11. Hẹn hò Paris
Hẹn hò Paris
Dành tặng “Midnight In Paris” và tác giả “Một mình ở châu Âu
Biết phải nói thế nào nhỉ?Hạnh phúc đến thấy nước mắt mình rơi rơi…
Tôi không thể nhớ nổi mình đã reo vui hớn hở như thế nào khi nhận cuộc gọi của anh từ nước Pháp. Tâm trạng háo hức của người đang yêu khi chuẩn bị gặp lại một nửa của mình sau bao ngày xa cách khiến tôi cười tủm tỉm suốt trên chuyến bay của Emirates Airline. Nhưng còn một điều nữa khiến trái tim tôi rộn rã đập mạnh hơn, đó là cảm giác của lần đầu tiên tôi được đặt chân đến thành phố lãng mạn nhất thế giới.
Paris ơi, em đến hẹn hò với anh đây!
Paris đón tôi khi hoàng hôn đang dần buông mình xuống sông Seine. Tôi mải mê ngắm nhìn màu tím lãng đãng của vệt nắng cuối ngày còn vương lại trên những cây dẻ dọc bờ sông để rồi chợt giật mình khi cô tiếp viên hãng hàng không lại nhắc khẽ.
“Mademoiselle, Paris kia rồi”.
Tôi rối rít xin lỗi vì ngượng ngùng cho cái lần đầu tiên thấy Paris của mình.
“Ồ, không sao, Bienvenue à Paris!”.
Tôi xin được chết ngàn lần chỉ để nghe cái giọng nói quá đỗi ngọt ngào ấy thốt ra từ một đôi môi đỏ hồng, chiếc mũi cao thanh tú và đôi mắt xanh biêng biếc như chứa một ma thuật nào đó của cô gái.
Ôi, Paris! Đến cả con gái cũng có thể hạ gục ta.
Sân bay Charles De Gaulle kia rồi. Tôi đã từng ao ước được một lần đặt chân xuống nơi này. Giờ đây tôi có thể mỉm cười sung sướng khi được tung tăng dạo bước trên nền nhà mát rượi. Tôi xuống máy bay và tìm cho mình một chỗ thật thoải mái để ngả lưng rồi sau đó lấy điện thoại ra gọi cho anh. Nhưng đôi mắt của tôi như muốn đóng lại ngay lập tức khi đọc dòng tin nhắn của anh vừa mới gửi.
“Công việc anh bận đột xuất nên không ra đón em được. Em đón taxi rồi đến địa chỉ này nhé...”.
Lấy một hơi thật dài để hít thở bầu không khí của Paris, tôi lên taxi và im lặng nhìn Paris, nơi được mệnh danh là kinh đô ánh sáng với một nỗi hụt hẫng không thốt nên lời.
“Mademoiselle, lần đầu đến Paris hả?”.
Tôi nhìn người lái xe taxi qua kính phản chiếu, ông khoảng chừng bốn mươi lăm tuổi và có nét đặc trưng của người Pháp. Tôi quay đầu nhìn qua ô cửa kính, một khoảng lặng để ngắm Paris về đêm với một tâm trạng bồn chồn.
“Trông cô buồn lắm. Paris sẽ làm cô vui lên thôi”.
“Oui, Merci!”
Tôi cảm ơn ông rồi kéo vali trên con đường lát đá của phố Rue des Barres. Bà chủ nhà nhìn tôi một lượt từ đầu tới chân với ánh mắt hình viên đạn, chắc bà không thích khi biết tôi là bạn gái của Nguyên từ Việt Nam sang. Từ xa tôi thấy phòng số 8 đã mở sẵn cửa, tôi kéo va-li vào bên trong và thấy anh đang mải mê nhìn những biểu đồ trên màn hình vi tính. Nghe tiếng bước chân, anh quay lại nhìn tôi vài giây rồi lại chúi mũi vào những màu xanh đỏ đang nhún nhảy trên các đồ thị trông như những ngọn nến.
“Em mệt không? Nghỉ ngơi đi, lát mình đi ăn tối nhé”.
Tôi nằm im trong bồn tắm để nước ấm xua tan đi mọi suy nghĩ mông lung và những mệt mỏi của một chuyến đi dài.
“Đành chấp nhận thôi. Anh là người như thế mà”.
