Nguyên Lộc cũng từng là bệnh nhân của nhà thương điên Biên Hòa trong những năm chống Pháp. Chính vì mối quan hệ này mà nhà văn Nguyễn Ngu Í từng được bác sĩ Tô Dương Hiệp trực tiếp chăm sóc như một người thân. Họa sĩ Lê Thành Vinh, phụ trách phòng hội họa trong bệnh viện cho biết, những lúc tĩnh táo, Nguyễn Ngu Í thường bắt bác sĩ Hiệp ra ngồi đánh cờ tướng với ông hàng buổi. Thắng thì vui vẻ, thua thì nổi cơn điên. Có lần ông cầm bàn cờ đập lên đầu bác sĩ Hiệp, thủng cả bàn cờ, tròng xuống cổ, mặt mài đầy máu nhưng bác sĩ Hiệp vẫn vui, vì đó không chỉ là một bệnh nhân mà còn là bạn chí cốt của cha mình.

Bác sĩ Hiệp mất năm 1973 vì bệnh ung thư, an táng tại nghĩa trang bệnh viện. Nguyễn Ngu Í mất năm 1979, tại tư gia ở sài Gòn. Bình Nguyên Lộc sang California chữa bệnh năm 1985 và từ trần bên ấy năm 1987.

Chưa tìm được mối quan hệ nào trong nhà thương điên Biên Hòa giữa Nguyễn Ngu Í, Bình Nguyên Lộc và Bùi Giáng. Căng cứ vào hồ sơ lưu trữ thì Bùi Giáng nhập viện hai lần. Lần thứ nhất vào năm 1969, lần thứ hai vào năm 1977, thời gian này Nguyễn Ngu Í vẫn còn trong bệnh viện, hai người cùng ở khu ba nhưng chúng tôi không tìm được thông tin về mối quan hệ của họ như thế nào. Đây cũng là một việc đáng tiếc.

Bệnh án của Bùi Giáng có đoạn ghi: “Bệnh tái phát từ tháng 4 năm 1969, có hôm thức suốt đêm để viết, nói huyên thuyên, chơi chữ, có khi la thất thanh, ý tưởng tự cao tự đại. Hay phát biểu ý kiến về những vấn đề chính trị, văn hóa trọng đại, có ý nghĩ bị người ta phá hoại sự nghiệp văn chương. Tháng 3 năm 1969 bị cháy nhà và cháy tất cả sách vỡ quý báu nên đương sự bị bệnh mỗi ngày một nặng hơn...”

Bùi Giáng để lại trong bệnh viện rất nhiều bút tích, chủ yếu là thơ. Nhưng hầu hết những bài thơ ông không ghi ngày tháng, và, cũng chẳng ai hiểu ông muốn gửi gắm những điều gì qua những vầng thơ nửa tĩnh nửa điên:

Tờ thư bí mật hôm nay

Gửi em nói chuyện dằng dai đuôi đầu

Đầu tiên gió gác trăng lầu

Cuối cùng đuôi đứt mối sầu trường sinh

Hình dung mộng tưởng chênh vênh

Trăm năm rút gọn gập ghềnh tử sinh

Tam bành tuyệt đối đinh ninh

Rồi ra tứ trướng bất thình lình điên

Thư về bí mật liên miên

Té ra Toàn thể là thiên thu khùng.

(Tờ thư bí mật)

Nỗi buồn như chiếc lá rơi

Từ cành rụng xuống chốn nơi nào là

Nỗi buồn gieo giọt sương hoa

Cho tim máu động chan hòa một phen

Nỗi buồn chắp cánh bay lên

Vi vu mười hướng bay lên bốn trời

Buồn vui cũng thế mà thôi

Tình thương mơ mộng muôn đời một mai

Ấy người, ấy kẻ, ấy ai

Trận buồn chếnh choáng than dài nỗi vui

Chia nhau một chút ngậm ngùi

Hình dung mộng tưởng ra ngoài trăm năm.

