Hàn Mặc Tử anh tôi - Chương 3 - Phần 1
CHƯƠNG III
BẠN BÈ VÀ ẢNH HƯỞNG
Hàn Mặc Tử ở trong gia đình ít tha thiết đến anh chị em ruột thịt nhưng bạn bè là cả một sức sống năng động của Anh, và cần thiết cho Anh, bất cứ lúc nào, ở đâu.
Bạn bè chi phối Anh dễ dàng chỉ vì Anh dễ dãi, chiều bạn và sẵn sàng chấp nhận phần thua thiệt.
Còn bạn bè thì thương yêu Anh như ruột thịt, không nề hà câu nệ.
Anh Trí chưa bao giờ biết trong nhà sống thiếu đủ ra sao, nhưng lại rất quan tâm đến đời sống của bạn.
Nghe nói, hồi ở Saigon, Anh tự xem như có bổn phận lo lắng cho tất cả “như triết triết gia Mặc Địch, thời chiến quốc chủ trương thuyết Kiêm ái.”
Có lần Hoàng Diệp nghe Mẹ tôi kể chuyện những chuyến ra đi của Anh, bao giờ cũng có một va – li đầy ắp áo quần mền gối, nhưng khi trở về chẳng có gì bưng xách nặng tay cho phiền toái. Xuống xe kéo là xin năm xu trả tiền.
Diệp hỏi anh: “Ở Saigon, tiền bạc làm ra nhiều lắm, sao về nhà không có một xu dính túi?”. Anh cười một cách cố hữu: “Tụi nó đói nhăn răng ra mà để dành tiền làm chi.”
Không phải chỉ ở Saigon, Anh mới biết làm cái việc nghĩa hiệp đó, mà ngay ở Quy Nhơn cũng vậy.
Một lần đang ăn tối, nghe một ám hiệu nào đó ngoài đường, Anh bỏ đũa đứng dậy đi vào phòng, mang ra một bọc giấy lớn, thản nhiên bước ra cửa. Tôi nhìn theo, thấy rõ người bạn thân nhất của Anh đang đứng bên kia lề đường.
Biết Anh thường tiếp xúc ngoại lệ, ngay cả những ngày anh Mộng Châu còn ở nhà, không ai để ý làm gì.
Mẹ tôi thì quán xuyến hơn, thỉnh thoảng lưu ý đến áo quần Anh, bà cho tôi biết có nhiều bộ đồ còn mới biến đi đâu mất, kể cả bộ nỉ nâu, Anh thừa hưởng của anh Mộng Châu để lại.
Tôi hỏi Bùi Tuân, người mà Mẹ tôi xem như con cái, thường sống với chúng tôi nhiều hơn ở nhà anh (cách năm cây số).
Tuân hời hợt: “Có lẽ để giúp một vài người bạn vừa đi tù về.”
Tôi tò mò nhận xét những ai mặc âu phục và những ai mặc nam phục. Về sau tôi biết rõ hơn. Kể ra thì cũng xứng đáng được anh Trí giúp đỡ.
Ở Saigon về, Anh tiếp xúc với nhiều bạn hữu, xa có gần có. Ngoại trừ nhóm Phong Đình thưa thớt, còn toàn là lớp trẻ mà là cựu học sinh College Quy Nhơn. Họ đều là bạn anh Trí, có người như Trọng Quy cùng lớp với tôi biết nhau thân nhau từ ngày còn đi học.