Thiếu chút nữa Paris sẽ để lại ấn tượng xấu trong tôi nếu như hôm đó anh không chuộc lỗi bằng một bữa ăn kiểu Pháp tại một nhà hàng sang trọng đậm chất Paris như lời anh từng kể qua Skype. Chúng tôi bước đi tay trong tay dưới ánh đèn đường vàng mờ mờ ảo ảo và tôi lắng nghe được cả tiếng gót giày mình đang nện xuống mặt đường. Tôi thầm ghen tị với cặp đôi vừa mới lướt ngang qua khi chàng trai nắm chặt tay cô gái và hôn nhẹ lên má cô khiến cô gái bẽn lẽn nhưng ánh mắt ngời ngời hạnh phúc. Khuôn mặt và ánh mắt đó chỉ có thể thấy được ở những người đang yêu mà thôi. Tôi tự hỏi, nếu ai đó nhìn vào mình thì họ có nhận ra tôi cũng có nét tương tự như cô gái kia hay không?
“Ước gì tảng đá nào đã chắn lối đi trong tâm hồn Nguyên bị phá tan ra”.
Ngày đầu tiên Paris đón tôi với tâm trạng như vậy đó!
“Anh dẫn em đi dạo nhé!”.
Tôi đang khoác trên mình chiếc váy ngủ mỏng tang rồi sà vào lòng anh nũng nịu.
“Anh đi mòn dấu giày ở Paris rồi. Em nên đi một mình để tự thưởng thức cái thú khám phá Paris như thế nào”.
Tôi như một con mèo cụp tai tiu nghỉu nhìn Paris về đêm thơ mộng qua ô cửa nhỏ.
“Ta đến Paris hẹn hò như thế này sao?”.
Tôi quyết định một mình khám phá Paris bằng cách tra thông tin những địa điểm mà khách du lịch hay lui tới trên Google. Trước tiên tôi cần quay lại sông Seine để thỏa cái trí tưởng tượng về độ lãng mạn khi đứng trên dòng sông thơ mộng ấy. Ô la la, dòng Seine thơ mộng hơn nhiều so với lúc tôi đứng trên một cây cầu nào bắc ngang qua sông Sài Gòn. Tôi mua một cây kem và liếm láp cái vị mát lạnh tan dần trên đầu lưỡi của nó.
“Thôi thì em hẹn hò với anh vậy Paris ơi!”.
Thấy hai bên đường có những cửa hiệu nhỏ bày bán sách báo, sự tò mò nổi lên làm tôi không tài nào kiểm soát được bước chân mình dừng lại trước quầy sách báo mà các tác giả nổi tiếng như Hugo, Balzac, Filzgerald... được sắp xếp một cách hết sức gọn gàng. Ông chủ nhìn tôi như mời gọi vào chốn thiên đường này rồi đọc cho tôi nghe những vần thơ khiến tôi ngẩn tò te.
Paris
so beautiful at night
And during the day is beautiful also
The Eiffel Tower is located in the center of Paris
But all the flowers in Paris are blooming in the parks
And at la seine
Yes spring is heret in Paris
And I am enjoying the spring
But the flowers in the parks here in Paris are beautiful
Because they are a show of colors
“Ôi hay quá! Thơ do ông sáng tác ư?”.
Tôi cứ ngẩn ngơ nhìn ông như một cô học trò nhỏ vừa được nghe thầy giáo dạy văn đọc thơ.
“Oh, non... Paris Song của Aldo Kraas đấy”.
“Thế ạ? Tiếc là cháu không thể đọc hiểu những cuốn sách viết bằng tiếng Pháp được bày bán ở đây”.
“Không sao! Tu es belle, cô gái phương Đông”.
Ông vẫn vui vẻ dù tôi từ chối không mua một cuốn sách nào. Chắc ông ấy chưa đủ độ lãng mạn để níu kéo tôi chết chìm mê muội trong đống sách ấy. Tôi nhìn thấy một chàng họa sĩ trẻ đang vẽ tranh cho du khách nên dừng chân ghé lại. Anh ta khoảng chừng ba mươi lăm tuổi, mái tóc đen và đôi mắt nâu sâu hun hút, một nét rất Pháp thoảng qua làm tôi phải chú ý gương mặt người nghệ sĩ này. Người chen vào chỗ anh ta đông dần nên tôi đành lơ đễnh ngó qua những người họa sĩ khác, một ông họa sĩ già đội mũ kiểu bê-rê đang họa cho một bà lão ăn mặc rất thời trang trong bộ đầm xanh tiffany làm nổi bật làn da trắng muốt chứng tỏ thời gian đã thất bại trước việc cướp đi nhan sắc quý phái của bà.