(Nỗi buồn)

Thưa em từ bữa xa xưa

Ngẫu nhiên tao ngộ một mùa đa mang

Tình yêu cậy cánh hoa lan

Giãi giùm tinh thể đá vàng đầu tiên

Em người xứ sở thần tiên

Lạc loài để rớt cõi miền đi đâu

Chờ em suốt mấy trăng thâu

Bầu tiên chuốc rượu nguyệt lầu vô phương

Bỗng dưng tình huống dị thường

Thình lình một ngã ba đường tẻ ra.

(Ngẫu nhiên)

Gần một trăm năm qua, nhà thương điên Biên Hòa đã có hàng chục vạn bệnh nhân đến và đi, tất nhiên đi về đâu của bước chân người điên thì chẳng ai biết được. Có một nghĩa trang phía sau dành cho hàng ngàn người ở lại. Có một phòng bảo tàng rất khiêm tốn dành cho những giá trị mà họ để lại. Ở đó có những bút tích, những bài thơ, những bức tranh cũng hết sức khiêm tốn, nhưng, nói theo bác sĩ Nguyễn Gia Khanh thì xin chớ vội coi thường bởi điên mà còn biết trăn trở khi ăn hạt cơm của nhân dân như nhà văn Nguyễn Ngu Í thì quả là một người điên cực kỳ tử tế.

2.

- Dạ, em tên là Lê Viết Tuấn, em xin nhắc lại là Lê Viết Tuấn chớ không phải là Lê Việt Tuấn, sinh năm 1961, tại... Cha em là bác sĩ... Em bị rối loạn ngôn ngữ nên em tìm đến hội họa là để khẳng định lại giá trị trong ký tự ABC của Alexandr de Rhoes...

Mọi người cố nín cười. Tôi mời Tuấn điếu thuốc. Tuấn khom người đưa hai tay đỡ lấy và cảm ơn rối rít rồi cúi chào bước ra. Người Tuấn dường như lúc nào cũng co ro, khiêm tốn, trầm lặng với dáng đi lầm lũi, nhẫn nhục và chịu đựng trông thật đáng thương. Bác sĩ Nguyễn Gia Khanh, trưởng khoa hoạt động liệu pháp – Bệnh viện tâm thần Trung ương II – cho biết, cách đây hơn hai mươi năm, Tuấn đang học đại học năm thứ ba ngành mỏ-địa chất thì phát bệnh, bỏ nhà đi lang thang, miệng nói huyên thuyên về những ý tưởng lạ lùng không ai hiểu. Những lúc tĩnh táo, Tuấn hay kể với bác sĩ Khanh về những quyển sách triết học mà anh đã đọc thời sinh viên, trong đó có quyển tâm lý học của Sigmund Freud, quyển sách này có một chi tiết phân tích tâm lý của một chàng trai loạn luân với mẹ ruột, anh ta đã giết chết người cha và tự móc mắt mình. Nỗi ám ảnh tội ác và sự kinh dị ấy làm cho Tuấn bị căng thẳng thần kinh, anh đã ba lần nhảy lầu tự tử nhưng nhờ nhà thấp nên thoát chết, chỉ bị gãy tay.

Theo bác sĩ Khanh thì chứng bệnh của Tuấn gọi là ngộ độc triết học dẫn đến hoang tưởng bị tội. Cha mẹ Tuấn đã lần lượt qua đời, hiện Tuấn chỉ còn người anh đang sống ở Sài Gòn, nhưng vì không đủ điều chăm sóc nên ký gửi cho Tuấn ở lâu dài trong bệnh viện, thỉnh thoảng anh vào thăm và hay chở Tuấn đi chơi trong những ngày lễ tết. Ở đây, Tuấn luôn được sự chia sẻ của bác sĩ Khanh và anh đã lao vào hội họa như một nhu cầu bộc lộ tâm tư, như tìm thấy một lối thoát nên không còn ý định tự tử như trước nữa.