Quậy nhất đám là mấy tay Thúc Tể, Trọng Quy, Bùi Tuân thì chất phác, Yến Lan hiền lành e ngại, Chế Lan Viên như cô nữ sinh thẹn thò nhưng đôi mắt có nhiều ánh lửa vàng tinh tế. Hình như anh Trí đặc biệt mến Hoan hơn cả. Còn Hoàng Tùng Ngân, tôi gọi là trầm ngâm vì ít nói mà Mẹ tôi khen có cái miệng sang tướng. Hoàng Diệp thì có dáng dấp thi sĩ đa tình. Tôn Thất Vỹ khắc khổ như một nhà tu. Còn anh Mĩ (hay Thống gì đó) một người bạn đến sau, hơi ngỡ ngàng một chút, thỉnh thoảng đưa bài thơ cho anh Trí phê phán mà vẻ áy náy bồn chồn khiến Anh bật cười nói đùa: “Nghe nói Anh có bài thơ tuyệt vời lằm, còn làm bài khác làm chi nữa. Sao không mang xuống cho anh em xem với.”
Anh chàng đỏ mặt, Bùi Tuân quay nói nhỏ: “Hắn mới cưới vợ.”
Nếp sinh hoạt thật vui thích và nhẹ nhàng.
Thỉnh thoảng anh Trí nhận được thơ Bích Khê, Trần Thanh Địch hay Quách Tấn.
1. QUY NHƠN VỚI ĐƯỜNG KHẢI ĐỊNH.
Ở Quy Nhơn có con đường Khải Định chạy băng qua thành phố duyên hải đó như một nét cắt ngang. Con đường mà anh em Hàn Mặc Tử xem như thắm thiết mặn mà, chỉ vì liên quan đến anh Trí một cách kì diệu.
Con đường đó ràng buộc vào định mệnh gia đình tôi.
Vẫn ở nhà thuê từ ngày cha tôi mất đi, sống với anh Mộng Châu gần như nghèo nàn.
Dọn đi đâu rồi cũng trở lại đường Khải Định. Ở phía tả, dọn qua phía hữu. Ở số lớn lại quay về số nhỏ. Tôi còn nhớ lúc bên cạnh bà Phán Hạc, không có ngày nào những anh học trò đã lớn sầm lên rồi, lại không tạt vào phá phách. Họ xem như nhà họ, nên tha hồ.
Thỉnh thoảng như cơn gió lốc kéo nhau vào lục phá vang cả phố, hò hét giành giựt nhau từ cái kẹo còn sót lại trong thùng bánh của chị Như Nghĩa, đến nồi cơm nguội dưới bếp, không thèm che đậy cốt cách của mình. Họ thương nhau, cả những lúc đấm đá nhau, để rồi ôm nhau cười ha hả.
Con đường Khải Định! Nơi đây nhiều tài hoa vụt sáng lên rồi rơi rụng.
Nơi đây, màu sắc dị biệt, tương phản đó rồi lại hòa hợp dễ dàng trong một bức tranh lạ, mà nét tình từ xôn xao không phản sắc, không phản tượng với đám mây mù mà họa sĩ thiên nhiên đã báo trước một phong vũ bất ngờ.
Người ta nghe tiếng ngâm thơ, sang sảng hào hùng, khi thì xuýt xoa não ruột, phê phán nhau, cãi cọ nhau chung quanh một bộ bàn ghế mây cũ kĩ chưa biết nằm xuống lúc nào. Những cặp giò chen nhau gác lên cái bàn nhỏ xíu như trong một cuốn phim các lãng tử miền Tây Hoa Kì, để mơ màng quên đi một chốc, chị bán chè đậu ván đang chờ trả tiền trước cửa.
Nếu có ai để ý sẽ thấy sau hàng dâm bụt căn nhà đối diện với số 20 những nường con gái Huế, Cẩm Thắng... đang lắng nghe mấy vần thơ tuyệt diệu đó trở thành bất hủ.
Càng về khuya, càng huyền hoặc với tiếng đàn tranh thánh thót, thoát ra từ khuê phòng, quyện lấy tiếng tơ xa vắng khi đầy khi vơi, trong các điệu Nam ai, Nam bằng, rồi nhẹ nhàng len vào giấc mơ hồ điệp những kẻ đang yêu.
Đó là vùng trời tuyệt đẹp của cái thành phố nhỏ bé mang tên Quy Nhơn. Vùng trời mà Hàn Mặc Tử và các bạn dành riêng cho họ, bao nhiêu trìu mến không quên được cho đến ngày nay.