Tiếng xì xầm mỗi lúc một lớn khiến tôi tò mò quay đầu lại nhìn đám đông đang vây quanh một ai đó. Hay là có người bị xỉu nhỉ? Tôi cũng cố chen chân vào nhìn để xem có chuyện gì xảy ra nhưng rồi sững người lại vì bên trong vòng tròn đông người kia là bức họa một cô gái đang ăn kem với vẻ mặt vô cùng mãn nguyện nhìn lên bầu trời Paris, nét vẽ vô cùng tinh tế kèm theo dòng chữ “Bienvenu à Paris, cô gái phương Đông”.
Mọi người nhìn nhau một lượt như đang muốn tìm kiếm cô gái tóc đen kia là ai, rồi sau đó tất cả ánh mắt đột ngột dừng lại tôi trước khi họ lại liếc vào bức tranh lần nữa.
“Đúng là cô gái phương Đông này rồi”.
Tôi không biết phải làm sao trước tình huống khó xử này, để mặc bức tranh đó rồi đi hay lấy nó và tìm người họa sĩ đã vẽ mình. Một cụ già tủm tỉm cười trước bộ mặt ngớ ngẩn của tôi nên đã lấy bức tranh ra khỏi giá vẽ và sau đó cuộn nó lại rồi trao vào tay tôi.
“Quà của Paris!”.
Cụ hôn lên hai má của tôi và bước đi vào dòng người đang đủng đỉnh trên phố sau khi tôi chỉ kịp thốt lên cái từ cơ bản mà mình nằm lòng bằng giọng Việt đặc sệt - “Merci”.
“Ôi Paris, một món quà tuyệt vời”.
Cảm xúc cho lần đầu tiên được hẹn hò thật tuyệt vời. Tôi lại có một cảm giác lâng lâng khi ngắm nhìn bức tranh về mình đang ăn kem ngay giữa Paris tấp nập người qua, tôi nhìn dòng người lướt đi giữa Paris và tự thầm kiểm nghiệm lại những gì mình đọc trong sách và internet mang lại. Người Paris có một cái gì đó khiến ta phải đứng lại nhìn, bước chân họ đi như đang muốn nói “tôi là người Paris”, phải chăng vì họ quan niệm rằng “phải làm đẹp vì Paris”. Tôi nhìn lại bản thân và tự cho mình một vị trí của khách du lịch như bất kì vị khách ba lô nào với áo thun, quần jean ngắn ngủn te tua đôi chỗ và đôi giày ba ta thoải mái bước trên đường.
Ngày thứ hai, tôi đã hẹn hò với Paris với một món quà bất ngờ như thế đó.
“Bức họa đẹp đó!”.
Nguyên liếc nhanh qua bức họa rồi nhấc tách cà phê đen pha phin đang chảy tí tách từng giọt từng giọt đến bàn làm việc. Anh ừ hử cho qua chuyện. Dường như mọi lời tôi nói với tâm trạng háo hức về anh chàng họa sĩ đều không đọng lại một chữ trong đầu anh. Tôi bước qua khỏi cánh cửa để hít thở khí trời mát lạnh của Paris. Có phải vì anh đến Paris đã quá lâu rồi nên không còn cảm được hơi thở nhè nhẹ của Paris trong buổi sáng, hay nơi trời Tây làm tâm hồn anh càng ngày càng chai sạn đi trước cuộc sống thường nhật? Những chiếc túi xách XL, kính Gucci hay nước hoa Channel mà Nguyên gửi từ Paris về trong dịp ngày lễ tình yêu hay mùng 8/3 đã từng làm tôi vô cùng hãnh diện trước ánh mắt ghen tị của lũ bạn, nhưng giờ đây tôi thấy mình cần phải thoát ra khỏi gánh nặng vật chất xa hoa phù phiếm đó. “Paris, anh muốn hẹn hò với một cô nàng fashion hay sport đây?”. Tôi không nghe tiếng anh trả lời nhưng chắc chắn tôi thấy chẳng ai thèm quan tâm mình mặc gì, ngay cả Nguyên. Paris giống như một buổi trình diễn thời trang mà đường phố chính là sàn catwalk và những người Paris là người mẫu chuyên nghiệp và du khách là những người mẫu nghiệp dư.