Buổi chiều hôm ấy, chúng tôi xuống phòng hội họa thì gặp Tuấn đang ngồi vẽ, Tuấn vẽ một người con gái đang bấu víu vào người con trai. Tôi hỏi vẽ cái gì vậy, Tuấn nói: “Hồi sáng em đọc báo thấy có một bài viết về sự đột quỵ nên em vẽ bức tranh này”. Chẳng ai hiểu gì về bức tranh và lời giải thích của Tuấn. Khi tôi bảo anh giải thích về những bức tranh của mình đang treo trên tường, Tuấn rất nhiệt tình. “Bức tranh này có tên là lương tâm, em nhớ có một quyển sách nói về một nhạc sĩ người Nga kéo đàn violon, khi đàn bị đứt dây, ông ta móc ruột mình ra để làm dây đàn”. Lời giải thích của Tuấn chẳng ăn nhập gì với bức tranh vẽ nội tạng con người, trong đó cái bao tử được ráp lại bởi hai hàm răng lởm chởm. Tuấn nói tiếp: “Em cũng chẳng hiểu sao em vẽ người mà lại không có cái đầu, có lẽ vì em là người điên”. Rồi Tuấn dẫn tôi sang bức tranh khác và giải thích: “Đây là hình con gà, em vẽ bức tranh này vào năm Ất dậu, con gà tượng trưng cho sức mạnh để đá độ. Nhưng em lại nhớ đến nạn đói năm Ất dậu 1945, miền Bắc của chúng ta chết hàng triệu người...”

Trong phòng treo hơn mười bức tranh của Tuấn, bức nào cũng đẹp, táo bạo và đầy ấn tượng. Thật khó mà hình dung rằng đây là tranh của một người điên.

Bệnh nhân thứ hai mà chúng tôi gặp ở đây – cũng rất tình cờ – lại có một câu chuyện hoàn toàn ngược lại với Lê Viết Tuấn. Đó là Nguyễn Văn Hoàng. Nhưng anh ta tự đặt cho mình biệt danh là Tony Hoàng cho nó sang trọng hơn, phù hợp hơn với tính cách của một tay chơi. Trong bệnh án của Hoàng có đoạn: “Khởi bệnh từ tháng 11 năm 2002, mất ngủ, luôn nghĩ mình tài giỏi, tiêu xài hoang phí. Bệnh nhân đang học trường nhạc được chín năm, đến năm cuối thì bỏ học. Sau đó làm nhiều việc linh tinh nhưng không làm gì đến nơi đến chốn, ăn xài phun phí, tự cho mình là giàu có, hay yêu sách, nếu không thỏa mãn thì đập phá đồ đạc trong nhà và hăm dọa đánh cha mẹ. Bệnh nhân không có công ăn việc làm nhưng đến các báo đăng quảng cáo tuyển nhân viên khiến gia đình phải giải quyết hậu quả...”

Chúng tôi gặp Hoàng đang làm việc trong khu vực sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, Hoàng hỏi: “Anh là nhà báo?”, tôi gật đầu, Hoàng hỏi tiếp: “Anh vô đây làm phóng sự?”. Thấy Hoàng rất vui vẻ và tĩnh táo như một người bình thường, tôi hỏi: “Em bị bệnh gì?”, “Dạ, bệnh tiêu xài hoang phí”, “Xài như thế nào mà gọi là hoang phí?”, “Mỗi đêm em xài hết tám triệu đồng”, “Xài cái gì mà dữ vậy?”, “Thì nhà hàng, vũ trường, bao mấy em”, “Em có bồ không”, “Nhiều, khoảng tám cô”, “Mấy cô ấy có yêu em không”, “Em cũng không biết mấy cổ yêu em hay yêu tiền của em”. Rồi Hoàng kể tên mấy cô bồ của mình, nào MT, THV, TH, MA... Toàn những diễn viên điện ảnh và người mẫu nổi tiếng. Hoàng cho tôi một lô số điện thoại, địa chỉ nhà và nói: “Vài hôm nữa em xuất viện, em sẽ chở anh đi chơi và bao anh trọn gói. Nhưng kỳ này mình chơi á hậu thôi chớ không thèm chơi hoa hậu, tốn kém lắm.”