Năm mươi năm rồi, bạn cũ anh Trí, kẻ mất người còn có ai nhớ đến bầu không khí thương yêu ràng rịt mà không khỏi luyến tiếc bâng khuâng.
Một thời mà không ai hờn giận ai, oán trách ai.
Những đau thương nhức nhối, nếu có, thì cũng được cảm nhận như cơn say sưa dằng dặc mà thôi.
Họ sẵn sàng quên đi, đánh loãng đi mối lo âu khủng khiếp đang đe dọa mà có những đêm, cao hứng nổi dậy, xem nhẹ mọi dè dặt, vứt bỏ mọi áy náy, để rồi rủ nhau ôm mền gối ra bờ biển, có cát trắng, có thông reo, nằm gác chân lên nhau, ngắm vùng sao bổn mạng đang chói sáng hay lu mờ, khoan khoái ôm nhau bình thản ngủ một giấc ngon lành, dưới bầu trời đầy tin tưởng của họ.
Ôi! Có tình bạn nào đẹp đẽ sáng ngời hơn, cao quý hơn thế hệ đó không?
Làm sao mà anh Trí không dám sống cho họ hoàn toàn được.
Làm sao có thể hối tiếc những gì Anh đã làm cho họ mà chỉ vì họ mà thôi.
Ngay cả Mộng Cầm, thiếu nữ nổi tiếng một thời trong các huyền thoại, cải lương tiểu thuyết, trong các bản tân cổ nhạc chỉ vì anh Trí say sưa viết:
Nghệ hỡi nghệ, muôn năm sầu thảm
Nhớ thương còn một nắm xương thôi
Thân tàn ma dại đi rồi...
Và:
... Nhớ hàm răng, nhớ hàm răng
Mà ngày nào đó vẫn khăng khít nhiều...
Người con gái của lầu ông Hoàng đã thật thà tâm sự: “Coi hai tai đã dày lên rồi! Triệu chứng phong cùi đó.”
Đau đớn chưa!
Có lẽ nào những người con trai tình nghĩa của thành phố Quy Nhơn không nhận ra hai tai Anh đã dày lên rồi sao?
Mẹ tôi, mỗi lần nghe ai nhắc đến tên một người nào đó trong đám tình nghĩa mà bà đã thuộc làu, thì mắt bà rướm lệ, nghẹn ngào rồi...
Bà có biết đâu, những người con trẻ đó, còn dám làm nhiều việc không ai dám. Họ dám xô ngã, dám đập phá những gì đang chặn đứng họ.
Đó là những chàng trai thời loạn, ít nữa là ở ngưỡng cửa thời loạn, mà từ văn hóa, chính trị, xã hội đều chen lấn nhau, chiếm cho mình một chỗ đứng.
Anh Trí cũng vậy, với huyết thống Cần Vương xa xưa, Anh viết:
Đạp chân lên đường máu
Anh gây chuyện li kì
...
Không có nhà ai cho nghỉ bước
Vì anh là kẻ chẳng giàu sang
...
Ban đêm anh ngủ, túp lều tranh
Chỗ tạm dừng chân khách bộ hành
Đấn sáng hôm sau anh cất bước
Ra đi với cái mộng chưa thành.
Họ coi thường dư luận, phế phán lỗi thời, sống buông thả, đánh đổ một quan niệm, dựng lên một lá cờ. Dù lá cờ đó mang hai chữ “khoái lạc” hay là gì đó nữa... miễn là làm nghiêng ngửa hết, để dựng lại hết, ngay ngắn hay không là chuyện khác.
*
“Đám quỷ sứ”, mà Mẹ tôi hay mắng yêu, chia ra làm hai nhóm.