Tôi băn khoăn nơi nào mình sẽ đi khám phá tiếp theo đây. Ôi nhiều quá! Tôi vẫn chưa biết gì về Paris cả, hẹn hò là để tìm hiểu mà. Không biết ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi lại nhìn thấy đôi giày màu đỏ của mình đang đứng trong nghĩa trang Lere Lachaise. Nếu ở Sài Gòn thì không đời nào tôi lại dám đến nghĩa trang một mình, nhưng người tình Paris của tôi thì thầm mách bảo bằng giọng nói dịu dàng như tiếng violin du dương của Chopin và cái ôm ấm áp của dòng Seine.
Tai tôi nghe không nhầm đó chứ? Bản nhạc Nocturne No.2 của Chopin vang lên với đủ cung bậc cảm xúc của sự day dứt, bồi hồi khi lại réo rắt làm trái tim tôi muốn sụt sùi nhưng cái đầu lại ra lệnh cấm làm ồn. Tôi rón rén như một con mèo đang rình chuột thập thò nhìn qua nhành cây để ngắm một anh chàng mà tôi không nhìn rõ mặt quay lưng lại mình đang say sưa với cây violin. “Trời ơi, trong nghĩa trang mà lại có Chopin vang lên thánh thót như thế, mà anh chàng nghệ sĩ kia chắc cũng phải thuộc dạng manly lắm đây. Không biết đó có phải là hồn ma của Chopin thời trẻ đang hiện về dọa tôi không nữa? Paris ơi, chắc ta phải nói lời yêu thôi nhỉ? Mỗi ngày anh tặng em một món quá thế này chắc em xin chết vì tình mất”. Tôi thủ thỉ trong đầu và ngắm nhìn anh chàng nghệ sĩ kia với ánh mắt không rời, chắc phải đờ đẫn lắm đây.
“Rắc! Rắc!”.
Tôi vô tình dẫm lên cành cây khô mà không biết. Tôi chưa kịp quay người nấp thì anh chàng nghệ sĩ kia đã ngừng chơi và xoay người nhanh như một cái chong chóng nhìn tôi.
“Trời ơi!”.
Tôi thốt lên hồn nhiên như cô tiên mà không kịp lấy tay bịt miệng lại. Đó chính là anh chàng họa sĩ đã vẽ tranh cho tôi.
“Chào cô gái phương Đông!”.
Anh ta cất giọng Pháp ngọt lịm lên chào để phá tan đi sự ngượng ngùng trong tôi.
“À, chào anh, hôm trước có phải anh đã vẽ tranh cho tôi không?”.
“Chắc là một anh chàng Paris nào rồi”.
Tôi ghét cái tật mê trai đẹp của mình quá đi thôi. Tôi ngẩn cái mặt ra nhìn với vẻ biểu cảm hết sức ngây thơ của con gái Việt.
“Haha, anh đùa đấy”.
Tôi thở phào nhẹ nhõm và thầm tự nguyền rủa mình: “Hãy cẩn thận trước trai Paris”.
Anh chàng Paris dẫn tôi dạo trong nghĩa trang, kia là nơi an nghỉ của Chopin, Oscar Wilde nằm yên giấc ngàn thu ở đây, kia nữa là Molière đang đứng đó mỉm cười với du khách, anh chỉ trỏ và giải thích một tràng dài bằng tiếng Pháp làm tôi muốn chết ngất luôn. Tôi có hiểu được đâu cơ chứ, tôi chỉ mê giọng Pháp của người Paris thôi.
“Thế à? Vậy để anh nói tiếng Anh nhé”.
Tôi gật gù tán dương anh và thi thoảng đáp lại sự nhiệt tình của chàng hướng dẫn viên bất đắc dĩ bằng câu “Merci” quen thuộc. Tiếng Pháp của tôi chỉ đủ để thể hiện tình yêu của mình với Paris như thế thôi.
Paris hẹn hò với tôi ngày thứ ba lãng mạn trong tiếng đàn của Chopin như thế đó.
“Em đi Đức với anh nhé!?”. Tôi năn nỉ Nguyên bằng cái giọng quen thuộc.
Anh nhíu đôi lông mày rậm như hai con sâu róm suy nghĩ một hồi lâu rồi mới trả lời.
“Được thôi em! Nhưng mà anh qua đó tham dự buổi gặp gỡ quan trọng của những nhà đầu tư đó. Em sẽ chán cho mà coi”.
“Em đi vì Berlin thôi. Anh biết em mê châu Âu mà”.
Tôi đam mê đi phượt bao nhiêu thì Nguyên lại thích giam mình trong nhà bấy nhiêu. Anh là dân tài chính khô khan còn hơn một cây củi. Nếu đến Berlin, tôi biết chắc là mình lại lang thang một mình.