Bác sĩ Khanh cho biết, bệnh của Hoàng gọi là hoang tưởng tự cao dẫn đến rối loạn nhân cách, lúc nào cũng thấy mình hơn thiên hạ và cho rằng người khác phải có bổn phận cung phụng cho mình. Trong hồ sơ của Hoàng có một mảnh giấy mà tình cờ bác sĩ Khanh phát hiện trong túi Hoàng: “Tony Hoàng, ba mươi bảy tuổi, độc thân, cao 1,73m, nặng 70kg, trình độ đại học, nghề nghiệp: Kinh doanh địa ốc, điện thoại di động, bán vé máy bay trong và ngoài nước, làm visa, hộ chiếu, cho vay lãi suất bốn phần trăm. Có nhà riêng, xe ô tô. Hiền, vui tính. Rất hân hạnh được làm quen với các cô.”

Cách đây mấy hôm, Hoàng chuẩn bị xuất viện thì tình cờ bác sĩ Khanh phát hiện cũng trong túi của Hoàng có mấy tờ giấy khác, trong đó Hoàng kê ra chi tiết trong một năm Hoàng nằm bệnh viện, tiền lương và tiền điện thoại hàng tháng mà mẹ và anh trai phải truy trả sau khi Hoàng xuất viện là gần 40 triệu đồng, chưa kể tiền lì xì tết và các ngày lễ trong năm. Thế là, Hoàng phải ở lại để điều trị tiếp.

Bác sĩ Khanh nói rằng, Hoàng vẫn là kẻ đáng thương hơn đáng trách. Tuy mỗi người biểu lộ một tính cách khác nhau nhưng suy cho cùng, tất cả đều là nạn nhân của một căn bệnh ngặt nghèo, bi kịch cho đời họ và làm khổ người thân.

Chúng tôi gặp chị Lan, nhà ở Gò Vấp vào thăm đứa con trai tên Võ Văn Khôi, hai mươi sáu tuổi. Khôi to lớn như kẻ bị béo phì, ngồi gục gặt, mắt đờ đẫn vì dùng thuốc an thần liều cao để chặng đứng cơn kích động. Chị Lan buồn bã kể rằng, vợ chồng chị có hai đứa con, một gái một trai, cả hai đều rất ngoan và học giỏi. Khôi lớn lên trong sự đầm ấm của gia đình, đặc biệt là tình thương của bà ngoại. Ngoại đưa đón Khôi đi học từ nhỏ cho đến hết cấp hai. Thậm chí những ngày Khôi đi học võ, ngoại dắt Khôi đến nơi rồi ngồi chờ ngoài cổng cho đến hết giờ vì bà không yên tâm với môn học dễ xảy ra tai nạn. Thế rồi một hôm, bà ngoại về quê và chết ở quê. Trước sự mất mác mà không lý giải được, Khôi bị mắc bệnh trầm cảm, rồi từ trầm cảm trở nên cộc cằn, hung hăng và nổi loạn. Mỗi khi lên cơn, gặp ai Khôi cũng đánh, bất kể đó là cha mẹ ruột của mình. Mỗi ngày Khôi bắt cha phải chở đi đúng năm tiếng đồng hồ vòng quanh thành phố, phải đi đúng tuyến đường và ghé đúng những quán cà phê mà Khôi quy định. Suốt mười năm qua, Khôi đã hành hạ cha mình như thế. Mỗi năm Khôi vào bệnh viện một lần, mỗi lần vài tháng, nhưng vừa xuất viện thì bệnh lại tái phát.

Hai mẹ con ngồi cạnh nhau, Khôi cao to nhưng vô hồn như tượng gỗ, chị Lan tiều tụy, héo gầy, khắc khổ nhưng vẫn nhân hậu, ngọt ngào: “Có những lần hai vợ chồng tôi đưa cháu vào đây, tôi ở lại, ảnh ra về. Bất chợt cháu nhìn theo cha rồi khóc nấc lên, cháu nói: “Cha đã già, tóc đã bạc, đã khổ vì con quá nhiều, vậy mà con cứ đày đọa cha”. Lúc ấy tôi cứ tưởng đâu cháu tĩnh. Nhưng không ngờ khi về nhà thì chứng nào tật nấy”.

Chị Lan vừa nói vừa nhìn con. Tôi nghĩ đến sự chịu đựng mười năm, có lẽ chị đã khô nước mắt!