Trong khi một bọn kéo vào miền Nam để dụng võ như những tên lãng tử đi tìm địa bàn đánh đấm, thì ở miền Trung lặng lẽ dụng văn. Họ đem thi phú văn chương tác động tinh thần dân tộc, yêu cái yêu của quần chúng, thù cái thù của dân tộc. Anh Trí viết:
Trong bài “Làng Quê”:
Từ khi trong quán khách
Anh bứt áo ra đi
Nước mắt em ràn rụa
Lòng anh xiết sầu bi
Thương em không dám nghĩ
Trong lúc nước nhà nguy
...
Theo em bên giấc ngủ
Theo em bên bánh xe
Nước mây còn quyến luyến
Tiếng lòng còn lâm li
...
Đi, đi, đi mãi nơi vô định
Tìm cái phi thường cái ước mơ
Chế Lan Viên nhắc lại lời trối trong “Điêu tàn”:
Cả sự nghiệp của đời ta rực rỡ
Cả muôn dân Lâm Ấp, chiến binh ơi
Cả non nước Chiêm Thành xưa rực rỡ
Ta chỉ còn nhìn được một lần thôi
...
Rồi trong tay người ta xin giao phó
Hãy vui lên dấn bước hát vang trời
Hãy bước đi trên gió hùng sóng cả
Mà đón ngày xuân thắm với trời tươi.
Những chàng trai Quy Nhơn đã đón cái xuân thắm ấy trong “Nắng xuân” của Tôn Thất Vỹ, của Hàn Mặc Tử trong “Mùa xuân chín”, “Gái Quê”, và không hẹn mà cùng nằm bên nhau trên sạp báo ông Hồ Văn Bá đường Khải Định.
Người bạn Bình Định thế đấy! Vẫn tình nghĩa tha thiết như ngày xưa.
Chiều chiều, mây kéo về kinh
Ếch kêu giếng loạn, thảm tình đôi ta.
Và luôn luôn hãnh diện hướng về địa phương mình những xóm làng, con sông, bờ đập:
Thung thăng bèo nước, bến Dương Lăng
Nước chảy bèo trôi đã mấy trăng
Sông Đá, Hàn kia, xơ xác nhỉ
Đập bờ Độ ấy nhớ nhung nhăng?
(Văn An)
Rồi những con cò lặn lội bờ sông:
Khách xa gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy, năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang.
(Hàn Mặc Tử)
Và họ cũng chuẩn bị những gì có thể xảy ra.
Một sáng hoa không nở
Một đêm trăng không trong
Một chiều mây bỡ ngỡ
Ôm chặt lấy đầu thông
...
Không lẽ mùa thu lạnh
Mà vắng vẻ trước sau
Chim bạch câu
(Yến Lan)
2. SAIGON VỚI ĐƯỜNG ESPAGNE
Những bài thơ nhẹ nhàng, những mối tình bỡ ngỡ, và ngay cả ý niệm một cuộc cách mạng, cũng lặng lẽ âm thầm, khác với những ồn ào xáo trộn của miền Nam, mà riêng Saigon là tâm điểm, trong đó, chúng ta đang có bạn bè sống chật vật trên cái chòi gác trọ nhỏ hẹp bẩn thỉu, con đường Espagne. Khoan nói chuyện đấm đá làm ăn gì.
Trần Thanh Mại viết về họ có phần nặng tay, trong cuốn “Hàn Mặc Tử”:
“Kế là bọn làm báo, nhưng kì thực chỉ có Trí là có chỗ làm, còn thì đang đợi việc, hay cũng tin thế đi, chứ suốt đời họ cũng không làm cho một tờ báo nào.
Dẫu sao, bây giờ thì họ là những “vị vũ chi giao long” đã, và trong tư cách ấy, họ có quyền ăn bám mà không thẹn.”
Thật ra, thì không ai thẹn, vì họ có thói quen sống với nhau không kiểu cách gì, mà chính anh Trí lo sợ họ. Mỗi lần, lãnh tiền về là phải trả lời chất vấn: “Còn đủ không? Có đem cho ai ăn nhậu không?”. Khiếp chưa?