Tôi đã từng xem bộ phim Midnight In Paris và không thể dối lòng một niềm mong ước bé nhỏ. Ngay khi mình đang ở chính Paris hoa lệ này, tôi ước gì có một phép màu tại đây, nơi mà nam diễn viên chính Owen đã bước lên chuyến xe ngựa để trở về quá khứ. Ôi mộng văn chương lại được dịp tuôn chảy. Nếu mình được gặp Hemingway và những người thuộc thế hệ “The Lost Generation”, chỉ cần được ngồi nghe họ đàm luận về văn chương thôi cũng đủ rồi. Đủ cho một buổi hẹn hò của tôi cùng Paris, Paris như thế quá lãng mạn trong tôi rồi.
“Cô lại lạc đường hả?”.
Tôi tỉnh cơn mộng nhìn người vừa hỏi mình. Lại là anh ta? Sao ta lẩn trốn hoài mà vẫn gặp nhau thế hả?
“Không! Tôi đang chờ chuyến xe ngựa đưa mình đến quán cà phê gặp Hemingway”.
Anh ta cười một tràng dài như chưa bao giờ được cười.
“Nếu thế thì phải đợi lúc nửa đêm cơ. Bây giờ còn sớm quá”.
“Nếu Paris có phép màu thì lúc nào cũng có thể xảy ra”.
“Cô thật là bướng bỉnh!”.
Thế là chúng tôi quen nhau. Quá tam ba bận, lần này tôi nhất định phải moi mọi thứ trong đầu anh ta về Paris ra mới được.
Hai chúng tôi thong thả tản bộ trên đường phố Paris. Có vài ánh mắt nhìn chúng tôi vẻ như đang tự hỏi, tại sao một anh chàng Paris trông hoàn hảo như thế lại đi cùng một cô gái vừa lùn, vừa xấu đến vậy. Mặc kệ! Tôi phớt tỉnh Ăng- lê với tất cả thắc mắc của mọi người, kể cả cái thói kiêu kì của tháp Eiffel khi ngó xuống nhìn tôi rồi lại đủng đỉnh ngẩng cao đầu cho người ta chiêm ngưỡng và trầm trồ trước nhan sắc kiêu sa diễm lệ của mình. Paris là thế ư? Phải chăng cái đẹp của Eiffel là biểu tượng cho quyền lực của cái đẹp của nơi gọi là kinh đô thời trang thế giới?
“Hứ! Con bé nhà quê kìa”.
Tôi có cảm giác như Paris đang thì thầm để an ủi mình: “Mặc kê cô ả đỏng đảnh đó đi em”.
Để thỏa lòng yêu mến văn chương của tôi, Henry dẫn tôi ghé thăm Maison de Hugo, anh chàng có thể trả lời bất cứ những gì tôi muốn khám phá ở cái thế giới này.
“Anh là một chuyên gia về Paris hả?”.
“Non!”.
“Một nghệ sĩ đa tài? Hay một nhà văn?”.
“Non!”.
Henry lắc đầu và cười thật ma mãnh.
“Thế anh làm gì vậy?”.
”…”.
“Trả lời em đi chứ? Trai Paris kì thế?”.
Henry lại nhoẻn miệng cười.
“Anh là hướng dẫn viên du lịch”.
“À ra là thế! C’est si bon! Nhưng em có cần phải trả tiền cho anh không?”.
“Ha ha, không cần đâu”.
Anh đưa tôi đến quán Dingo Bar mà ngày xưa các thi hào tôi yêu thích vẫn thường ngồi đây để đàm đạo về văn chương. Nó làm tôi nhớ đến quán cà phê De Ja Vu nơi tôi vẫn thường ngồi một mình để chìm vào thế giới văn chương và những bản tình ca Pháp du dương khi vắng Nguyên.
“Em có thấy Hemingway ngồi kia không? Đấy! Đấy!”.
“Không! Em chỉ thấy Filzgerald đang viết This Side Of Paradise thôi”.
Cả hai chúng tôi cùng bật cười. Paris như thể đang nín thở để nghe lén cuộc chuyện trò của hai người vậy.
Ngày thứ tư, Paris hẹn hò với tôi trong thế giới văn chương lãng mạn như vậy đó.
Nhưng tôi vẫn cần có Nguyên...
“Chắc Paris đã cuốn lấy em nên em quên cả việc nấu món ăn Việt cho anh rồi”.
“Em còn quá nhiều thứ chưa kịp làm! Anh xem này, thư viện Francois Mitterrard, nhà ngục Bastile, thánh đường Sacre-Coeur…”.
Tôi liệt kê một loạt cái tên ra rồi tặc lưỡi ra chiều tiếc rẻ. Ánh mắt buồn xo của Nguyên khiến tôi mủi lòng.
“Nhưng em sẽ trổ tài ngay cho anh thấy dù đi đâu thì món ăn người Việt mình vẫn là tuyệt vời nhất”.
Mùi thơm của đồ ăn bốc lên làm cho cái mũi tôi phập phồng vì thèm thuồng và một phần hãnh diện trước cái sự “ngấu nghiến, háu ăn” của Nguyên.
“Em nấu ăn còn ngon hơn cả mấy quán người Việt ở Paris này”.
“Thật thế hả anh? Nhất định em phải đến đó thưởng thức mới được, biết đâu anh tâng bốc em lên chỉ để hàng ngày không phải ăn đồ ăn Tây”.
“Không, anh nói thật đấy! Em nên sang Paris sống luôn với anh. Anh sẽ mở một nhà hàng đồ ăn Việt cho em làm quản lí kiêm đầu bếp trưởng. Đảm bảo chúng ta sẽ thành công. Chúng ta sẽ có đủ tiền để sống sung túc hơn”.
“Anh tích lũy đủ vốn để mở một cửa hàng sao? Ngay trên đất Paris này?”.
Tôi dường như không tin vào tai mình.
“Ừ, em không thấy anh chỉ sống ở cái bàn làm việc hay sao? Anh muốn lo cho tương lai của chúng ta”.
Tôi chỉ cười để không phải phá bĩnh sự hào hứng trong anh. Có thật là anh lo cho tương lai của chúng tôi? Lúc nào và bất kì cái gì anh cũng có thể nhẩm tính trong đầu anh lời hay lỗ bao nhiêu. Tụi bạn vẫn bảo rằng, số tôi sướng khi vớ được một anh chàng luôn có thể bảo đảm tài chính cho cuộc sống hôn nhân. Nhưng không hiểu sao tôi lại thấy hơi mông lung. Tôi ngẩn ngơ nhìn bọt xà phòng trượt ra khỏi cái đĩa khi bị miếng xốp quẹt qua một đường, tôi thầm hỏi nếu một thứ cố tình bị lãng quên thì liệu nó có dễ dàng đến thế sao?
Tôi nhắn tin hẹn Henry gặp ở vườn Luxembug nhưng khi đến nơi tôi mới nhận được tin nhắn anh xin lỗi bận không đến được. Thế đấy, mình đành khám phá Paris một mình vậy. Không hiểu nơi này đẹp như thế nào mà Maris đã chết mê chết mệt vì tình khi nhìn thấy Cosette trong tác phẩm Những người khốn khổ của đại thi hào Victor Hugo. Còn tôi, tôi cũng đang chết mệt vì tình đây. “Paris ơi, anh mênh mông như thế này thì bao giờ em mới khám phá hết chứ?”. Bước chân tôi lần này có thể làm chủ được cái đầu mình muốn đi đâu. Notre Dam đứng đó, sừng sững giữa trời một cách kiêu kì, phải chăng ở Paris, bất kì một nhà thờ cổ kính nào theo lối Gothic hay thứ gì cao lớn đều làm tôi thấy mình nhỏ bé hơn? “Nhưng Paris ơi, anh làm em nhớ đến nhà thờ Đức Bà ở Sài Gòn quá đỗi. Em đã từng đứng trước tượng Đức Mẹ và nhìn người trong màn đêm mà tự hỏi Chúa là gì thế? Một đứa vô thần như mình ngắm nhà thờ vì yêu kiến trúc, còn những người tin yêu vào Chúa thì sẽ nghĩ gì khi ngắm bức tượng của Đức Mẹ? Họ có nghĩ đến vẻ đẹp kiến trúc của một pho tượng là tuyệt tác nghệ thuật như mình nghĩ hay không?”.