Ông Mại viết: “Hàn Mặc Tử dễ dãi, ai cũng thân được, ai cũng lợi dụng được, và đối với ai chàng cũng chiều chuộng như phải chịu ơn họ.”
Anh vốn nhút nhát, không hề biết chuyện “chơi bời”. Họ đưa anh đi “ăn nhậu”, đưa anh vào động “tiên nâu”, ổ “nhền nhện”. Anh càng sợ hãi, họ càng lôi kéo. Anh la hoảng lên: “Đồ quỷ sứ”. Rồi tháo chạy về nhà.
Nếp sống Saigon vốn buông thả, lại còn viết phóng sự xã hội nữa chứ.
Và họ có đủ lí do ra vào vùng trụy lạc mà không sợ ai phê phán về tư cách, đạo đức.
Người dân Saigon chỉ sợ không có tiền thôi, còn thì mặc thân họ, không ai để ý ai.
Nếp sống đó đưa những người bạn trẻ chúng ta vào thế giới trụy lạc, họ tranh nhau, tặng nhau những bài thơ cuồng loạn, khiêu dâm trắng trợn.
Anh Trí cảm thấy rối loạn tâm thần, trở thành mục tiêu cho họ thí nghiệm, phá phách.
Họ là những đứa con giòng giõi thế phiệt hẳn hoi, (giòng Baudelaire rồi!) nhưng tự ném mình vào rác rưởi bẩn thỉu ô trọc, nói là để tìm cảm hứng trong thi văn. Và họ nghĩ, thiên tài phải đặc biệt như vậy. Họ muốn anh Trí cũng nên đi vào con đường đó. Âu cũng là hảo ý của họ. Họ quyến rũ anh, mời mọc anh bước vào thế giới ma loạn của họ, bằng những câu thi tuyệt đẹp, cám dỗ như ru:
Ô! Đừng có ngớp, mời anh hãy bước
Qua nơi này là cách biệt trần gian
Bước đi anh, sa gầm trải lòng đường
Trời tôi rộng. Này đây, tầng cửa khác
...
Anh đừng run, đừng dại, cũng đừng điên
Lẹ làm sao, địa ngục hiện ra liền
Anh đừng khớp, lòng tôi mang địa ngục.
Họ cố đuổi theo anh, lôi kéo anh vào trác táng:
Tứ thuốc phiện, thu nhập khí hồn ma
Ồ! Tội chi ta không vào địa ngục
Giam chung thân mà sướng quá thiên đường
...
Phà hơi lên, truyền nhiễm thấu trần ai
Hoan hô xác thịt chiếm ngôi thần.
Sống bên anh tử thuở bé, tôi nhận thấy anh luôn trong sạch, từ cảm nghĩ cho tới nếp sống. Chiều bạn rất thật thà, không hề có hậu ý. Và cũng chưa hề có phản ứng nào có thể làm mất lòng bạn. Bây giờ thì, anh sợ họ như một thứ ma quỷ, tìm cách lẩn tránh họ.
Từ ngày anh suýt chết ngoài biển Quy Nhơn, anh thu mình lại, sống nội tâm, trầm mặc xa vắng, không có phản ứng tích cực.
Vậy thì lần này nhắc anh nhớ lại tai nạn xưa, vì anh suýt bị nhận chìm trong hố sâu sa đọa, tội lỗi.
Trong bài “Ave Maria” mà anh đã xuất thần sáng tác những lời tạ ơn nồng nàn, tha thiết:
Lạy bà là Đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn lộc từ bi
Cho tôi dâng lời cảm tạ phò nguy
Cơn lâm li vừa trải qua dưới thế
Tôi cảm động rưng rưng hai hàng lệ
...
Cho tình tôi nguyên vẹn tơ trăng rằm
Thơ trong trắng như một khối băng tâm
Luôn luôn reo trong hồn, trong mạch máu
*