Tôi quên mất Paris đã trở mình hờn dỗi từ lúc nào. Bầu trời xám xịt và bắt đầu tung những giọt nước xuống mặt đất. Ban đầu chỉ là những giọt từ từ rơi rơi thôi, nhưng sau đó nó mạnh và nhanh hơn rất nhiều. Tôi cứ để cho những hạt mưa quất vào mặt mình và bước đi trên con đường lát đá cổ kính. Mọi thứ trở nên xám xịt, cả những ngôi nhà cũng bị chìm trong màu xám đó. Mọi người vội vã băng qua tôi và tôi cũng không buồn bận tâm đến một vài ánh mắt ái ngại đang nhìn mình.
“Mademoiselle, cô có sao không?”.
Một vị khách du lịch nhìn tôi ái ngại. Anh lấy ô che cho tôi nhưng tôi chỉ lịch sự cảm ơn và tiếp tục bước đi. Không phải tôi đang bị điên hay thất tình mà tôi chỉ muốn tận hưởng cảm giác được bước đi dưới cơn mưa ở Paris có giống như lúc tôi bước đi ở Sài Gòn không thôi. Mưa đối với tôi giống như một liều thuốc chữa căn bệnh "tâm thần" mình mắc phải bấy lâu nay mỗi khi không kiềm chế được cảm xúc. Tôi tự hỏi, mưa ở Paris cũng một câu hỏi như tôi từng hỏi cơn mưa Sài Gòn nhưng tôi không hề thấy một câu trả lời dù đã hết sức lắng nghe. Tôi dừng chân trước ngôi nhà đó và đột nhiên tôi nghe thấy một tiếng rơi vỡ vụn từ một nơi xa xăm vọng lại.
“Em có điên hay không mà đi dưới mưa như thế! Văn chương mơ mộng cho lắm vào rồi lại đau ốm. Tốn cả đống tiền đi khám bệnh bây giờ”.
Ngày thứ năm, Paris hẹn hò tôi trong cơn mưa và một tiếng rơi trong lòng.
Cuối cùng thì Nguyên cũng chịu rời khỏi cái máy vi tính mà tôi thầm ghen tị là anh yêu nó hơn yêu mình để dẫn tôi dạo phố.
“Cuối tuần rồi mà. Con người chứ có phải cái máy đâu”.
Tôi thấy ánh mắt mình sáng long lanh và hai gò má ửng hồng dù chưa hề được quét phấn lên khi tay trong tay cùng anh sánh vai xuống phố. “Voila, Paris đang ghen với anh”. Chúng tôi dạo bước tới tòa thị chính Paris nhưng chỉ như cưỡi ngựa xem hoa vì anh mang một bộ mặt đưa đám ra trình diện. Tôi kéo anh rẽ hướng khác để rồi cả hai dừng lại trước nhà hát Opera Garnier.
“Ước gì một ngày nào đó tên em được khắc lên bức tường này anh nhỉ?!”.
“Anh không nghĩ mấy ông Bach, Mozart hay Bethoveen lại thích đâu!”.
Tôi ghét nhất là mỗi khi bị anh chêu trọc như vậy.
“Mấy ông đó có mà vui chết đi được khi có một cô gái phương Đông xuất hiện vừa làm bạn vừa làm khán giả cho mình”.
“Ha ha, em làm anh chết vì cười mất”.
Tôi thích nhất là được nghe giọng cười sảng khoái và nét mặt của anh khi cười. Lúc ấy anh mới vô tư làm sao. Dường như mọi vết tích của đô-la đã bay đi đâu mất rồi.
Paris đã lên đèn. Tôi biết Paris đang hờn dỗi với tình yêu của mình nên buông màn đêm xuống sớm hơn mọi khi. “Paris, anh thật ngốc. Dù là ngày hay đêm, nắng hay mưa thì Paris vẫn mang sự lãng mạn một cách rất Paris cho riêng mình”. Tôi khẽ nép vào Nguyên để nghe hơi ấm anh truyền qua mình. Lồng bàn tay vào tay anh, tôi tự hỏi tại sao nó lại lạnh đến thế.
Nhà hàng Les Philosophes số 28 phố Vieille-du-temple, cái tên làm tôi thấy hơi ớn lạnh, tôi không thích triết lí hay triết học một tẹo nào. Nhưng Nguyên nói anh có hẹn với vài người bạn cùng ăn tối và nhân tiện muốn giới thiệu tôi làm quen với họ.
Nhóm bạn của Nguyên mỗi người một tính cách. Lena nhìn như một cô gái chơi trong ban nhạc rock với đôi mắt được vẽ rất đậm trong tông màu đen, trang phục phủi bụi và ra dáng bất cần đời. Tom lại như một học giả trí thức với đôi kính cận trắng mà khi nhìn vào mắt anh tôi thấy được hình bóng của một người thầy nghiêm túc. Alex khác hẳn, anh nom như một diễn viên chứ không phải dân tài chính.
“Bạn gái mày xinh thế Nguyên! Em mà không qua đây thì tụi anh cứ nghĩ nó đồng tính hoặc mê tiền hơn cả phụ nữ”.
Alex nhìn Nguyên rồi lại quay qua tôi liến thoắng.
Bữa tối trôi qua trong sự bàn tán chuyện đầu tư của dân tài chính. May mà Alex đã cứu vớt những giây phút suýt ngộp thở cho tôi bằng cách kể cho tôi nghe những câu chuyện cười pha lẫn giọng Anh và Pháp làm tôi cười ngặt nghẽo.
“Cuối cùng thì ông cũng tới!”.
Alex vỗ tay người thanh niên vừa mới đến. Tôi ngước lên nhìn chợt khựng lại.
“Ô, hóa ra là anh hướng dẫn viên du lịch à?!”.
Henry nháy mắt chào tôi một cách tinh nghịch.
“Gì cơ? Hai người đã gặp nhau rồi sao?”.
Nguyên liếc nhìn tôi rồi lại nhìn Henry.
“Chà! Xin hân hạnh giới thiệu với em, đây là anh Henry thi sĩ”.
Alex tung hứng khiến cho buổi tối trôi qua thật nhanh chóng và rộn rã tiếng cười.
Nguyên không nói lời nào trên suốt đoạn đường về nhà. Chúng tôi vẫn sánh vai bên nhau nhưng lần này tôi mới là người ghen tị với Paris, với cặp tình nhân đang hôn tạm biệt kiểu Pháp.
Ngày thứ sáu, Paris hẹn hò với tôi bằng những trận cười giòn giã và cả một tiếng nén thở dài.
“Lại đi! Em không biết mỏi chân hay sao?”.
Tôi phớt lờ sự cáu gắt của Nguyên mà bước ra đường. “Paris ơi, hôm nay anh hẹn hò cùng một cô nàng cá tính nhé”. Tôi rất hài lòng khi ngắm nhìn mình trong gương trước khi bước ra phố. Tôi phải ra khỏi căn phòng ngột ngạt đó để hít thở làn gió mát của Paris. Dường như tôi có thể ngửi được làn gió từ thế kỉ trước thoảng về.
“Một cô nàng fashion rất cá tính”.
Henry nhìn tôi rồi buông một lời nhận xét làm cho cái mũi của tôi tự động hếch lên trời một chút.
“Chắc anh ngồi đây và khen hết cả đời thì cũng không khen hết những người con gái bước chân qua chốn này đâu”.
“Cùng một phong cách thời trang như em, nhưng anh biết em có điều khác biệt với những người khác”.
“Có phải vì em vừa lùn, vừa xấu không?”. Tôi vặn vẹo.
“Non! Non! Mỗi người có một vẻ đẹp khác nhau mà chỉ có thần Cupid mới biết chọn những ai thuộc về nhau để bắn mũi tên của mình thôi”.
Chúng tôi lặng im không nói gì mà chỉ nhìn về một hướng trước mặt. Thánh đường Sacre-coeur dường như bị bỏ rơi lại phía sau. Phía trước là một Paris hiện lên quá đỗi dịu dàng, những vệt nắng lười nhác buông mình xuống thành phố, từng cặp đôi nắm tay nhau ngồi trên bậc đá để thưởng thức giai điệu đang vang lên nhè nhẹ từ ban nhạc đường phố. Có khoảnh khắc nào thi vị hơn giây phút này, ở Paris nghe nhạc Pháp, trong một không gian không còn gì có thể lãng mạn hơn được nữa. Paris đang nhìn tôi từ dưới thung lũng lên. Tôi giật mình khi Henry ngồi xuống bên cạnh. Tôi lơ đễnh trong chốn thiên đường dành riêng cho mình nên không nhận ra anh đi đâu nãy giờ. Ban nhạc gồm một chàng trai đánh đàn guitar, một cô gái chơi vĩ cầm và một anh chàng ca sĩ tiến lại gần tôi với giọng hát ngọt ngào của Et Moi Dans Moin Coin khiến tôi mê muội.
Tôi giật mình khi nhìn vào mắt Henry.
“Hẹn hò với Paris em nhé!”.
Ngày thứ bảy của tôi trôi qua trong bản nhạc Et Moi Dans Mon Coin như thế đó.